|
Tượng
nữ thần Tự Do
|
Bức tượng Nữ Thần
Tự Do là một món quà thiện chí của nhân dân Pháp tặng cho
nhân dân Hoa Kỳ và được đặt trên một hòn đảo nằm trong hải
cảng New York, hoàn thành vào năm 1886. Tượng Nữ Thần Tự Do
là một nữ đại sứ của tình huynh đệ giữa hai quốc gia Pháp và
Hoa Kỳ, với nước Pháp chủ trương "Tự Do, Bình Đẳng, Huynh
Đệ" (Liberté, Égalité, Fraternité), kết hợp với lòng trông
đợi của người Mỹ về "Đời Sống, Tự Do và việc theo đuổi Hạnh
Phúc" (Life, Liberty and the Pursuit of Happiness).
Hơn một thế kỷ về
trước, một nhà điêu khắc người Pháp đã phác họa ra bức tượng
này rồi kể từ đó, bức tượng Nữ Thần Tự Do đã là một biểu
tượng độc đáo của miền Bắc Mỹ. Đây là hình ảnh của một nhân
vật chịu đựng, khắc khổ, cương quyết với cánh tay vươn cao,
giơ lên ngọn đuốc để đón tiếp hàng triệu người di cư tới
miền đất mới của Bắc Mỹ, họ là những người đi tìm kiếm một
đời sống tốt lành hơn cùng với các tự do chính trị và tôn
giáo. Tượng Nữ thần Tự Do biểu hiện các lý tưởng về lòng
trắc ẩn, sự an toàn, niềm hy vọng, sự hướng dẫn và trên hết
là chủ trương Tự Do của các nhà lập quốc Hoa Kỳ. Bức tượng
cũng là niềm tin của nhiều sắc dân tha hương trên Thế Giới.
Từ cuối thế kỷ 18,
dù cho là nước dẫn đầu trên Thế Giới về các tư tưởng Dân
Chủ, nước Pháp chỉ trải qua hai thời kỳ Cộng Hòa ngắn ngủi,
thời kỳ thứ nhất vào thập niên 1790, tiếp theo cuộc Cách
Mạng Pháp và nền Cộng Hòa thứ hai giữa các năm 1848 và 1852.
Tại nước Pháp, hai thể chế quân chủ và đế quốc (empire) đã
tồn tại lâu dài, khiến cho người dân nước Pháp đã quen với
lòng trung thành với nhà Vua. Cấu trúc chính trị của nước
Pháp chỉ thay đổi vào năm 1870, sau khi nước Pháp thua trận
Chiến Tranh Pháp-Phổ (the Franco-Prussian War) với hậu quả
là sự sụp đổ của đế quốc Pháp do Hoàng Đế Napoléon III lãnh
đạo. Từ nay bắt đầu nền Cộng Hòa Thứ Ba.
Mặc dù phải sống
dưới vương quyền, trong lòng người dân Pháp sống vào thế kỷ
19 vẫn còn ý thức đối kháng lại thể chế quân chủ, vì họ cho
rằng vương quyền là một hình thức chính quyền không đáng
được duy trì. Hợp Chủng Quốc Bắc Mỹ được thành lập vào thế
kỷ 18 và trong hơn 100 năm theo đuổi thể chế Cộng Hòa, nên
hình thức chính quyền của Hoa Kỳ đã khác biệt với các chế độ
quân chủ của châu Âu. Rồi do các ý tưởng và ước vọng về cuộc
Cách Mạng Pháp 1789 đã không bao giờ tàn lụi đối với nhiều
người Pháp, và cũng do chính quyền Cộng Hòa của Bắc Mỹ là sự
thể hiện lý tưởng của ngưới Pháp về "Tự Do, Bình Đẳng, Huynh
Đệ" trong thời đại của Lý Trí, nên bức tượng Nữ Thần Tự Do
đã là một sáng tạo để tượng trưng cho các lý tưởng kể trên
và là một hiện thực của câu nói "Tự Do chiếu sáng Thế Giới"
(La Liberté éclarant Le Monde).
1- Các nhân vật có công đầu.
Hầu tước Lafayette |
Ông Edward de
Laboulaye
(1811-1883)
là một nhà luật học, một giáo sư, một diễn giả được nhiều
người biết danh tiếng và cũng là một chuyên viên về Lịch Sử
Hiến Pháp Hoa Kỳ. Năm 1865, ông Laboulaye đã tổ chức một bữa
tiệc trong đó các người tham dự đã thảo luận về việc cần
phải dựng nên một kỷ vật để tượng trưng cho tình cảm của
nước Pháp đối với cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, bởi vì tại cuộc
Cách Mạng này, nhiều người Pháp đã chiến đấu và đổ máu cho
nền Độc Lập và Tự Do của Bắc Mỹ. Trong cuộc thảo luận, ông
Laboulaye đã tin tưởng rằng dân chúng Hoa Kỳ đã yêu mến
Hầu Tước De Lafayette
và các binh lính tình nguyện Pháp, cũng như họ đã kính trọng
các vị anh hùng Mỹ vậy. Và tình bạn giữa hai quốc gia này
không thể bị quên lãng.
Ông Laboulaye đã
nói: "Nếu một đài kỷ niệm được xây dựng tại châu Mỹ như là
một kiến trúc tưởng nhớ về nền Độc Lập, thì tôi cho rằng đài
kỷ niệm đó nên được xây dựng bằng các cố gắng hợp tác, đó là
một công trình chung của cả hai quốc gia và đó cũng là một
điều tự nhiên".
