Tuyết rơi giữa Sài Gòn
Đôi lời vào chuyện
.- Tháng Tư năm 1975, Dirck Halstead ký hợp đồng trở lại với
tạp chí TIME MAGAZINE. Trước kia ông cũng đã làm việc cho tạp
chí này từ mùa xuân 1972. Rút kinh nghiệm quá trình công tác,
Dirck Halstead yêu cầu TIME đừng đưa ông đi chụp hình tổng thống
Mỹ hoặc làm phóng sự chiến tranh, vì ông đã chán ngấy những môi
trường làm việc đó.
Thế nhưng "người muốn mà trời định" nên chi hai tuần sau khi ký
hợp đồng, Dirck Halstead lại phải lặn ngụp dưới hố nước trên
quốc lộ 13 của Việt Nam để tránh né đạn pháo của quân Bắc Việt.
Nếu không thì đời tàn qua ngõ hẹp rồi! Dựa vào kinh nghiệm và
biệt tài của đương sự, tạp chí TIME cần có một người để theo dõi
giai đoạn gay cấn của một chiến trường. Việt Nam - một đất nước
mà hơn hai mươi năm qua, ông đã gắn bó sự nghiệp, với những
thăng trầm nặng tính yêu thương và hờn giận - đang trên đà sụp
đổ. Nên chi, ghét của nào, trời trao của ấy, Dirck Halstead đành
phải mang máy ảnh trở lại Việt Nam.
Đoạn bút ký sau đây của Dirck Halstead chỉ ghi được mười ngày
cuối cùng của Sài Gòn - và đặc biệt trên cương vị của một phóng
viên hình ảnh Mỹ - nhưng cũng cho người Việt Nam chúng ta thấy
được một khía cạnh khác của một đồng minh tháo chạy trong ngày
30 tháng Tư lịch sử đó. Ký sự về "ngày tuyết rơi trắng xóa Sài
Gòn", Dirck Halstead định viết ra mấy lần nhưng không thành. Năm
2000, nhân dịp kỷ niệm thứ hai mươi lăm ngày Sài Gòn tan hàng,
ông mới ghi lại đuợc và đưa lên tờ "báo-kỷ-thuật-số" (The
Digital Journalist), do ông chủ trương và biên tập. Phần lớn
những
hình ảnh kèm theo bút ký này do ông đích thân thực hiện.
Chương 1:
Trở lại Paris của phương Đông
Ngày 20 tháng 4, 1975 - Sân bay Hong Kong
Tôi đang nửa tỉnh nửa say sau khi uống nhiều rượu ở khu hạng
nhứt của chuyến bay Pan Am, cất cánh từ New York, và gật gà gật
gù vì chênh lệch giờ giấc. Đang nối đuôi rồng rắng ở quầy vé
Hàng không Việt Nam để lấy chỗ đi tiếp đến Sài Gòn, tôi thấy có
hàng chữ thông tin cho biết "Tất cả các chuyến bay đi Sài Gòn
đều bị hủy bỏ".
Bộ Sài Gòn đang bị phi cơ tấn công sao cà? Như vậy là nghĩa lý
gì đây? Suốt cuộc chiến tranh, Bắc Việt chẳng bao giờ có chuyến
bay nào đến Sài Gòn. Một nhóm du khách kỳ lạ, tôi chưa từng thấy
bao giờ, đi lảng vảng quanh quày vé. Nào là những chàng híp-pi
nghiện ngập, với những cái nhìn kỳ quặc, nào là những người lính
đánh thuê với những túi ba lô đầy ấp, chẳng khi nào đưa qua kiểm
soát, và dĩ nhiên là những chuyên viên nhiếp ảnh, những ký giả
mà tôi đã từng cùng nhau xuôi ngược trên những con đường bụi bậm
của chiến trường trong mấy năm qua.
Quá ra là có mưu toan đảo chánh, một trong những biến cố đã từng
xảy ra trong mấy năm qua. Xế chiều hôm đó, chiếc Caravelle của
hàng không Việt Nam mất lần cao độ, trong ánh nắng chiều tà miền
nhiệt đới, lướt qua các cánh đồng ruộng lúa và những khúc sông
quanh co của dòng Cữu Long, lung linh ánh sáng, khi chúng tôi
đáp xuống Sài Gòn-Tân Sơn Nhứt, một "Paris của phương Đông".
Ngày 21 tháng Tư - Sài Gòn, Nam Việt Nam
Tôi lại quên Sài Gòn nóng đến mức nào. Mới có bảy giờ sáng thôi,
mà chiếc áo của tôi đã bám dính lưng, khi tôi leo những bậc
thang lên văn phòng của tạp chí TIME/LIFE, nằm trong khách sạn
Continental Palace. Mùi thơm của phở mới nấu, món ăn có thể được
dọn ra cho ba bửa trong ngày của người Việt Nam, làm tôi nghẹt
mũi. Nó làm cho tôi sực nhớ lại rằng tôi vẫn quyến luyến địa
điểm này. Tôi cảm thấy như ba năm đã qua - từ lúc tôi rời nhiệm
sở ở đây tới bây giờ - đã tan biến. Hết rồi, các ngài tổng
thống..., những nàng kiều đẹp đẻ..., chỉ còn lại Sài Gòn..., Sài
Gòn muôn thuở.
