Tính nông nổi và khoe khoang của
người Việt
Tính
nông nổi
Tính nông nổi do bởi không suy nghĩ chín chắn, cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi hành động hay tin vào một điều gì. Thời Đệ Nhị Thế Chiến
(1939 – 1945) khi Nhật tràn vào Việt Nam, vì ghét Pháp nhiều người
Việt thời ấy vui mừng và hy vọng bọn thực dân phương Tây này sẽ bị
đuổi đi và Nhật với chủ nghĩa Đại Đông Á sẽ giúp chúng ta lấy lại
độc lập và giúp chúng ta xây dựng thành một quốc gia phú cường như
họ. Ý nghĩ nông cạn ấy không phải chỉ có ở người dân thường mà có cả
ở những bậc trí thức.
Xin quí bạn đọc câu trích dẫn dưới đây của học giả Nguyễn Hiến Lê:
”... mà chúng tôi cũng không hề tính xa: hết chiến tranh nếu Nhật
Bản, Đức mà thắng thì họ có cho dân tộc mình được chút nào không,
hay chính sách của họ còn khốc liệt hơn Anh, Pháp nữa, chúng tôi chỉ
biết mỗi một điều là họ thù địch với Pháp, nên mong nhờ Nhật gỡ cho
cái ách của Pháp đã, rồi ra sao thì hãy hay.” (Hồi ký Nguyễn Hiến
Lê, trang 228).
Thực tế cáo đi thì cọp tới, năm 1945 Nhật gây ra cho hơn 1.000.000
người Việt chết đói, gọi là nạn đói năm Ất Dậu do Nhật thu gom thóc
và bắt người Việt đào bỏ khoai, ngô (bắp), lúa đang trồng để trồng
đay nộp cho kỹ nghệ bao tải của họ.
Có lẽ cùng một ý nghĩ như thế, trước đó nhà cách mạng Phan bội Châu,
lãnh tụ phong trào Đông Du, đã đem hàng trăm thanh niên sang Nhật
học hỏi và muốn nhờ người Nhật giúp để đánh đưổi Pháp. Pháp thấy hậu
quả có thể đến bèn thỏa thuận chia sẻ quyền lợi với Nhật ở Việt Nam
qua hiệp ước giữa 2 nước năm 1909, sau đó Nhật trục xuất tức khắc cụ
Phan và tất cả du học sinh Việt Nam! Cụ Phan cay đắng nhận xét:
“Trông vào người tất chết.” (Vọng ngoại tắc tử).
Trong đời sống hàng ngày, tính nông nổi của chúng ta cũng gây biết
bao điều tai hại. Ai ở Sai Gòn cách nay hơn 10 năm (thập niên 1990)
đều biết một võ sư có tiếng ở bên Khánh Hội nghe con trai chạy về
báo bị ăn hiếp hay đánh lộn gì đó trong quán ăn. Ông ta xách kiếm
xông tới thấy một thanh niên đang ngồi ăn uống tại đó thì đâm chết
ngay không hề hỏi han cho rõ ngọn nguồn. Thanh niên đó chết oan vì
đám thanh niên gây gổ với con ông ta đã bỏ đi. Khi bị nhốt vào khám
Chí Hòa, được báo chí phỏng vấn, ông ta tỏ ra hối hận vì tính nông
nổi của mình nhưng đã trễ !
Trước hay sau đó ít lâu, ở Cần Thơ cũng xảy ra trường hợp tương tự
khi một linh mục Công giáo chạy xe Honda thấy có em bé bị xe đụng bỏ
chạy (hit and run) nằm lăn lóc trên đường. Ông ngừng lại dựng xe và
bế em vào bên lề. Lúc ấy thân nhân của em chạy ra thấy vậy tưởng là
ông đụng xe làm em bị thương xúm đánh đập túi bụi gây ra cái chết
cho ông. Đến khi được người hàng xóm cho biết sự thật thì không làm
sao cho ông linh mục sống lại nữa.
Hiện tượng nông nổi này rất phổ biến, đến 80% chúng ta mắc phải nhất
là trong giới quyền cao chức trọng như vua chúa ngày xưa hay tổng
thống, chủ tịch nước, quan chức ở miền Nam cũng như miền Bắc trước
1975 và cả nước ngày nay. Thấy con đánh lộn với con hàng xóm, hay
bạn học ở trường việc đầu tiên là la mắng hay đánh đập con người
không cần biết con mình hay con người sai. Những bậc có quyền thế
còn hơn thế nữa, chung quanh có một đám thân cận là con cháu hay tôi
tớ sẵn sàng tâu bẩm người khác tùy theo cảm tình yêu ghét của chúng.