Trong số các thực
khách có mặt tại bữa ăn đặc biệt đó, có một nhà điêu khắc ở
tuổi 31, tên là
Frédéric Auguste
BARTHOLDI (1834-1904)
Về sau này, nhà
điêu khắc đã nhớ lại như sau: "Cuộc đàm thoại đó đã hấp dẫn
tôi mãnh liệt, đã ăn sâu vào trí nhớ của tôi". Ông Laboulaye
đã xác định lại quan điểm của mình về việc thực hiện một đài
kỷ niệm và đã thúc dục Bartholdi nên qua châu Mỹ để "tìm ra
một ý tưởng hay một kế hoạch có thể kích thích sự phấn khởi
của quần chúng". Ý tưởng về một bức tượng mô tả nền Tự Do đã
ra đời sau bữa ăn định mệnh đó, nhưng việc thực hiện sáng
kiến này phải chờ 21 năm, hay 3 năm sau khi ông
Laboulaye qua đời.
Ý tưởng xây dựng một đài kỷ niệm thuộc về
ông Laboulaye nhưng cỡ lớn của đài kỷ niệm đó lại do ảnh
hưởng của kiến trúc Ai Cập. Năm 1856, ông Bartholdi qua thăm
viếng miền đất của các Vua Pharaohs. Mức độ cổ xưa của các
Kim Tự Tháp, tầm vóc vô cùng lớn lao của các lăng mộ đó đã
ám ảnh nhà điêu khắc người Pháp này và ông Bartholdi đã phải
bình luận rằng các công trình vĩ đại đó đã làm cho người ta
quên đi hiện tại và bị ám ảnh bởi tương lai không giới hạn.
|
Ông Bartholdi trở
lại du lịch Ai Cập vào năm 1869, khi người Pháp khánh thành
Kênh Đào Suez. Việc thực hiện công trình kênh đào này là do
ý muốn hiện đại hóa đất nước của vị Phó Vương Ismail Pasha
và hai năm về trước, khi Phó Vương ghé qua Paris, ông
Bartholdi đã có cơ hội đề nghị với Phó Vương nên xây dựng
một bức tượng của một nữ nông dân Ai Cập (fellah) tay cầm
một ngọn đuốc giơ cao. Đề tài của bức tượng là "Tiến Bộ"
(Progress) hay "Ai Cập mang ánh sáng tới châu Á". Bức tượng
như vậy vừa là một biểu tượng của việc hiện đại hóa đất nước
Ai Cập của Phó Vương, vừa được dùng làm một hải đăng đứng
bên bờ kênh đào mới.
Trong hai năm làm
việc có khi không liên tục, nhà điêu khắc Bartholdi đã hoàn
thành được bản vẽ cuối cùng và một bức tượng nhỏ mô tả về kỷ
vật dành cho buổi lễ năm 1869, nhưng vị Phó Vương vào lúc
này không còn lưu tâm tới bức tượng hải đăng đó nữa và vì
vậy, Bartholdi đã nhớ lại đề nghị của ông Laboulaye khi
trước mà quan tâm trở về dự án của châu Mỹ.
Hình ảnh của một
phụ nữ giơ cao lên một thứ gì đó, thường được dùng trong
nghệ thuật của thời bấy giờ, vì thế việc phác họa bức tượng
Nữ Thần Tự Do của châu Mỹ phải có những đặc điểm tương tự
như bức tượng của một nông dân Ai Cập. Và ông Bartholdi đã
giận dữ khi các báo chí cho rằng vì ông không bán được bức
tượng cho Ai Cập nên đã dùng bức tượng này để bán lại cho
Hội Đoàn Kết Pháp-Mỹ (the Society of the French-American
Union). Lời tố cáo không công bằng này đã không cứu xét tới
việc khảo sát và các năng lực trong nhiều năm của ông
Bartholdi để làm phát triển các ý tưởng ban đầu và các công
lao xây dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do.
2- Ông Bartholdi tới Hoa Kỳ.
|
Năm 1869, ông
Bartholdi đã đề nghị bức tượng "Tự Do" là một món quà của
nhân dân Pháp tặng cho Hoa Kỳ nhân dịp kỷ niệm 100 Năm Hoa
Kỳ độc lập. Năm 1871, để cứu xét sự khả thi này, nhà điêu
khắc đã xuống tầu qua thăm Bắc Mỹ. Khi đứng trên con tầu đi
vào hải cảng New York, ông Bartholdi đã nhận thấy ngay ảnh
hưởng của địa điểm xây dựng đài kỷ niệm, vì nơi đây là hải
cảng mà phần lớn các tầu biển đi vào Tân Thế Giới. Đây phải
là chỗ lý tưởng đặt bức tương "Tự Do". Trí tưởng tượng của
nhà điêu khắc người Pháp đã sống dậy: bức tượng "Tự Do" phải
có hình dạng một nữ thần cổ điển, không giống một nữ nông
dân Ai Cập, với vương niệm trên đầu và ngọn đuốc cầm trên
tay giơ cao, tượng trưng cho nhân cách, uy quyền và sự giải
phóng. 7 mũi nhọn của vương niệm diễn tả sự tự do được tỏa
rộng tới 7 lục địa và 7 đại dương, và ở dưới chân của bức
tượng, cái xiềng đã bị phá vỡ, bộc lộ sự giải phóng khỏi bạo
quyền. Một đặc điểm khác là trên tay bức tượng "Tự Do" có
tấm bảng ghi ngày Tuyên Bố Độc Lập của Hoa Kỳ: tháng 7 ngày
4 năm 1776.
Vào cuộc viếng thăm
Hoa Kỳ lần đầu tiên trong 4 lần đi khảo sát, nhà điêu khắc
Bartholdi đã xúc động trước sự bao la, rộng lớn của lãnh thổ
Hoa Kỳ, đã ngạc nhiên và khâm phục tốc độ phát triển và xây
dựng quá nhanh các thành phố của người Mỹ, cho nên chỉ có
tầm vóc thật lớn của bức tượng mới diễn tả được các quan
điểm không giới hạn về thời gian và không gian, mới bộc lộ
được các đặc tính của miền Bắc Mỹ.
