Tin
tức về việc Nga bán vũ khí cho Nam Dương hồi
gần
đây đưa người ta trở lại với thời kỳ chiến tranh lạnh, vì
xuyên suốt những năm của thập niên 50, 60 và 70 Mạc Tư Khoa
đã tìm cách đạt được ảnh hưởng ở Đông Nam Á bằng cách chi
viện quân sự và kinh tế một cách ồ ạt. Việc mua bán mới
đây - chẳng phải vì nhu cầu ý thức hệ nhưng lại nặng về
quyền lợi kinh tế - cho thấy ngày nay Liên Bang Nga đang tìm
cách để mở rộng uy thế qua cuộc chạy đua cấp cường quốc ở
khu vực, cùng với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Qua chuyến đi thăm Nam Dương đầu tiên của một nhà lãnh đạo
Nga - kể từ chuyến đi hồi 1960 của chủ tịch Liên Xô, Nikita
Khruschev - tổng thống Vladimir Putin đã chứng giám việc ký
kết hàng loạt hiệp ước hợp tác và buôn bán vũ khí với nhân
vật đồng nhiệm là tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono của
Nam Dương. Trong chuyến giao thương này, Nga bán tàu ngầm,
xe tăng và trực thăng lên đến một tỷ hai đô la, và dành cho
Jakarta những điều kiện tín dụng rộng rãi. Còn những thỏa
hiệp hợp tác về tài chính, đầu tư, môi trường và chiến đấu
chống khủng bố thì chẳng có bao nhiêu.
Tổng thống Putin tuyên bố là Nga cũng quan tâm đến việc mở
rộng hợp tác về năng lượng, hầm mỏ, hàng không, viễn thông
và những lãnh vực chuyên môn khác. Cũng có ký kết những thỏa
hiệp giữa những công nghiệp quốc doanh như LUKoil của Nga và
Pertamina của Nam Dương. Không rõ là có đạt được những thỏa
hiệp về hạt nhân hay không, trong khi Nam Dương cho biết ý
định xây dựng cơ sở có khả năng sản xuất 4.000 Megawatt vào
năm 2017.
Công ty quốc doanh hầm mỏ AnTam của Nam Dương và Rusal của
Nga ký kết thỏa hiệp hợp doanh để triển khai mỏ Bauxite
(quặng nhôm) và xây cất xưởng luyện nhôm ở Tây Kalimantan.
Quyết định này đặc biệt được loan báo trong khi đang có công
cuộc chạy đua ở địa phương để phát triển Bauxite, với những
đối tượng trong vùng như BHP Billiton của Úc và Tinto của
Rio đang thi đua nhau khai thác và triển khai.
Những thỏa hiệp to lớn về vũ khí và kinh tế là chỉ dấu cuối
cùng cho thấy Mạc Tư Khoa đang mở cuộc tấn công ngoại giao
để tranh thủ hay để nối lại những mối liên hệ xưa cũ ở Đông
Nam Á. Nga đang tìm cách tăng cường bang giao đối ngoại với
Hiệp Hội gồm có 10 quốc gia Đông Nam Á và hy vọng tham dự
Thượng Đỉnh Đông Á, cuộc họp thường niên của ASEAN được
thành lập năm 2005, gồm có những nhà lãnh đạo của Trung
Quốc, Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và Tân Tây Lan.
Nga cũng muốn ngồi vào Thượng Đỉnh Đông Á và cuộc họp APEC
(Asia Pacific Economic Cooperation) ở Sydney. Tổng thống
Putin cho biết nước ông muốn tiếp đón các nhà lãnh đạo của
thượng đỉnh ở Vladivostok vào năm 2012. Trong tương lai,
nguyên nhân to lớn nhất của Mạc Tư Khoa để đạt được uy tín
chính trị có thể là khả năng đồ sộ của nước này về năng
lượng, khoáng chất và cung cấp vũ khí cho Đông Nam lẫn Đông
Á.
Tất cả các điều nói trên cho thấy là Nga có khả năng muốn
trở lại khu vực này. Từ giữa những năm 50 cho đến khi Liên
Xô sụp đổ hồi 1991, Nga đã có một sự hiện diện bao trùm ở
Đông Nam Á. Trong vòng trên một thập niên qua, vì tình hình
kinh tế nội địa sau chiến tranh lạnh bị suy thoái, Nga không
có khả năng kinh tế hay thiếu tham vọng chiến lược, nên
không có ảnh hưởng trong vùng.