Tôi cầm lấy chùm chìa khoá để ở chỗ dấu kín trong văn phòng rồi
đi tới một gian nhà nhỏ nằm sau tòa đại sứ Hoa Kỳ. Đẩy cửa bước
vào, tôi trông thấy chiếc xe con của phòng thông tấn, với bảng
chữ "BAO CHI/PRESS" dáng trên kính xe. Lục lọi ở góc phòng, tôi
gặp lại túi ba-lô đồ nghề cũ của tôi. Tôi trúc tất cả ra nền
nhà, thấy có hai bộ quần áo đi rừng - còn nguyên bảng tên "Dirck
Halstead, TIME/LIFE" thêu trên túi áo - một đôi giày đi rừng,
kiểu phát cho binh sĩ, có đế sắt để chống chông nhọn, nhưng lại
vô hiệu quả đối với mìn, một túi đựng máy ảnh - vẫn còn cuộn
phim hết hạn đã từ lâu, một túi nhỏ chứa thuốc trị rét, thuốc
lọc nước, một vài dụng cụ cứu thương, một chai tương ớt Tabasco
và nửa chai rượu đế, vài ba cái khăn mặt còn dính đất đỏ, một áo
giáp và hai bình đựng nước và cuối cùng là cái nón sắt cũ của
tôi, vẫn còn những chữ "BAO CHI, UPI PHOTOS, HALSTEAD". Tôi
không còn nhớ đã lượm cái nón sắt đó ở đâu. Chắc là nhặt được
trong một trận đánh nào đó khá lâu rồi, đã quên đi. Tôi lại nghĩ
thầm "Thì ra, cũng có được niềm vui như khi trở về nhà!"
0900 giờ
Tôi đang ngồi nhâm nhi ly cà phê đá ở cái quán nằm trên góc
đường Tự Do và theo dõi Leon Daniel, tay ký giả kỳ cựu của UPI
mà cũng là người bạn cũ. Leon nói nếu tôi có muốn đi quan sát
một vài vụ "bùm bùm" thì nên lấy máy ảnh theo. Tôi nhảy theo
Leon, rồi xe chạy thẳng hướng Biên Hòa, chừng mấy mươi cây số
trên xa lộ. Leon giải thích là từ lâu, Quân đội Việt Nam Cộng
Hòa không chịu cho ký giả tháp tùng những cuộc hành quân nữa.
Những phiên thuyết trình quân sự của họ không nói lên được điều
gì hết, nhưng vì bị báo chí Hoa Kỳ làm áp lực mãi nên Không quân
Việt Nam đã quyết định đưa một chuyến trực thăng chở báo chí đến
cứ điểm cuối cùng của lực lượng Nam Việt Nam.
Trong tháng vừa qua, những yếu điễm quan trọng của Nam Việt Nam
đã tan tành gần hết. Trước tiên là Ban Mê Thuột và Pleiku ở Cao
nguyên Trung phần, rồi đến Huế, làm cho gần như toàn bộ Thủy
quân lục chiến Nam Việt Nam bị kẹt và bị tiêu diệt ở bãi biển,
trong khi chờ đợi di tản. Rồi Đà Nẳng, trước kia là căn cứ không
quân then chốt của Mỹ thời chiến tranh. Kế đó là Nha Trang. Và
giờ đây, khi lực lượng Bắc Việt đang hối hả di chuyển trên quốc
lộ đổ xuống phía Nam thì họ gặp trở ngại duy nhứt là xe bồn xăng
của hậu cần không theo kịp để tiếp tế. Một tiểu đoàn đã tơi tả
của Sư đoàn 18 đang cố gắng hết sức mình để án ngữ cửa ngõ vào
Sài Gòn. Chỉ một tiểu đoàn mà đương cự lại sức mạnh phối hợp của
bộ máy quân sự Bắc Việt đang tuông tràn xuống phía Nam trên
đường lộ...và đó chính là nơi mà chúng tôi muốn đến.
11:00 giờ - Tiền đồn Xuân Lộc, phía Bắc Sài Gòn
Chiếc trực thăng Chinook, hơi cũ kỹ, dấy tung một dám bụi mù màu
đất đỏ, khi đáp xuống đường băng. Đâu đâu, chúng tôi cũng nhìn
thấy người tỵ nạn, nhiều người phải lội bộ hàng trăm cây số để
đến nơi này, hy vọng tìm được một nơi yên ổn. Những người chiến
binh bị thương nằm trên cáng cứu thương kêu la, xin nước uống.
Hai chiếc xe Jeep chạy nhanh đến chỗ chúng tôi, tài xế hối chúng
tôi lên nhanh vì hỏa tiển đang bay trên đầu.
Trong lều chỉ huy, tướng Lê Minh Đảo, trong bộ quân phục tác
chiến thẳng nếp, đang vừa nói vừa quơ gậy chỉ huy. Nghe ông nói
với ai đó qua điện thoại dã chiến:"Chúng tôi sẽ giữ vững vị trí
này." Khi thấy một đoàn ký giả, phóng viên hình ảnh và toán
truyền hình đông đảo kéo đến, ông ra dấu hiệu bằng bàn tay nắm
lại, ngón cái đưa lên. Để giải thích thêm, ông tướng nói
rằng:"Tôi không cần biết cộng sản đưa tới mấy sư đoàn. Tôi sẽ
tiêu diệt hết."