Cuộc viếng thăm này
cũng ở vào một thời điểm rất thuận tiện, vì trước đó vài
tháng, Đế Quốc Thứ Hai của Vua Napoléon III đã bị sụp đổ và
nước Pháp đã có một nền Cộng Hòa mới. Giữa hai nước Pháp và
Hoa Kỳ đang duy trì một tình cảm đoàn kết và thân ái. Nhà
điêu khắc đã lợi dụng được bầu không khí thiện chí tốt đẹp
này để tạo nên các liên lạc cần thiết cho dự án của mình.
Trong các nhân vật mà ông Bartholdi đã làm quen, có ông John
W. Forney là chủ nhân tờ báo Philadelphia và sau này là đại
diện của Hoa Kỳ tại cuộc Triển Lãm 100 Năm tổ chức tại Pháp,
rồi cũng nhờ ông Forney, Bartholdi đã liên lạc được với Tổng
Thống Hoa Kỳ Ulysses S. Grant. Nhà điêu khắc cũng gặp nghệ
sĩ John LaFarge, thi sĩ Wadsworth Longfellow, kiến trúc sư
H. H. Richardson… và cả cộng đồng người Mỹ gốc Pháp sinh
sống tại New York, và nhóm dân này đã ủng hộ dự án xây dựng
một đài kỷ niệm.
Năm 1871, Bartholdi
lại qua Hoa Kỳ để lựa chọn địa điểm đặt bức tượng. Vào lúc
này, các mô hình ban đầu của bức tượng Tự Do đã hoàn tất
nhưng hoàn cảnh chính trị tại nước Pháp lại không ổn định.
Nước Pháp mới thua trận chiến tranh Pháp-Phổ 1870 và phải
bồi thường cho nước Đức 5 tỉ quan tiền (vào khoảng 1 tỉ Mỹ
kim) và cho tới năm 1873, việc bồi thường vẫn còn tiếp tục
và quân đội Đức vẫn còn chiếm đóng miền đông của nước Pháp.
Mặc dù vào tháng 9 năm 1870, chế độ Cộng Hòa được tuyên bố
thành lập nhưng Quốc Hội Pháp lại do các người bảo hoàng
chiếm ưu thế. Khi Quốc Hội chấp thuận một Hiến Pháp Cộng Hòa
vào tháng 12-1875, thì dự án về bức tượng Tự Do đã được
chính thức phổ biến vào một năm trước.
|
Ngày 6 tháng 11 năm
1875, một bữa tiệc lớn được tổ chức để công nhận Hội Đoàn
Kết Pháp-Mỹ (the Union Franco-American ). Ông Edward de
Laboulaye đã là vị chủ tịch đầu tiên của hội này. Hội Đoàn
Kết cũng gồm nhiều nhân vật danh tiếng, kể cả các cháu chắt
của hai vị anh hùng De Lafayette và Rochambeau. Dự án xây
dựng bức tượng Tự Do sẽ là một hợp tác của hai quốc gia theo
đó nhân dân Pháp sẽ hoàn tất và chuyên chở bức tượng tới Hoa
Kỳ, còn cái bệ trên đó đặt bức tượng sẽ do người Mỹ vẽ kiểu,
xây dựng và đài thọ.
Công cuộc vận động
tài chính tại Pháp đã gặp hưởng ứng sớm và nồng nhiệt. Tiền
bạc đã tới từ 181 thành phố và hơn 100 ngàn cá nhân. Nhiều
cuộc gây quỹ đặc biệt được tổ chức, chẳng hạn như nhà soạn
nhạc lừng danh Charles Gounod đã viết ra bản "Thanh
Nhạc Tự Do" (Liberty Cantata) trình diễn tại Đại Hí Viện
Paris. Cũng có một cuộc xổ số 528 giải thưởng với giá vé 1
quan tiền và tại cuộc Triển Lãm Quốc Tế Paris năm 1878 (the
Paris Universal Exhibition of 1878), phần đầu và phần vai
của bức tượng Tự Do đã được làm xong và được trưng bày, các
du khách muốn coi phần bên trong bức tượng phải trả tiền vào
cửa, nhờ vậy tiền thu được đã giúp một phần vào công cuộc
xây dựng bức tượng. Vào lúc này, tấm bảng đồng ghi chú về
bức tượng được viết là: "Đài Kỷ Niệm Độc Lập, Tự Do chiếu
sáng Thế Giới" (Monument de l' Indépendance, la Liberté
Eclairant le Monde). Nhưng các khó khăn gặp phải khi bắt đầu
xây dựng bức tượng đã làm trị giá ước lượng ban đầu 250,000
Mỹ kim lên tới 400,000 Mỹ kim.
3- Ủy Ban xây tượng Hoa Kỳ.
Công trình thực
hiện bức tượng Tự Do về phía Hoa Kỳ đã tiến triển chậm chạp
vì vào tháng 1 năm 1877, chi nhánh của Hội Đoàn Kết Pháp Mỹ
mới được thành lập và được gọi tên vắn tắt là "Ủy Ban Hoa
Kỳ" (the American Committee), lúc đầu gồm khoảng 100 hội
viên, rồi 10 năm sau, số hội viên tăng lên tới 400 người.