Những người có quyền thế này khi được bẩm báo không hề tìm hiểu, cân
nhắc, tìm bằng cớ khách quan, cứ việc trù dập thẳng tay. Ngày nay có
người cho rằng ông Cao Bá Quát chỉ vì tính cao ngạo làm cho vua và
các quan trong triều ghét nên bị đày ra làm giáo thụ huyện Quốc Oai,
tỉnh Sơn Tây. Chẳng bao lâu ở vùng ấy có giặc nổi lên, quan sở tại
tâu ông làm loạn thế là bị đem chém.
Nên xưa và nay, trong chính quyền đều tạo ra một tầng lớp xu nịnh
rất đông đảo. Lỗi ở chúng một phần, nhưng lỗi chính là ở lối sống
của chúng ta và nhất là những người có quyền chức không gột bỏ được
cái tính, nhẹ dạ, cả tin ấy!
Nhiều người Việt sang Mỹ, thấy người ta ly dị cũng bắt chước ly dị;
một số thanh niên (nam, nữ) thấy người ta “move out” khỏi gia đình
cũng “move out“ để được sống tự do, tưởng như vậy là văn minh tân
tiến không biết rằng đó là những hành động mà những người Mỹ hay xã
hội Mỹ chê trách, không muốn có.
Trong một cuộc thăm dò ý kiến được đài truyền hình ABC công bố cách
đây ít lâu thì đa số người Mỹ cho rằng ly dị là điều đau khổ nhất
trong cuộc sống.
Nên chúng ta không lấy làm lạ rằng nước Mỹ cho tới nay có 44 đời
tổng thống chỉ duy nhất có ông Reagan ly dị mà được bầu vào chức vị
ấy, đủ chứng tỏ người Mỹ không nghĩ ly dị là một việc làm tốt, trái
lại ngưòi ta lên án cái trào lưu ấy nhất là những nhà đạo đức và
những người hoạt động xã hội. Hiện nay giới trẻ ở Âu, Mỹ nhiều người
đã bắt đầu ý thức và đã bắt đầu cẩn thận trong việc lập gia đình,
không sống vội vàng buông thả nữa.
Chúng ta cũng đừng nghĩ tinh thần gia đình của người Mỹ và Âu châu
lỏng lẻo hay tan rã. Trong những cuộc tiếp xúc chúng tôi thấy người
ta cũng tôn trọng ông bà, cha mẹ như chúng ta, ngược lại những bậc
ông bà, cha mẹ cũng rất hãnh diện và thương yêu con cháu của họ. Bà
Nancy Pelosi đương kim chủ tịch hạ viện Mỹ rất hãnh diện đã là
“grand ma” (Bà nội hay bà ngoại), còn bà Carol Keeton Rylander
nguyên kiểm toán viên (Comptroller) của tiểu bang Texas mới đây khi
ra ứng cử thống đốc bang này cứ khăng khăng yêu cầu ban tổ chức bầu
cử được để chữ “grand ma” trong truyền đơn vận động và phiếu bầu của
bà. Phó tổng thống Dick Cheney luôn luôn có cháu nhỏ ở bên cạnh.
Những dịp lễ lớn như Thanksgiving, Chritmas (Giáng Sinh) và Năm Mới
dù ở xa, cả chục triệu người Mỹ lái xe hay đi máy bay hàng ngàn cây
số để thăm ông bà, cha mẹ, bà con họ hàng của họ. Con cái 18, 19
tuổi chưa học hành xong hay chưa có gia đình bỏ nhà ra ở riêng người
ta không cản được nhưng không cho đó là điều tốt đẹp, đáng khen.
Nhiều bậc cha mẹ đã cấm cửa không cho đứa con hư đi ở riêng quay trở
lại. Con cái còn đang đi học người ta cũng chu cấp nhưng không bao
bọc, nuông chiều thái qúa như chúng ta, người ta muốn con cái tập
sống tự lập, tập xông pha ngoài đời bằng cách làm việc bán thời gian
để kiếm thêm tiền tiêu, không cho chúng hoàn toàn ỉ lại vào cha mẹ.
Chúng ta vì nông nổi, nhẹ dạ không chịu tìm hiểu, thấy một số người
sống phóng túng tưởng đó là nếp sống văn minh của người Âu Mỹ và vội
vàng bắt chước.