Tướng
Đảo mời chúng tôi bước ra khỏi lều để xem khoảng mươi tù binh
Bắc Việt, bị lột trần chỉ còn đồ lót, bị trói ké như heo chờ đem
đi mổ thịt. Leon Daniel nói với tướng Đảo là, theo tin tức đã
được biết về sự chuyển quân của Bắc Việt thì tình hình của ông
kể như tuyệt vọng. Tướng Đảo nổi giận và nhấn mạnh rằng quân của
ông kiểm soát toàn bộ thị xã. Nhưng, cả Leon lẫn Peter Arnett
của hãng thông tấn AP cũng không đồng ý. Tướng Đảo quả quyết
tình hình vẫn tốt đẹp nên ông để cho chúng tôi tùy tiện. Càng có
thêm đạn pháo bắn vào rừng cây xung quanh chúng tôi. Một nhóm
nhỏ trong chúng tôi bắt đầu thấy rằng đã đến lúc phải rút về.
Nhưng, ông tướng muốn chứng minh với Leon. Ông cho xe Jeep đến
ra lịnh chở chúng tôi đi xuống Xuân Lộc.
12:00 giờ - Thị xã Xuân Lộc
Nhóm nhỏ báo chí chúng tôi thận trọng di chuyển trên đường phố
hoang vắng. Tướng Đảo dẫn đầu, vung vẫy chiếc gậy chỉ huy. Ông
gọi to bằng tiếng Việt Nam nhưng chẳng nghe ai trả lời. Có những
xác chết nằm trên đường đi. Khói như còn bốc lên từ những xác
cháy đen. Thành phố thật hỗn độn. Nhưng ngoài tiếng nói của
tướng Đảo, chẳng nghe được tiếng nào khác hết.
Lần hồi những chiếc nón sắt bắt đầu nổi lên từ những hố cá nhơn
hai bên đường. Những chiến sĩ biệt động quân trố mắt nhìn chúng
tôi, cứ tưởng như mơ. Những người khác thì chỉ nhìn một cách
mông lung. Tôi bấm mấy pô hình. Nơi đây đang có khó khăn, tình
hình căng thẳng. Có tiếng súng nổ ở phía đầu đường trước mặt.
Một quân nhân hầu cận chạy đến ông tướng và đưa tay chỉ về phía
rặng cây. Dường như có bóng người mặc đồ đen chạy qua chạy lại
trong hàng cây. Hay là tôi đang ảo tưởng?
Bỗng dưng, tướng Đảo quyết định là đến lúc phải rời địa điểm.
Những chiếc Jeep của chúng tôi quày đầu trở lại và chạy nhanh
đến bãi đáp trực thăng, trong khi người lính đi theo liên lạc
bằng vô tuyến. Hai chiếc Chinook đáp xuống tung cao đám bụi đất
đỏ. Khi chúng tôi bắt đầu chạy ra trực thăng, người lính, đã đi
theo chúng tôi từ thị xã, vượt qua chúng tôi rồi phóng điên
cuồng ra Chinook. Hai người lính Việt Nam đang khiêng một người
bị thương, bỏ anh ta xuống. Tên lính phía sau bỏ rơi người
thương binh chạy đi. Leon Daniel điên tiếc lên, rượt đuổi theo
tên lính kia và nện cho anh ta một quả đấm. Binh lính khác cũng
chạy ùa ra trực thăng đang bốc lên cao. Một vài người rớt lại vì
trực thăng đã lên cao. Không đầy một phút, vậy là xong hết. Hai
chiếc trực thăng đã bay xa. Anh thương binh rên rỉ. Nhiều người
lính khác chỉa súng bắn theo trực thăng. Chúng tôi nhìn quanh.
Cả đoàn báo chí nhỏ nhen vẫn còn ở lại trên đường. Chúng tôi bắt
đầu thấy rằng cuộc chiến có vẻ gần như chấm dứt.
15:00 - Trên vùng trời Xuân Lộc
Chiếc
Chinook, mà chúng tôi nghĩ rằng chẳng bao giờ thấy nó được nữa,
bay bổng lên cao, đưa chúng tôi ra khỏi Xuân Lộc. Rõ ràng là
tướng Đảo cảm thấy có trách nhiệm cho sự an toàn của chúng tôi.
Ông đã gọi trực thăng chỉ huy của chính ông để đưa chúng tôi đi,
và dặn phải đáp xuống một nơi an toàn, không bị đám đông quấy
rầy. Khi chia tay, tướng Lê Minh Đảo, cặp mắt ứa lệ, nói với
chúng tôi:"Tôi không muốn quý vị chết cùng với tôi...nếu có cơ
hội trở lại đây nữa thì quý vị nên từ chối. Mong quý vị nói cho
nhân dân Mỹ biết rằng quý vị đã trông thấy sư đoàn 18 chiến đấu
và chấp nhận cái chết như thế nào. Thôi quý vị hảy đi đi!"
Chương 2
:
Đưa tôi đi Mỹ nha ông
Ngày 21 tháng Tư - 08:00 giờ - Sài Gòn
Đại lộ Thống Nhứt, khoảng trước tòa đại sứ Hoa Kỳ, đông nghẹt
người ta, ồn ào hỗn độn. Hàng trăm người Việt Nam la ó và phe
phẩy giấy tờ, tài liệu, bên ngoài cái cổng sắt đồ sộ.