Các nhân vật danh tiếng của Hoa Kỳ đã tham gia vào hội này,
như các ông Samuel D. Babcock, một kỹ nghệ gia, John Taylor
Johnson, giám đốc hỏa xa và giám đốc đầu tiên của Viện Bảo
Tàng Mỹ Thuật Metropolitan, John Jay, nhà cải cách xã hội,
William Cullen Bryant, thi sĩ kiêm chủ nhiệm nhật báo, Edwin
F. Noyes, nguyên thống đốc tiểu bang Ohio rồi về sau là Đại
Sứ Hoa Kỳ tại Pháp. Đứng đầu Ủy Ban là nhà luật học danh
tiếng William M. Evarts, sau này trở thành vị Bộ Trưởng
Ngoại Giao. Ủy Ban có ông J.W. Pinchot làm thủ quỹ và ông
Richard Butler làm thư ký, lãnh việc tiếp xúc với nhà điêu
khắc. Ủy Ban Hoa Kỳ còn gồm có một số chính trị gia, thương
gia, các nhà mạnh thường quân, các người yêu nghệ thuật, các
người dân gốc Pháp phần lớn sinh sống tại New York và nhiệm
vụ của Ủy Ban này là gây quỹ 125,000 mỹ kim, là số tiền cần
thiết để xây cái bệ đặt bức tượng Tự Do.
Năm 1876, nhân dịp
Triển Lãm 100 Năm của Hoa Kỳ (America's Centennial
Exhibition) tại Philadelphia, cánh tay phải của bức tượng và
ngọn đuốc đã được đem trưng bày để du khách tới coi. Món quà
tặng của nước Pháp đã được chính thức hóa và Quốc Hội Hoa Kỳ
đã chấp thuận về một địa điểm đặt tượng cùng ngân khoản dùng
vào việc bảo trì bức tượng về sau này.
Ủy Ban Hoa Kỳ, mặc
dù bao gồm nhiều loại hội viên nhưng đa số vẫn là các người
giàu có. Trong số 161,000 mỹ kim quyên góp được cho tới
tháng 11-1884, chỉ có 7,000 mỹ kim do những món tiền nhỏ hơn
100 mỹ kim, tương đương với lương tháng trung bình của một
người dân thường vào thời bấy giờ. Đa số hàng trăm và hàng
ngàn mỹ kim đều từ những nhân vật danh tiếng như các ông
John Jacob Astor, nhà độc quyền về buôn lông thú và bất động
sản tại thành phố New York, Andrew Carnegie, nhà tư bản
thép, Cyrus W. Field, người sáng lập ra công ty điện tín và
đường dây cáp xuyên qua Đại Tây Dương, P.T. Barnum, chủ gánh
xiếc… Ngoài ra, cuộc Triển Lãm Nghệ Thuật New York (the New
York Art Loan Exhibition) đã mang về gần 14,000 mỹ kim do vé
vào cửa. Tới năm 1885, số tiền thu được của Ủy Ban Hoa Kỳ
lên tới 180,000 mỹ kim trong khi đó, phí tổn xây dụng bệ bức
tượng lại tăng gấp hai, làm cho công trình kiến trúc có khi
phải ngừng lại.
Đối với dân chúng
Hoa Kỳ vào thời bấy giờ, một số người bi quan đã chỉ trích
bức tượng là mô tả "Nữ thần tà giáo" (Pagan goddess), một số
khác lại nghi ngờ lòng ngay thẳng của nhà điêu khắc và cho
rằng việc thực hiện bức tượng là trách nhiệm của những người
giàu có sống tại thành phố New York.
Cuối cùng vào tháng
3-1885, bức tượng Tự Do đã được làm xong tại Pháp và chờ đợi
chuyên chở qua Hoa Kỳ. Vào thời điểm này, Ủy Ban Hoa Kỳ phải
kêu gọi tới lòng ái quốc của quần chúng Mỹ: "Nếu bây giờ
tiền bạc không được đóng góp nữa, thì bức tượng sẽ bị trả về
cho người tặng, đó là sự bất hạnh cho dân chúng Mỹ, hay bức
tượng sẽ bị gửi tới một thành phố khác và đó là việc làm mất
danh dự của thành phố New York, chúng tôi yêu cầu các bạn
tránh tai họa đớn đau và buồn tủi này. Chúng tôi xin các
bạn, mỗi người và mọi người, tùy theo phương tiện của mình,
đóng góp theo khả năng và không quên một cơ hội cuối cùng
xây dựng một vinh quang bất diệt cho chính các bạn và cho
Đất Nước". Sau đó, hàng ngàn món tiền nhỏ đã gửi tới Ủy Ban
tổ chức và phần lớn là nhờ vào công lao và sự quan tâm nhiệt
thành của ông Joseph Pulitzer, chủ báo Thế Giới New York
(the New York World).
Ngày 16 tháng 3 năm
1885, một tuần lễ trước khi Ủy Ban Hoa Kỳ ra thông báo kêu
gọi sự đóng góp, ông Pulitzer đã phát động một phong trào
gây quỹ. Trên trang đầu và trong phần quan điểm, ông
Pulitzer đã chê trách các người giàu có, đã không đóng góp
đủ những món tiền dù nhỏ, để có thể thu nhận bức tượng Tự Do
và ông kêu gọi tới lòng hãnh diện của người Mỹ, sẽ đưa dự án
từ tầm vóc địa phương lên tầm vóc quốc gia, và ông Pulitzer
nói rằng bức tượng này là quà tặng cho toàn thể nhân dân Hoa
Kỳ và đã do nhân dân Pháp trả tiền. Ông Pulitzer đã viết:
"Chúng ta hãy phản ứng bằng phương cách tương tự. Chúng ta
không chờ đợi các triệu phú cho tiền", và tờ báo "Thế Giới"
đã hứa sẽ công bố tên họ của mọi người tặng tiền, dù là một
món tiền nhỏ. Số báo ra ngày 22-4-1885 đã viết như sau:
"Thực là một kiến trúc rực rỡ đứng vươn cao lên tận từng mây
tại hải cảng đẹp đẽ. Đó là một kỷ vật đầu tiên mà mọi người
mới đến bờ biển này nhìn thấy. Bức tượng sẽ là một biểu
tượng của Tự Do, cao như trái núi trước các con mắt của
những người tới từ các quốc gia bị áp chế bên kia bờ đại
dương. Bức tượng báo hiệu sự hoàn thành đầy đủ nhất về Tự Do
của Nhân Loại và sẽ đứng vững mãi mãi để kể về đề tài đó".