Ngày
nay, chính quyền Putin nhất quyết làm cho Liên Bang Nga trở
thành một thế lực quốc tế trở lại, nhờ một nền kinh tế cải
tiến mạnh mẽ với thu nhập gia tăng nhờ dầu khí, nên rõ ràng
là Mạc Tư Khoa muốn để mắt trở lại vùng đất, đã một thời
mang dấu ấn của mình ở Đông Nam Á.
Giữa những năm 50, Nam Dương là nước tiền đồn trên chiến
tuyến trong cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Liên Xô để tranh giành
quyền lãnh đạo chính trị của Thế Giới thứ ba. Có lúc, cả
nghìn cố vấn quân sự đã có mặt ở Nam Dương, cầm đầu những cố
vấn chuyên môn dân sự và một phái bộ ngoại giao đông đảo
cùng với nhóm nhân viên mật vụ KGB thường lệ. Mãi đến hồi
gần đây, trong sổ sách của chính phủ Nam Dương vẫn còn những
khoản tiền vay mượn Liên Xô và những chư hầu Đông Âu của của
Liên Xô.
Ở những nơi khác của Đông Nam Á, dấu vết của viện trợ thời
Liên Xô vẫn còn tồn tại, như ở Cam Bốt ngày nay với những
đường phố mang tên Liên Xô và Viện Khoa Học Kỷ Thuật, trước
kia là Viện Khoa Học Kỷ Thuật Cao Cấp Hữu Nghị Khmer-Liên
Xô, một tòa nhà rộng 30.000 thước vuông do Nga tài trợ,
thiết kế và trang bị hồi 1964. Bên Lào huy hiệu "Búa Liềm"
vẫn còn nằm trên đỉnh cao của những trụ sở hư nát trong thủ
đô Vạn Tượng.
Nhưng, đặc biệt ở Nam Dương sự hiện diện của Liên Xô là thấy
rõ nhất. Phù hợp với diện tích, với địa lý chiến lược của
Nam Dương và do chỗ tổ chức chính trị Partai Komunis
Indonesia (PKI) của nước này, một đảng cộng sản hợp pháp,
với số đảng viên đông đảo nhất nhì trên thế giới, Liên Xô đã
khôn khéo lợi dụng sự cởi mở của tổng thống Sukarno đối với
mối quan hệ và chi viện kinh tế của Liên Xô.
Những kỷ vật cụ thể của thời kỳ đó nay vẫn còn hiện hữu ở
khu thị tứ Jakarta, kể cả trong viện bảo tàng quân sự Nam
Dương Satri Mandala. Ở đây, người ta vẫn còn trưng bày một
chiếc máy bay MIG cũ của Nga, một hỏa tiễn và một chiếc
tăng, với tháp súng cổ điển đưa ra phía trước, và mới đây
còn được sử dụng trong đợt tấn công của Nam Dương vào Đông
Timor hồi 1975, theo những lời chú thích ghi trên bảng.
Phi cơ quân sự, tàu thủy và xe cộ được cung cấp theo chương
trình cho vay dài hạn, cơ bản là để giúp Sukarno trong một
cuộc chiến được dự tính để đánh trả quân Hà Lan ở miền Tây
Tân Ghi Nê, lúc bấy giờ thuộc Hà Lan, mà Jakarta coi như là
thuộc chủ quyền của mình khi Nam Dương đã thoát khỏi sự đô
hộ của Hà Lan hồi năm 1949. Cuối cùng, cuộc chiến không xảy
ra vì Hà Lan chấp thuận mở cuộc trưng cầu dân ý đề quyết
định tương lai của vùng đất này.
Chi viện quân sự của Nga cũng tăng cường cho Sukarno trong
đường lối đe dọa chiến tranh "Konfrontasi" nhằm vào Mả Lai Á
và Anh quốc - nước thực dân bao che Mã Lai Á - vì lực lượng
này định sáp nhập Sarawak và Sabah ở Borneo vào liên bang
Mả Lai Á mới thành hình. Vì Nam Dương được chi viện oanh tạc
cơ tầm trung của Liên Xô nên Úc cũng tậu chiến đấu oanh tạc
cơ F-111, lúc bấy giờ là phi cơ hiện đại nhất của Hoa Kỳ.
Bây giờ, phi cơ này cũng còn là lực lượng chủ yếu của không
quân Úc.
Về
mặt kinh tế, viện trợ và cố vấn kinh tế hỗ trợ để sơ khởi
triển khai xưởng thép Krakatau ở Tây Java đến nay vẫn còn
hoạt động và đập nước Asahan và lò nấu nhôm ở Bắc Sumatra.