Cùng với nhiều nhiếp ảnh viên khác, tôi len lỏi tìm đường xuyên
qua đám đông, vừa đi vừa chụp hình. Thình lình, một chiếc xe
Jeep và hai GMC quân cảnh đậu gấp lại bên ngoài đám đông. Họ dàn
hàng ngang dọc theo bờ tường sứ quán. Một tay cầm khiên bằng mây
đan, tay kia cầm dùi cui. Theo lịnh của một sĩ quan, họ tấn công
vào đám đông. Thiên hạ nháo nhào, té chồng lên nhau, đám đông
lùi ra xa tuyến rào cảng đang dàn ra ngang con đường.
Chúng tôi chui qua cổng để vào bên trong sứ quán mà bên trên có
một chiếc trực thăng màu trắng của Air America đang đậu. Đại sứ
Graham Martin ăn mặc chỉnh tề, áo vét cà vạt, đang đứng dưới tán
lá cây me cổ thụ. Ông có vẻ lo âu về chuyện quân Bắc Việt đang
lảng vảng cách thủ đô Sài Gòn không đầy 50 cây số. Những người
có trách nhiệm trong báo giới ngoại quốc ở Sài Gòn có những vấn
đề khẩn cấp và riêng tư. Phần lớn tổ chức báo chí nào cũng có
nhơn viên là người Việt Nam làm việc cho họ đã lâu năm. Bây giờ,
vấn đề là làm thế nào để đưa họ ra khỏi Việt Nam.
Tại
cuộc họp báo được triệu tập khẩn cấp, đại sứ Martin cũng không
chịu đề cập đến vấn đề đó. Một phóng viên đặt câu hỏi là đã có
bao nhiệu nhơn viên Việt Nam của sứ quán đã rời Sài Gòn? Ông đại
sứ đáp rằng:"Theo chỗ ông biết thì, trong vòng 24 giờ qua, mới
có 444 nhân viên Mỹ lẫn Việt đã ra khỏi đất nước." Đối với ông
đại sứ, vấn đề di tản là chuyện ông không thích bàn tới. Ông
nghĩ là nếu có quá nhiều người ra đi thì dân chúng sẽ rối loạn,
gây nguy hại cho chánh phủ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau
khi ông đại sứ rời cuộc họp báo, các trưởng cơ quan thông tấn
giữ tùy viên báo chí của sứ quán lại và bắt đầu quy hoạch chuyện
di tản của họ.
12:00 giờ
Chúng tôi lái chiếc xe con chạy lên quốc lộ 1, cách Sài Gòn
khoảng 40 cây số. Chúng tôi dừng lại tại tiền đồn cuối cùng của
quân chính phủ. Đối với tôi thì toàn là những cảnh đã quen mắt.
Cách nay ba năm, hầu như cũng tại chỗ này, David Kennerly và tôi
bị bắt buộc phải nằm mọp xuống trong một cuộc chạm súng giữ dội.
Đó là lần đầu tiên tôi thấy được quân lính Bắc Việt đang hành
động chớ không phải bị chết hoặc bị bắt làm tù binh. Chúng tôi
bị bao vây hàng giờ. Giờ đây, trong năm 1975 này, chiến tuyến
không còn cách xa nhau nữa. Những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa
ngồi gần hố cá nhơn nấu ăn trong khi đạn pháo binh của cộng sản
thỉnh thoảng bay qua đầu họ. Con đường cái quan vắng lạnh, loan
lỗ vì đạn pháo, chạy dài tới tận chân trời, có vài ba đám khói
đen bốc lên và những tiếng tác xạ ì ầm.
Nik Wheeler, một nhiếp ảnh viên làm việc cho tuần báo Newsweek
muốn đi xa hơn nữa trên con đường đó, đến khu đất giữa hai chiến
tuyến. Tôi cho đó là một ý nghĩ điên rồ. Tôi đã bị ở Xuân Lộc
một lần, giờ lại đến đó nữa thì không có tôi. Không có bài phóng
sự về những gì xảy ra ở quốc lộ 1 vì câu chuyện to lớn sắp xảy
ra và dứt khoát đó là sự sụp đổ của Sài Gòn.
Ngày 22 tháng 4
Một
tình hình tôi chưa bao giờ chứng kiến khi đi trên đường phố Sài
Gòn. Đường Tự Do, một con đường chánh, rất rộn rịp, lúc nào cũng
ồn ào, nay lại im lặng một cách khác thường. Không còn những đứa
bé đi rong trên đường kêu xin "Ông cho tôi tí tiền". Những tiệm
bán hàng nghệ thuật, đầy dẫy những tranh cổ điển Việt Nam và
những tranh trên vải to lớn, nói lên cái kinh hoàng của chiến
tranh, vắng khách như chùa bà Đanh. Các bar, với những cô gái đi
giày cao gót, chào đón khách Mỹ bằng câu mời quen thuộc "You
want Saigon tea?", giờ cũng vắng tanh. Ông chà và tiệm sách,
kiêm thêm nghề đổi tiền, giờ cũng hoàn toàn ngồi đếm thời gian.