|
Các lý tưởng Tự Do
của Hoa Kỳ đã ảnh hưởng tới ông Joseph Pulitzer. Ông
đã di cư từ Hungary qua Bắc Mỹ vào giữa cuộc Nội Chiến. Sau
khi phục vụ trong quân đội Miền Nam, ông Pulitzer đã là chủ
nhiệm tờ báo Post Dispatch tại thành phố St. Louis. Năm
1883, ông đã mua tờ "Thế Giới" (The World) và đã di chuyển
tòa soạn về New York và cố gắng làm cho tờ báo nổi danh. "Tự
Do" đã là đề tài hấp dẫn khiến cho tờ "Thế Giới" thành công
với số báo phát hành cao nhất tại Tây Bán Cầu và ông
Pulitzer trở thành "nhà báo của dân chúng" (people's
journalist).
Người dân Hoa Kỳ
vào lúc này không còn ác cảm với "ngọn hải đăng New York"
nữa, hàng ngàn món tiền tặng, có khi nhỏ tới 10 xu, 20 xu…
đổ về tòa báo mỗi ngày và tờ "Thế Giới" đã giữ lời hứa, đã
đăng tải danh sách các người hảo tâm, gồm các công nhân, các
người nữ bán hàng, các công chức… Tờ báo cũng kể vài câu
huyện theo đó một em nhỏ 9 tuổi đã lạc quyên được 7 mỹ kim
từ các nhân viên làm việc cho cha của em, hay một em gái 13
tuổi gây quỹ từ hàng trăm bạn học cùng lớp… Tại phía bên kia
bờ Đại Tây Dương, người Pháp cũng tổ chức các buổi trình
diễn âm nhạc, các dạ hội, các cuộc tranh tài thể thao để gây
quỹ cho bức tượng. Ngày 11 tháng 8 năm đó, tờ "Thế Giới"
công bố đã thu được 100,000 mỹ kim từ hơn 120,000 người và
dự án bức tượng "Tự Do" tại cả hai phía Hoa Kỳ và Pháp đã
thành công, khi bức tượng được đóng hàng, mang xuống con tầu
Isère và chở qua hải cảng New York.
4- Thực hiện kỹ thuật và nghệ thuật cho bức tượng.
Khi hội Đoàn Kết
Pháp-Mỹ được thành lập vào năm 1875, nhà điêu khắc Bartholdi
đã hoàn thành được vài mẫu vẽ bức tượng Tự Do. Nhà điêu khắc
phải đương đầu với rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như vẽ kiểu
và cách chế tạo, đòi hỏi tới năng khiếu riêng của nhà sáng
tạo, vì trước đó đã không có các kiểu mẫu nào to lớn đến như
thế.
Vào thế kỷ 19, một
đài kỷ niệm cao 302 feet (92 mét) kể cả bệ, sẽ chế ngự cả
một vùng chân trời và ngọn đuốc giơ lên cao sẽ khiến cho
nhiều nơi trông rõ. Bức tượng Nữ Thần Tự Do như vậy sẽ lấn
át bức tượng Rhodes (Colossus of Rhodes), là một trong 7 kỳ
quan của Thế Giới Cổ Xưa, hơn cả bức tượng S. Carlo
Borromeo, và tượng Nữ Thần Tự Do sẽ vừa là một sáng tạo kỹ
thuật đặc biệt và cũng là một tác phẩm nghệ thuật.
Ông Bartholdi là
một nghệ sĩ nên đã bị ảnh hưởng bởi thời đại của ông, bởi
các bài học của quá khứ… Một trong các bức họa gây được
nhiều ấn tượng sâu sắc vào tâm hồn nhà điêu khắc, là tác
phẩm "Tự Do hướng dẫn Dân Chúng" (La Liberté Guidant le
Peuple) năm 1830 của họa sĩ Delacroix. Đây là một biểu tượng
của cuộc Cách Mạng Tháng 7, đã bị chính quyền Pháp xếp vào
bóng tối cho đến khi có bầu không khí chính trị bao dung
hơn. Tư tưởng của ông Bartholdi cũng bị ảnh hưởng do ý niệm
hòa bình của ông Laboulaye, vì vậy bức tượng đã không mang
một lá cờ, một cây súng là biểu tượng của cách mạng, mà mang
bên mình các biểu tượng thụ động hơn, đó là một ngọn đuốc và
một tấm bảng, giống như tấm bảng của nhà tiên tri Moses, nằm
trong cánh tay vững chắc. Bức tượng Nữ Thần Tự Do còn có vẻ
mặt nghiêm trang và khắc khổ, và theo như lời ông Bartholdi,
bộ diện mạo này đã phản ánh một phần nào bộ mặt của người mẹ
nhà điêu khắc, bởi vì bà đã là một nạn nhân chính trị, một
góa phụ người Pháp sống trong miền Alsace bị quân đội Đức
chiếm đóng. Bức tượng Tự Do này là hình ảnh của một nữ thần
cổ điển, có bộ mặt tỏ lộ ra một vẻ đẹp thánh thiện cùng với
sức mạnh, hòa hợp với vòng vương niệm 7 nhánh trên đầu.