Tính ưa khoe khoang và khoác lác
Từ đứa nhỏ khoe cái áo mới đến người lớn khoe có cái nhà đẹp, cái xe
đắt tiền bản chất không khác nhau (thích được khen). Người Việt
chúng ta có rất nhiều thứ để khoe (quần áo, xe cộ, nhà cửa, tiền
của, gia thế, địa vị, con cái)
Về khoe quần áo, một bữa tiệc cưới gây ấn tượng mạnh cho tôi mãi đến
bây giờ. Bàn tôi có 10 người gồm 5 bà, 2 đứa bé một Việt, một Mỹ với
mẹ em và tôi. Ăn chưa hết món thứ nhất thì bà mặc áo dài xanh đứng
lên bỏ đi, lúc sau bà ta mặc váy đỏ, sơ mi đỏ rực rỡ, cổ đeo giây
chuyền vàng to bản vàng khè nhí nhảnh đi vào. Bốn bà kia thấy thế
lần lượt từng bà đứng lên, bàn ăn lại có 4 bộ quần áo mới xanh xanh,
đỏ đỏ. Nhưng chưa hết, ăn xong chừng 3 món hai bà ngồi giữa đứng
lên, ba bà nữa đứng lên, làm bàn ăn bỏ trống một nửa. Lúc sau bàn
chúng tôi có 5 bộ quần áo mới nữa vàng vàng, xanh xanh, đỏ đỏ; vàng
đeo đầy cổ, đeo cả ở 2 tay, 2 chân.
Em bé Mỹ ngồi bên tôi trố mắt ra nhìn, bé hỏi tôi:
- Sao các bà thay đồ hoài vậy?
May lúc ấy ông thợ ảnh đến, tôi nói tránh đi:
- Các bà ấy thay đồ để chụp ảnh. Người Việt Nam thích chụp ảnh!
Tôi còn được nghe nói có những bữa tiệc chẳng những các bà mà cả các
ông cũng đi thay bộ mã tới 2, 3 lần.
Có lẽ trên thế giới không có người nước nào có lối sống kỳ lạ như
vậy. Tại chúng ta mang nhiều mặc cảm đói rách chăng? Có thể thế,
cộng thêm tính khoe khoang sẵn có.
Người có tiền thì mua, người không có tiền đi thuê ở mấy tiệm đồ
cưới, nhưng cũng có những người dám tới mấy tiệm bán quần áo, nữ
trang sang trọng của người Mỹ mua về mặc đi ăn đám cưới sau đó đem
trả lại lấy tiền về. Lối mua bán kém lương thiện như thế ở đâu cũng
thấy nói tới.
Chúng ta có nhiều cái khoe, trong các cuộc gặp gỡ, họp mặt, người ta
hay tự giới thiệu tôi là Kỹ sư A. và đây, vợ tôi Tiến sĩ M. Ngoài
giới thiệu bản thân người ta còn tìm cách để có dịp nào đó trong câu
chuyện khoe về gia thế, dòng dõi qúi phái của mình, khoe cái xe
Cadillac, Mercedes mới mua hay khoe cái nhà ở trên đồi, trên núi.
Khoe trong chỗ bạn bè quen biết chưa đủ, đôi khi người ta còn viết
báo, làm thơ khoe vợ (hay chồng ) trước đây nắm chức vụ gì ở Việt
Nam, con cái mấy người có bằng bác sĩ, kỹ sư… để bà con xa gần đều
biết.
Trong một cuộc hội nghị văn chương có tính cách quốc tế nọ, vị đại
biểu Việt Nam thay vì trình bày những vấn đề liên hệ lại tự “giới
thiệu” trước đây mình làm gì, sau năm 1975 sang Mỹ học đậu bachelor
rồi đậu tới cả master. Ông ta quên rằng trong giới văn, thi sĩ người
ta không để ý đến bằng cấp mà chú trọng vào tài năng thực sự. Thi
hào Nguyễn Du chỉ có bằng tú tài, văn hào Anatole France nước Pháp
rớt tú tài, thi sĩ Tản Đà Việt Nam hình như không có cái bằng nào
cả.
Tính khoe khoang của chúng ta thật quá đáng.
Việc khoe khoang cái mình có đã xấu, đã kỳ nhiều người đi xa hơn
khoe khoang những cái mình không có để người khác khen hoặc phục nể.