Thế nhưng, có những nét mặt âu lo thập thò đàng sau những cánh
cửa hé mở. Quân cảnh rượt đuổi những anh lính đào ngũ trên
đường. Một đám trẻ con bám lấy tôi van xin "Đem tôi sang Mỹ đi
ông!"
20:00 giờ
Thiết quân luật đã được ban hành. Bọn chúng tôi bao quanh chiếc
máy thu hình ở quày rượu khách sạn Caravelle. Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu đang đọc một bài diễn văn quan trọng cho cả nước. Một
cuộc giả từ. Mặc chiếc áo nhà binh hở cổ, ông nói những lời từ
biệt đắng cay. Ông nguyền rủa tổng thống Ford, ngoại trưởng
Kissinger và thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ rơi Việt Nam. Nước mắt
chảy dài xuống má, tổng thống Thiệu kết thúc bài diễn văn bằng
những lời nói sau đây:
"Hôm nay tôi ra đi. Tôi xin đồng bào, quân đội và đoàn thể tôn
giáo hãy tha thứ những sai lầm của tôi trong khi cầm quyền. Đất
nước và tôi sẽ hết lòng tri ân. Tôi không xứng đáng. Tôi xin từ
chức, nhưng tôi không đào ngũ."
Chúng tôi nhìn nhau, không tin là có thể như thế được. Hầu như
ông tổng thống đơn thương độc mã hoàn toàn chịu trách nhiệm về
sự hỗn loạn của Sài Gòn hiện nay. Quyết định rút quân từ phía
Bắc của ông ta để tăng cường Sài Gòn là nguyên nhân làm cho sức
mạnh của Việt Nam phải bị tan rã.
23:00 giờ
Đường
phố Sài Gòn hoang vắng, ngoại trừ vài ba xe Jeep quân cảnh thỉnh
thoảng chạy tuần tra và một vài ông cảnh sát lẳng lặng đạp xe đi
"rông". Tất cả các Bar đều im lặng. Giờ giới nghiêm đã điểm.
Nhiều xe buýt đen, không đốt đèn hiệu lướt êm như những bóng ma
trên đường rồi dừng lại trước khách sạn Palace.
Trong âm thầm, một người Mỹ vận thường phục đưa một nhóm người
vừa Tây phương vừa Việt Nam, ra đường, dừng lại trước xe buýt.
Một đứa bé oà lên khóc, mẹ nó lấy tay bụm miệng nó lại. Đoàn
người đó lẳng lặng chui vào xe buýt đang đậu chờ, cũng như những
đoàn người tương tự đang làm như vậy, cùng lúc đó ở nhiều nơi
khác trong thành phố. Cũng im lặng như khi đến, những chuyến
buýt lướt đi âm thầm trong bóng đêm.
Sáng ra, trên đường đi làm, người Việt Nam sẽ để ý thấy có nhiều
tiệm đóng cửa. Bạn bè đến thăm những gia đình sẽ thấy cửa nhà đã
khóa chặt. Vài ba cái bao và những cái thùng không được chất
đống trên dĩa hè. Cuộc di tản đã bắt đầu.
Chương 3
:
Chỉ có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra
Thứ Tư, 23 tháng Tư
Khu DAO, Căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt
10:00 giờ
Một cảnh hỗn độn khác thường tại một địa điểm giải trí của Mỹ,
nhà chơi Bowling. Một thằng bé đang tắm trong một thùng nước.
Người Việt Nam nằm la liệt, có kẻ ngủ trên những lằn ném banh
gỗ. Rác rến, phân người dưới đường mương. Tôi thấy một công nhân
xây dựng Mỹ, đầu đội chiếc nón Cowboy, điền giấy tờ cho cô bạn
Việt Nam đang bám lấy tay ông, mặt mày lo âu. Cô có dáng vẻ của
một gái bán Bar, chiếc váy cũn cỡn bên trên đôi giày ống. Một
viên chức sứ quán giải thích rằng chỉ cần gã đàn ông ký giấy cam
kết sẽ hỗ trợ cô bên Hoa Kỳ là cô có thể rời Việt Nam. Viên chức
đó thừa biết rằng cô gái này đâu phải là người duy nhứt ra đi
theo kiểu đó. Nhiều hãng thầu Mỹ đã làm giấy bảo lãnh cho những
cô gái của cả một cái Bar đi Mỹ nữa kìa. Chỉ có trời mà biết
chuyện gì sẽ xảy đến cho những cô gái này ở bên Mỹ. Tôi nghĩ
bụng rồi đây Mỹ không những sẽ tiếp tay cho nghề mãi dâm trên
đất nước Hoa Kỳ mà chính phủ còn phải trả phụ cấp cho bọn ma cô.
Bên ngoài nhà chơi Bowling, hàng ngàn người Mỹ và Việt Nam đứng
chụm nhum, bàn bàn, tán tán. Những người may mắn thì tìm được
bóng mát dưới tàn cây, gia tài của cải nằm dưới chưn. Có người
ăn mặc bảnh bao. Có người có vẻ giàu có, với những chiếc va li
nặng kỳ lạ, chắc là đầy vàng khối trong đó, sau khi đem tiền đổi
lấy quý kim của Ba Tàu Chợ Lớn.