|
Mô hình của bức
tượng được nặn bằng đất sét, cao 1.25 mét (hơn 4 feet), đã
được phóng lớn 3 lần thành chiều cao 2.85 mét, rồi lại được
tạc thành tượng cao hơn 11 mét (hơn 36 feet). Chính ở tầm
vóc này, nhà điêu khắc đã duyệt xét lại mọi chi tiết. Sau
đó, độ phóng lớn cuối cùng làm cho kích thước của mẫu hình
cao tới 46 mét (151 feet). Trên bức tượng, các nhân viên kỹ
thuật đã dùng tới hơn 300 điểm chuẩn chính và 1,200 điểm
chuẩn phụ, và họ đã thực hiện hơn 9,000 công cuộc đo lường
dùng cho bức tượng. Bức tượng được đổ bằng thạch cao rồi
chuyển sang lớp đồng mỏng. Các lớp đồng dầy được cẩn thận ép
từ bên trong và gò bằng tay, sau đó được sửa chữa bằng cách
đập gò từ bên ngoài. Tất cả có hơn 300 miếng đồng, tạo nên
phần ngoài bức tượng.
Phần sườn thép bên
trong, chịu đựng bức tượng, đã được vẽ kiểu và thực hiện do
kỹ sư
Gustave Eiffel,
nhân vật vào năm 1889 đã xây dựng nên Tháp Eiffel là đài kỷ
niệm 100 năm Cuộc Cách Mạng Pháp. Ông Gustave Eiffel là kỹ
sư danh tiếng nhất về xây dựng các cầu xe lửa, với sự hiểu
biết uyên thâm về cách thiết kế bằng sắt thép và cách tính
sức chịu đựng (stress). Cấu trúc của phần sườn sắt gồm 4 cột
sắt cao mỗi cột 29.54 mét (96 ft 11 in.), mọc lên từ bệ của
bức tượng và chịu đựng tất cả trọng lượng, rồi từ chiếc tháp
trung tâm này, có các đà nhỏ hơn, nương theo hình dạng của
bức tượng. Hàng trăm bộ phận đã tạo nên một hệ thống nhún
(suspension system), với độ co dãn điều chỉnh tùy theo sự
dãn nở hay co hẹp.
Sau 10 năm chế tạo
tại Pháp, các phần của bức tượng Tự Do đã dần dần hoàn
thành. Cánh tay phải và bó đuốc được chở qua Hoa Kỳ nhân dịp
kỷ niệm 100 Năm Độc Lập 1876, rồi tới năm 1878 thì đầu của
bức tượng đã được làm xong và được trình bày trước dân chúng
thành phố Paris.
Tại Hoa Kỳ, cánh
tay phải và đầu bức tượng Tự Do đã được di chuyển về Công
Viên Madison của thành phố New York và nằm tại đây từ 1877
tới 1884. Địa điểm này đã là nơi xuất phát và dừng chân của
nhiều đoàn diễn hành tại thành phố đó.
|
Ngày 4 tháng 7 năm
1884, một buổi lễ đã được tổ chức để chính thức chuyển giao
bức tượng, từ vị đại diện nước Pháp là ông Ferdinand de
Lesseps, một nhân vật danh tiếng đã đào xong Kênh Đào Suez,
qua ông Đại Sứ Hoa Kỳ là Levi P. Morton. Về phần Hoa Kỳ,
việc xây dựng bao gồm các công tác chọn lựa địa điểm, đắp
nền móng và cái bệ đứng với chiều cao gần bằng chiều cao của
bức tượng. Địa điểm đặt tượng phải nằm trong hải cảng New
York. Ông Bartholdi đã lựa chọn hòn đảo Bedloe, một đảo nhỏ,
cô đơn, không làm cản trở tầm nhìn của các con tầu biển đi
vào hải cảng. Đảo Governor cũng là một địa điểm đề nghị và
cả hai đảo này đều thuộc về chính quyền Liên Bang. Năm 1877,
Quốc Hội Hoa Kỳ đã giao quyết định chọn lựa cho , một vị anh
hùng trong thời Nội Chiến Nam Bắc Mỹ. Ông Sherman đã thiên
về ý kiến của nhà điêu khắc và chọn đảo Bedloe.
Bức tượng Nữ Thần
Tự Do có kích thước vĩ đại, vì vậy cũng đòi hỏi cái bệ khổng
lồ, có chiều cao vào khoảng một tòa nhà 10 tầng. Cái bệ này
cũng phải được vẽ kiểu sao cho bức tượng vẫn là trung tâm
hấp dẫn sự chú ý của du khách, rồi cả ba thành phần toàn
cảnh, cái bệ và bức tượng phải hòa hợp với nhau thành một
toàn thể kiến trúc mang đầy đủ ý nghĩa và mỹ thuật. Nhiều
kiểu vẽ bệ đã được cứu xét, chẳng hạn như kiến trúc 6 cánh
với nét vẽ từ pháo đài của Viollet-le-Duc. Ông Bartholdi
cũng vẽ cái bệ của bức tượng là một hình vuông, đứng trên là
một kiểu kim tự tháp, có lẽ do ảnh hưởng của kiến trúc Ai
Cập. Cuối cùng, công trình của kiến trúc sư nổi danh Richard
Morris Hunt đã thay thế các đề nghị kia. Dự án của ông Hunt
là làm cho chiều cao của bệ giảm xuống còn 89 feet, nhưng
cách xây dựng đã làm tăng phí tổn thêm 20,000 mỹ kim. Kiểu
vẽ của ông Richard M. Hunt đã phối hợp được tỉ lệ và kiểu
cách, để bổ túc cho bức tượng Tự Do.