Đó là nói khoác, nói không đúng sự thật.
Thời nào và ở đâu chẳng có người nói khoác nhưng ngày xưa người ta
nói khoác (nói phét) không hẳn để khoe hão về mình mà nói làm cho
người khác ngạc nhiên, nói cho vui nên nói khoác mà có khi vẫn để
cho người ta biết mình nói khoác. Mời độc giả đọc bài thơ do Cụ Ôn
Như Nguyễn văn Ngọc sưu tập đăng trong Nam Thi Hợp Tuyển (Nhà xuất
bản Bốn Phương tái bản, trang 85) để hiểu người xưa nói khoác:
Anh Nói Khoác
Ta con ông Cống, cháu ông Nghè,
Nói có trên trời dưới đất nghe.
Sức khoẻ Hạng Vương cho một búng,
Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe.
Nhảy ùm xuống biển lôi tàu lại,
Chạy tốc lên non bắt cọp về.
Độ nọ vào chơi trong nội phủ,
Ba ngàn công chúa phải lòng mê.
Vô Danh
Đọc bài thơ trên chúng ta thấy tức cười, biết là nói khoác nhưng đọc
cho vui, đọc để giải trí. Tuy nhiên chẳng ai ưa người chuyên môn nói
khoác. Câu chuyện xưa kể đại khái một ông nói khoác khoe mới trông
thấy trái bí to bằng cái nong phơi lúa (đường kính độ 2 mét hay 6
feet ). Ông ngồi bên thấy thế nói:
Bác nói trái bí to bằng cái nong đâu có lớn lắm, hôm trước tôi thấy
một cái chảo to bằng cái đình làng mới khiếp chứ!
Ông nói khoác hỏi:
Bác nói phét rồi, người ta đúc cái chảo quá to như thế để làm gì
chứ?
- Ấy, để nấu trái bí của bác!
Ngày nay bản chất của nói khoác thay đổi, danh xưng cũng thay đổi,
số người nói khoác tăng lên gấp bội có lẽ do cuộc chiến tàn khốc và
kéo dài vừa qua làm xã hội xáo trộn, luân lý đạo đức suy đồi, lòng
người đảo điên theo. Người ta nói khoác không phải để vui chơi, đùa
giởn như xưa mà nói khoác để lòe người khác, để đề cao mình và nói
khoác quá nên kêu là “nổ”. Nổ như đại bác, nổ như kho đạn nổ.
Những năm trước Việt kiều về thăm quê ăn mặc se sua, tay cầm chai
nước, vàng đeo đầy người hỏi ra nếu không là bác sĩ thì cũng kỹ sư,
luật sư, chức vụ dở lắm cũng giám đốc (manager), tổng giám đốc. Đàn
ông nếu trước kia đi lính thì nói khoác là sĩ quan, quan cấp úy thì
nói là quan cấp tá. Các bà bà nào cũng bà úy, bà tá hoặc giám đốc
nhà xuất cảng nọ, nhà nhập cảng kia.
Nơi nào càng nhiều người Việt thì bệnh nổ càng nhiều, nhiều nhất ở
Mỹ. Ở Mỹ nhiều nhất ở California thứ đến Houston, Dallas…. Nhiều
người thích khoe khoang, khoác lác đến nỗi năm nào cũng về nước một
lần để làm Việt kiều, để có dịp nói khoác, dù thân nhân sống hết ở
Mỹ.
Căn bệnh này không phải chỉ người Việt ở nước ngoài mắc phải, trong
nước từ Nam chí Bắc đều mắc cả. Đối với chính quyền thì sự khoác lác
được nâng lên thành chính sách, đó là tuyên truyền dối trá để lừa
gạt nhân dân.
Ít lâu nay cánh Việt kiều về nước bớt nổ vì đồng bào trong nước qua
thân nhân, bạn bè (ở nước ngoài) dần dần biết rõ đời sống Việt kiều
lam lũ vất vả, tằn tiện dè sẻn từng xu (cent), thức dậy từ 2 giờ
sáng xếp hàng tranh mua đồ bán seo (sale) hay lượn vòng cuối tuần
mua hàng garare sale! Tất nhiên không phải ai cũng đi mua như thế,
vả lại mua như thế không phải là xấu. Xấu ở chỗ hay khoác lác để
biểu lộ sự giàu có, sang trọng hơn người nhưng thực chất không khá
giả gì.
Chúng ta sống không thiết thực, chúng ta sống nông nổi!
|