Đằng cuối khu, binh sĩ không quân tập hợp từng nhóm trăm người,
khi đã đủ số, đưa lên xe buýt chạy ra phi cơ. Trên không lúc nào
cũng nghe tiếng động cơ phản lực thường xuyên cất cánh đi Guam,
Manila và San Francisco, hoặc đáp xuống.
14:00 giờ - Quốc lộ 1 - 40 cây số phía Bắc Sài Gòn
Tôi
đang chụp hình quân lính Việt Nam quảy gà trên vai, theo sau là
những nông dân đầu đội nón lá, la lối khiếu nại. Đạn pháo thường
xuyên rót vào, rơi nổ inh tai nhức óc, cách chỗ chúng tôi chừng
cây số.
Thình lình, một đoàn thiết vận xa tháo chạy gần đó, đụng toán
lính bắt gà của dân đang đi trên đường, nhưng cũng không chịu
chạy chậm hay ngừng lại. Nik Wheeler la lên:
"Chết rồi, lại rút
lui. Sư đoàn 18 bỏ chạy rồi!"
Thứ Năm, 24 tháng Tư
Sài Gòn - 08:30 giờ
Con đường chánh của Sài Gòn trông vẫn giống như cách nay 10 năm,
khi Hoa Kỳ đã có mặt tại Việt Nam. Một vài cái Bar đã mở cửa, và
mấy cô nàng xinh đẹp, váy ngắn đã đứng trước cửa vẫy tay mời
gọi. Ở những gánh phở bên đường, người Việt Nam ngồi chồm hổm,
thưởng thức tô phở buổi sáng.
Điều thay đổi duy nhứt, dễ thấy đối với con mắt đã quen, là bỗng
nhiên đường phố Sài Gòn có quá nhiều lính tráng Việt Nam. Lang
thang một cách vô tích sự, hoặc đi từng đám đông đòi hỏi được
giúp đỡ, chớ không phải xin của bố thí. Một trận cãi vã ầm ĩ khi
một nhóm quân nhân ăn uống mà không trả tiền tại một quán ăn
đường phố. Một xe quân cảnh đỗ xoẹt lại và lính QC túa ra. Súng
bắn chỉ thiên, thế là dân thường và nhà binh chạy tránh đạn,
giẫm phải một thương binh cụt hai chưn, ngồi xe lăn xin ăn ở gốc
đường.
Xa hơn nữa đằng cuối đường, một chiếc xe tải nhỏ hiệu Ford lặng
lẽ đến đậu trước tòa nhà cao ở bờ sông. Một thủy quân lục chiến
Hoa Kỳ, ăn mặc đồ trận xuống xe, theo sau có nhiều đàn bà Việt
Nam, với thùng sơn và cọ. Họ nhanh chóng chui vào tòa nhà, lấy
thang máy lên trên nóc để làm việc. Một giờ sau, họ hoàn tất
công tác, trở xuống xe và tiếp tục đi đến địa điểm kế tiếp. Bên
trên tòa nhà họ vừa rời đi có một số 2 màu vàng, mới sơn.
Cercle Sportif Sài Gòn - 12:30 giờ
Thời
gian trôi qua êm ả ở Cercle Sportif, một câu lạc bộ thể thao do
người Pháp thành lập để họ vui chơi dưới thời thực dân. Cái câu
lạc bộ sang trọng đó - nằm ngay sau dinh tổng thống - đã nhắm
mắt dửng dưng với cuộc chiến từ ngày thành lập đến nay.
Mỹ và Việt Nam trám đầy những sân quần vợt, dẫu cho giữa trưa
đứng bóng, trong khi bên hồ bơi những người hầu bàn bưng ra
những ly cối chanh vắt mát rượi cho những người Mỹ, người Pháp
và những người phụ nữ hai dòng máu đang tắm nắng.
Michel Laurent, một nhiếp ảnh viên tự do người Pháp, quần bò, áo
bốn túi, băn khoăn muốn đi làm phóng sự bên ngoài Sài Gòn. Anh
ta cho rằng cứ ngồi ở hồ bơi như vầy mất hết thời giờ. Nik
Wheeler nhắc lại anh ta về những gì đã thấy ở quốc lộ hôm trước.
Nay, sư đoàn 18 đã tan hàng thì làm gì còn có chỗ đi ra ngoài
Sài Gòn?
Chúng
tôi thảo luận với anh ta rằng dẫu cho mình có qua được bên kia
nút chặn thì nếu có lệnh di tản rồi làm sao đây? Rồi anh ta lại
cứ quanh quẩn với những chuyện rừng núi trong khi câu chuyện
đích thực đang xảy ra ở Sài Gòn. Michel không chấp thuận luận
điểm của chúng tôi và anh ta bỏ đi, điếu xì gà ngậm chặt giữa
hai hàm răng. Còn chúng tôi thì kêu thêm hai ly chanh vắt nữa.
Văn phòng của NBC, Sài Gòn
17:30 giờ
Văn phòng của NBC, nhìn xuống đại lộ Nguyễn Huệ, là một tổ ong
rộn rịp sinh hoạt. Ngoài phóng viên, toán thu hình và nhơn viên
viết bài ra, còn có hàng chục người Việt Nam kiên nhẫn xếp hàng
đứng dọc theo tường.