Ferdinand de Lesseps
Tướng William T. Sherman |
Từ ngày 20 tháng 7
năm 1884, con phà Bartholdi đã nặng nề chuyên chở các vật
liệu kiến trúc qua đảo Bedloe. Trên đảo, người ta cũng đặt
một đoạn đường xe lửa để di chuyển đá, sắt… Nền của bệ có
thể tích 11,680 yard khối (8,916 mét khối). Điều khiển công
trình này là Tướng Charles P. Stone. Ngày 22-4-1886, tảng đá
cuối cùng được đặt vào chỗ và Hoa Kỳ sẵn sàng đón nhận món
quà tặng lớn lao nhất, để trở nên bức tượng danh tiếng nhất
và được yêu mến nhất trên Thế Giới.
Về phía nước Pháp
kể từ tháng 1 năm 1885, bức tượng Tự Do đã được đóng vào
trong 214 thùng gỗ đặc biệt, mỗi thùng được ghi chú cẩn thận
để việc lắp ráp dễ dàng. Trọng lượng gỗ và kim loại dùng vào
công việc này nặng 500,000 pounds (vào khoảng 250,000 kilô).
Các thùng hàng được chở từ Paris tới Rouen bằng đường xe lửa
rồi bốc lên tầu chiến Isère. Con tầu này rời bến cảng vào
ngày 21-5-1885 và cập bến New York một tháng sau.
Bức tượng Tự Do đã
rời khỏi thành phố Paris, để lại nhung nhớ cho người dân
thành phố này, khiến cho ngay sau đó, các người dân New York
sống tại Paris đã quyên góp tiền bạc và xây dựng một bức
tượng tương tự, nhưng nhỏ bằng một phần tư và đặt trên đảo
Cygnes (Iles des Cygnes), khá gần Tháp Eiffel.
Công trình bức
tượng Nữ Thần Tự Do đã thành công là do các nhân vật tận
tụy: Laboulaye, Bartholdi, Eiffel, Hunt, Stone, Pulitzer,
Lesseps, Evarts… Các vị này đã tới đúng nơi, làm việc đúng
lúc, hoàn thành vai trò của mình dù lớn hay nhỏ, để tạo nên
một kỳ quan của Thế Giới.
5- Tự Do chiếu sáng Thế Giới.
Ngày 28 tháng 10
năm 1886, đã có một cuộc diễn hành quan trọng trên đường phố
New York và tại hải cảng, một hạm đội lớn các tầu thuyền đủ
loại, màu sắc rực rỡ, đang chờ đón giờ phút khánh thành bức
tượng Nữ Thần Tự Do. Buổi lễ được chủ tọa bởi Tổng Thống Hoa
Kỳ Grover Cleveland và trên hòn đảo, bức tượng được
che phủ bằng lá cờ Pháp ba màu. Sau khi bài diễn văn cuối
cùng chấm dứt, nhà điêu khắc Bartholdi đã bấm nút một cơ
phận điều khiển, tấm màn che phủ bức tượng được kéo xuống:
hôm nay là ngày tưởng nhớ tới Tự Do, Công Lý, lòng Ái Quốc,
tình Huynh Đệ và mọi người cùng hồi tưởng đến những người đã
hy sinh vì Tự Do. Các con tầu biển trong hải cảng New York
đã kéo vang còi tầu, đồng thời các cỗ đại bác trên bờ và
trên tầu đã bắn 21 phát súng chào mừng. Ngọn đuốc trên tay
Nữ Thần Tự Do đã tỏa sáng, dù rằng ánh sáng lúc đó còn rất
yếu ớt.
Tổng Thống Hoa Kỳ
Cleveland hôm đó trong bài diễn văn, đã xác định ý tưởng
chính trị đã liên kết 2 dân tộc Mỹ và Pháp, đó là: hình thức
chính quyền Cộng Hòa thì rất cần thiết cho nền Tự Do tồn tại
và "một làn sóng ánh sáng sẽ xuyên thủng màn đêm của sự ngu
dốt và áp bức của con người, cho tới khi nào Tự Do chiếu
sáng Thế Giới".
Ánh sáng từ bức
tượng Tự Do đã được coi là quan trọng kể từ khi bức tượng
được phác họa và như vậy, bức tượng sẽ hoạt động như một
ngọn hải đăng, cho nên bức tượng Nữ Thần Tự Do đã được Cơ
Quan Hải Đăng Hoa Kỳ (the Lighthouse Board) phụ trách việc
trông nom.
Khi ông Bartholdi
vẽ kiểu bức tượng, đèn điện chưa được phát minh. Nhà điêu
khắc đã cho rằng cũng nên có ánh sáng tỏa ra từ vương niệm
trên đầu bức tượng nhưng rồi kỹ thuật về điện lực đã làm
thay đổi dự tính. Một tháng trước ngày khánh thành và với sự
đồng ý của nhà điêu khắc Bartholdi, ngọn đuốc được thắp sáng
bằng điện lực, nhưng ánh sáng tỏa ra vẫn còn quá yếu.
Năm 1902, việc quản
trị bức tượng Tự Do được chuyển qua cho Bộ Chiến Tranh (the
War Department) và vấn đề chiếu sáng của ngọn đuốc vẫn chưa
được giải quyết thỏa đáng. Năm 1916, tờ báo Thế Giới New
York (the New York World) lại kêu gọi việc gây quỹ để cải
tiến hình ảnh của Bức Tượng Tự Do về ban đêm và một lần nữa,
dân chúng Hoa Kỳ đã đóng góp 30,000 mỹ kim nhờ đó bức tượng
được chiếu sáng chan hòa, với 1,200,000 lumen từ 246 ngọn
đèn pha. Nhà điêu khắc lừng danh Gutzon Borglum cũng
trông coi việc lấy đi khoảng 600 miếng đồng từ ngọn đuốc và
thay vào bằng các miếng kính có màu vàng hổ phách. Kết quả
là ngọn đuốc đã phát ra ánh sáng 250,000 lumen, cộng với
95,000 lumen của các ngọn đèn khác, gây nên vẻ chập chờn của
ngọn lửa đang cháy. Trong buổi lễ khánh thành hệ thống chiếu
sáng mới này có Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson và Đại Sứ
Pháp Jules Jusserand, đồng thời trên bầu trời, nữ phi công
Ruth Law đã bay vòng quanh bức tượng, kéo theo đuôi máy bay
hàng chữ lớn "Tự Do".