Rủi thay, nhiều dự án cầu kỳ được quy hoạch từ trung ương
theo kiểu Liên Xô không khớp được với những điều kiện của
Nam Dương nên đổ vỡ hoặc suy tàn sau khi viện trợ bị cắt.
Hơn nữa, xưa nay vị thế của Trung Quốc đã làm cho mọi chuyện
trở nên phức tạp đối với Mạc Tư Khoa và Đông Nam Á. Với việc
rạn nứt ý thức hệ giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa hồi đầu thập
niên 1960, Liên Xô bỗng dưng ở trong tình trạng đối đầu với
Mao Trạch Đông. Ở Nam Dương, ảnh hưởng của Bắc Kinh đè nặng
lên PKI (Partai Komunis Indonesia, đảng cộng sản Nam Dương),
lúc bấy giờ có tiếng là đảng cộng sản to lớn nhất, sau Liên
Xô và Trung Quốc, làm phiền Liên Xô không ít.
Vào đầu năm 1960, Hoa Kỳ đưa quân bộ chiến đến Việt Nam, với
quy mô lớn trong khi phải dè chừng Nam Dương vì Sukarno ngã
theo cánh tả nhiều hơn, nghĩa là PKI và Bắc Kinh. Thế nhưng,
mối hiểm họa của một Nam Dương cộng sản tan biến đi hồi
tháng 9 năm 1965. Một số sĩ quan lục và không quân thiên tả
mưu toan làm đảo chính bị Tướng Suharto (về sau trở thành
tổng thống) làm bể kế hoạch. Những người chủ mưu nói rằng họ
định ngăn chận việc tiếm quyền của các tướng lãnh được Mỹ
thầm kín ủng hộ.
Thế nhưng, kết quả của biến cố tháng 9 cho thấy rõ ràng là
Sukarno đã mất uy tín một cách thậm tệ, chẳng bao giờ lấy
lại được, và đảng cộng sản Nam Dương, bị cho là đã gây ra
cuộc đảo chính, nên là mục tiêu của một cuộc thảm sát trên
toàn quốc, giết hại hàng nghìn đảng viên và và làm tiêu tan
ảnh hưởng cộng sản trong dân chúng. Suharto cương quyết đưa
chế độ "Trật Tự Mới" của ông ngã theo Tây phương, và tư thế
của Liên Xô đối với quần đảo này ngày một suy yếu đi khi mà
Điện Cẩm Linh tăng cường nỗ lực để duy trì ảnh hưởng đối với
Việt Nam và những nước còn lại của Đông Dương.
Hồi 1991, khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc lần hồi chiếm được
ưu thế trong khu vực, và càng nhanh chóng hơn nữa trong
những năm sau này, làm cho vị thế của Mạc Tư Khoa phải yếu
đi. Có thể nói rằng ngày nay ảnh hưởng ngoại giao và thương
mại của Nga ở Đông Nam Á khá hơn hồi thời Chiến Tranh Lạnh,
có khả năng cạnh tranh với Hoa Kỳ và Nhật Bản, đồng minh
chiến lược của Mỹ. Ngoài chuyện giao dịch kinh doanh song
phương càng ngày càng gia tăng, ASEAN càng cố gắng chuyển
hướng để thích nghi với ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc
qua diễn đàn ASEAN+3 (10 quốc gia Đông Nam Á cộng với Trung
Quốc, Nhật Bản và Nam Triều Tiên).
Trong thời Chiến Tranh Lạnh, Nga quan tâm tới Đông Nam Á là
vì ý thức hệ cộng sản và để chiến đấu trong một cuộc chiến
quốc tế chống lại tư bản chủ nghĩa nói chung, và chống lại
Hoa Kỳ nói riêng, ở mọi nơi. Mạc Tư Khoa đến với môi trường
tư bản mới hơi trễ muộn, ở đó những thỏa hiệp tự do mậu dịch
có ý nghĩa nhất là về chi viện và mua bán vũ khí, và phải
phấn đấu gay go để tranh giành ảnh hưởng địa phương với
Trung Quốc và Hoa Kỳ. Nhưng, cuộc chiến đấu cam go giữa
những thế lực của Chiến Tranh Lạnh trước kia nay đã tái xuất
hiện rõ ràng ở Đông Nam Á và trong những năm tới đây sẽ làm
cho đường hướng chiến lược và kinh tế đang diễn tiến trong
vùng càng thêm phức tạp.
(Dựa theo bài "Russian revival for
Southeast Asia"
của Andrew Symon, atimes.com, sept. 11, 2007)
[http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/II11Ae01.html]
|