Ngồi trong phòng, Henry Griggs - một phóng viên chiến trường của
NBC từ New York sang thế tạm chức vụ trưởng cơ quan thông tấn -
thở ra khi có thêm một người Việt Nam nữa bước vào. Một bà người
Việt, ăn mặc vén khéo, tóc tai bù xù, nước mắt hai hàng, yêu cầu
Henry giúp đỡ cho gia đình bà ra khỏi Sài Gòn. Bà cho biết là em
họ bà - người đã hy sinh tại mặt trận trong cuộc tấn công vào
Cam Bốt - đã có lúc làm văn thơ cho NBC, phụ trách việc đem phim
ra phi trường. Anh ta lúc nào cũng đề cao NBC, và bây giờ chắc
là hãng thông tấn sẽ đưa gia đình bà ra khỏi nước.
Griggs biết rằng cảnh tượng đó ở cơ quan thông tấn nào của Mỹ ở
Sài Gòn cũng có. Ông bắt đầu giải thích rằng ông chỉ có thể đưa
nhơn viên của NBC và gia đình đi trước đã. Đêm hôm trước, Griggs
đã thức gần tới sáng cùng với một nhóm trưởng cơ quan thông tấn
để lên kế hoạch di tản. Dường như chẳng đi tới đâu cả. Cũng nhóm
đó thậm chí đã thuê một chuyến phi cơ phản lực để đưa nhơn viên
Việt Nam của họ đi mấy đêm trước đó, nhưng phi cơ đã không được
phép đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Hôm tuần rồi, Griggs đã đi Hong
Kong gọi điện cho David Kennerly, nhiếp ảnh viên của Bạch Cung,
yêu cầu ông này trình với tổng thống xem có cách nào không. Ông
Kennerly đã đích thân tìm hiểu trường hợp Nam Việt Nam bị sụp
đổ, có hứa sẽ làm mọi cách trong khả năng mình, nhưng từ đó đến
nay , chẳng có gì hết!
Griggs nhìn ra cửa sổ, thấy ở rạp chiếu bóng REX, bên kia đường
quần chúng Việt Nam đang mua vé để xem phim mới của Brigitte
Bardot, "Boulevard du Rhum". Ông ngó lên nóc của rạp Rex, nay
hoang vắng, và nhớ lại thời vàng son của nó, lúc nó còn là nhà
hàng sang trọng của câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ. Ông ta đã trải
qua một thời gian thoải mái ở đó, kết thân với lắm bạn bè, hồi
thời 1966. Lúc bấy giờ mọi việc đều đơn giản!
Chương 4
:
Xin ông làm ơn đưa tôi đi
Ngày 25 tháng Tư - Sứ Quán Anh, Sài Gòn
08:00 giờ
Khói đen bay lên cuồn cuộn ở phía tòa đại sứ Anh, người ta thiêu
hủy tài liệu. Cổng tòa đại sứ mở toang, ông đại sứ John
Christopher Wydows Bushell, trong bộ đồ bốn túi thẳng nếp, đi
chiếc Jaguar màu bạc, chạy ngang qua đám nhơn viên sứ quán đang
la lối om sòm, hướng về Tân Sơn Nhứt để di tản.
Nik Wheeler nói rằng như vậy còn ít tàn nhẫn hơn bọn Canada.
Chúng nó biểu nhơn viên ngày hôm sau trở lại để được đưa đi,
nhưng khi trở lại thì thấy mọi người đã chuồn mất đêm trước rồi!
Saigon - Một khu công giáo ngoại ô, gần Tân Sơn Nhứt
14:00 giờ
Một
đoàn người lũ lượt kéo đi - gần như một cuộc biểu tình - trên
con đường đầy cát bụi và nóng bức. Đủ thứ bích chương, biểu ngữ,
mang những khẩu hiệu như "Chiến đấu tới cùng...Việt Nam Cộng Hòa
muôn năm". Thỉnh thoảng có một biểu ngữ khác hơn, màu xanh và
vàng với hàng chữ "Hòa bình và thương thuyết - Đừng đổ máu".
Những bích chương, biểu ngữ viết tiếng Việt hàng trên, nhưng
cũng có tiếng Anh ở hàng dưới dành cho những toán truyền hình
Mỹ.
Đoàn biểu tình kéo tới một khán đài, đặt trước một nhà thờ. Với
tiếng hoan hô vang dội, đám đông đưa người hùng của họ lên diễn
đàn. Ông tướng không quân Việt Nam đó - cựu chủ tịch ủy ban hành
pháp trung ương và cựu tổng thống Việt Nam - không ai khác hơn
là Nguyễn Cao Kỳ. Với cái khăn quàng cổ quen thuộc, với bộ đồ
bay áo liền quần truyền thống và không thiếu khẩu súng lục bên
hông, ông ta lên tiếng trước đám đông.
Tướng Kỳ hô hào dân chúng chống trả lại đà tiến của quân cộng
sản. Ông cho rằng bọn cộng sản là "một lũ chuột và sẽ không khi
nào vào Sài Gòn được". Ông ta cam kết tiếp tục chiến đấu, với
một khẩu khí hiếm thấy:
"Cứ để cho bọn hèn nhát chạy theo Mỹ, còn
những ai yêu Việt Nam thì hãy ở lại để chiến đấu."