Năm 1931, một hệ
thống chiếu sáng thứ hai được dùng tới, sửa chữa các khuyết
điểm của hệ thống cũ với cường độ 2 triệu lumen ánh sáng.
Khánh thành buổi lễ này là cô Jose Laval, ái nữ của Thủ
Tướng Pháp. Đứng trên từng lầu thứ 102 của tòa nhà Empire
State Building, cô Laval đã truyền đi một tín hiệu vô tuyến
tới một máy bay đang lượn trên bức tượng Nữ Thần Tự Do và từ
máy bay đó, tín hiệu đã làm bật sáng toàn thể bức tượng và
khu vực.
|
Theo quyết định của
Quốc Hội Hoa Kỳ năm 1877, bức tượng Nữ Thần Tự Do được quản
trị bởi Cơ Quan Hải Đăng, rồi tới năm 1902, do Bộ Chiến
Tranh phụ trách. Từ ngày 15-10-1924, bức tượng này trở thành
một đài kỷ niệm quốc gia (a national monument). Tới năm
1933, Cơ Quan Công Viên Quốc Gia (the National Park Service)
lo quản trị bức tượng Tự Do và đã cố gắng làm thay đổi phong
cảnh chung quanh bức tượng cho thích hợp với các lý tưởng về
tự do và đa dạng của người Mỹ. Các cơ sở quân sự trước kia
của Bộ Chiến Tranh đã phải dọn đi nơi khác vào năm 1937,
dành chỗ thích đáng để làm tôn lên vẻ đẹp và tư cách của bức
tượng, nhưng Thế Chiến II đã xẩy ra, khiến cho các chỉnh
trang khu vực quanh bức tượng bị chậm lại cho tới đầu thập
niên 1950.
Ngày 3-10-1956, đảo
Bedloe được đổi tên thành "Đảo Tự Do" (Liberty Island) và từ
nay, toàn thể hòn đảo này được dành cho đài kỷ niệm nổi danh
nhất của Hoa Kỳ, tức là bức tượng Nữ Thần Tự Do. Trong 13
năm trường, bức tượng này, cao 152 feet (46 mét) và nặng 225
tấn, đứng trên cái bệ cao 150 feet, đã là một kiến trúc cao
nhất, vượt hơn tòa nhà Western Union Telegraph xây dựng năm
1873 với chiều cao 230 feet, hơn Giáo Đường Trinity xây năm
1848 cao 246 feet. Tòa nhà Tribune (Tribune Building) và các
tháp Cầu Brooklyn (the Brooklyn Bridge Towers) đều thấp hơn
bức tượng Tự Do 23 feet. Năm 1899, tòa nhà St. Paul cao 310
feet đã vượt hơn bức tượng Nữ Thần Tự Do về chiều cao và trở
nên kiến trúc nhiều tầng cao nhất thế giới.
Từ năm 1956, hòn
đảo Ellis ở gần đó được sát nhập vào Đài Kỷ Niệm Quốc Gia
"Tượng Nữ Thần Tự Do" (the Statue of Liberty National
Monument). Đảo Ellis này trong các năm từ 1892 tới 1954 đã
là cửa khẩu nhập cảnh của 16 triệu người di cư vào Hoa Kỳ từ
châu Âu và vùng Cận Đông với mức độ cao nhất là 5,000 người
một ngày vào năm 1907. Đã có nhiều nhân vật danh tiếng sang
Hoa Kỳ tìm nơi nương náu như các ông Samuel Gompers
(1850-1924), lãnh tụ Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, từ nước Anh;
Albert Einstein (1879-1955), nhà bác học vĩ đại, từ nước
Đức; David Sarnoff (1891-1971), nhà tiền phong về máy truyền
thanh và máy truyền hình, từ nước Nga; Bary Fitzgerald
(1888-1961), nhà diễn kịch xuất sắc, từ nước Aùi Nhĩ Lan…
Là một biểu tượng
của Hoa Kỳ, bức tượng Nữ Thần Tự Do với cánh tay phải cầm
ngọn đuốc giơ lên cao, hứa hẹn sự tự do và một đời sống tốt
lành hơn cho các kẻ bị áp bức. Những người di dân tới Hoa Kỳ
đã có các nguồn gốc từ hơn 40 sắc dân và quốc gia khác nhau,
khiến cho Hoa Kỳ trở thành "mảnh đất của các di dân". Trong
bài thơ có tên là "Bức Tượng Vĩ Đại Mới" (the New Colossus)
của nữ thi sĩ Emma Lazarus, khắc trên bệ của bức tượng Nữ
Thần Tự Do, đã có câu: "Hãy cho tôi các kẻ mệt nhọc, các kẻ
nghèo khó, các đám đông ước vọng được hít thở tự do…. Hãy
gửi đến cho tôi những kẻ vô gia cư, những người bị chìm đắm
vì bão tố. Tôi giơ cao ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng".
Bức tượng Nữ Thần
Tự Do là hình ảnh của lý tưởng Tự Do và Bình Đẳng. Những kẻ
hiện đang bị đàn áp tại nhiều nơi trên trái đất đã ghi khắc
hình ảnh này trong trái tim của họ./.
©
http://vietsciences.free.fr và
http://vietsciences.net
Phạm Văn Tuấn. |
|
|
|
|
|