Một nhà báo Việt Nam quay sang chúng tôi và càu nhàu:
"Ông ta
điên rồi!" Chúng tôi rời đám đông, tiếng nói của ông Kỳ, qua loa
phát âm, cứ theo đuổi chúng tôi ra đường cái. Chúng tôi đang chờ
Taxi thì có tiếng còi hụ vang lên giữa tiếng ồn ào của xe cộ lưu
thông. Một chiếc Jeep quân cảnh, bên trên có đặt súng máy, vượt
qua toán xe cộ, mở đường cho một chiếc Mercedes màu đen, theo
sau là một chiếc xe Ford chở đầy mật vụ. Đoàn xe vụt qua rồi mất
dạng ở cuối đường. Tôi thắc mắc thì người phóng viên Việt Nam
mĩm cười và đáp:"Ông Thiệu chớ ai. Ông ấy đang từ giả Việt Nam."
Sài Gòn, văn phòng TIME/LIFE
17:00 giờ
Roy Rowan, xử lý thường vụ trưởng cơ quan của TIME, đang họp văn
phòng. Tôi nhìn quanh căn phòng. Đã có lịnh mới của New York
cũng như của sứ quán Hoa Kỳ cho chúng tôi. TIME quyết định hạn
chế việc đưa thêm người đến Sài Gòn. Họ cũng muốn chúng tôi giảm
nhơn số càng nhanh càng tốt. Những lịnh từ New York đã rõ ràng
là đưa nhơn viên Việt Nam đi, rồi rút bớt nhơn số còn lại. Chỉ
còn phần nhơn viên cốt lõi ở lại đến lúc cuối cùng.
Tòa đại sứ cho các trưởng cơ quan thông tấn biết rằng trong
trường hợp di tản Sài Gòn, đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ sẽ
phát bản thông cáo khí tượng đặc biệt, như sau:"Nhiệt độ lên đến
105 (độ F) và đang tăng lần!" Khi nghe tín hiệu đó, tất cả các
nhơn viên làm tin tức người Tây phương phải đến tập trung ở địa
điểm di tản, đã được quy định, trong thành phố. Chúng tôi được
biết công tác di tản sẽ quyết liệt nhứt khi đài phát thanh bắt
đầu phát đi điệu nhạc "White Christmas" do Bing Crosby trình
bày.
[...]
Ngày 26 tháng Tư
Sài Gòn, Khách sạn Continental
Một nhóm nhỏ nhà báo Mỹ ngồi quanh một cái bàn ở trên sân bên
trong khách sạn Continental. Cái khách sạn cũ kỹ này ăn nên làm
ra nhờ những quân đội chiếm đóng. Ban đầu là Pháp, kế đến là Mỹ.
Trong khi chẳng có khách sạn mới nào cất thêm gần đó, một số
khác sau này bị khủng bố phá hoại, Continental tìm cách để thoát
khỏi mọi thứ đó, phần lớn nhờ biết nộp nhiều "thuế" cho cộng
sản. Người ta còn có cảm tưởng là một vài nhà báo làm việc trong
khách sạn, thực ra là người của cộng sản. Kết quả là khách sạn
này được báo chí ngoại quốc chiếu cố, vì một phần nào đó họ có
được cái cảm tưởng là còn hưởng được cái thích thú của thời thực
dân Tây, đã qua rồi từ lâu, ngày nay chỉ còn lại cái hào nhoáng
vật chất mà thôi.
Mấy cậu bé đường phố liếc mắt canh chừng những anh dọn bàn để
lẽn vào bên trong nhà hàng, xin đánh giày, bán báo khiêu dâm,
thậm chí "bán" chị của chúng và, xa hơn nữa, bán anh hay em
trai của tụi nó và tệ hại hơn nữa bán thân của chính chúng nó
cho những ai thích làm tình kiểu kỳ quái!
Thế nhưng, sáng hôm nay chẳng có nhà báo nào để ý đến những cái
trò quái quỷ thường ngày đó nữa. Họ chỉ bàn tán đến số phận của
Michel Laurent vừa bị hy sinh trong khi đang hành nghề tại hiện
trường. Michel đang làm nhiệm vụ với một toán thu hình thì bị VC
pháo kích ở quốc lộ 1. Chuyên viên thu hình may mắn thoát khỏi,
nhưng giây phút cuối cùng anh ta còn trông thấy được Michel là
khi hắn ta bỏ anh ấy mà chạy thẳng vào phía hỏa lực đối phương.
Có thể Michel đã bị thương. Michel là con người kỳ cựu của chiến
tranh Việt Nam, đã từng theo dõi cuộc chiến này trong vòng năm
năm qua. Cộng thêm hai năm phóng viên chiến trường ở Phi Châu,
với quân đội Pháp, chưa kể thời kỳ ở Bangladesh. Dẫu sao đi nữa
thì Michel cũng là người Pháp...nhưng tuy vậy họ vẫn biết rằng
khi một người bạn đã tuyệt tích giang hồ thì chẳng còn khi nào
trở lại nữa! Và chúng tôi bắt đầu nghĩ đến thân phận của chính
mình.
Quày rượu trên sân thượng khách sạn Majestic
23:00 giờ
Bọn chúng tôi, người nào cũng già ba mươi năm kinh nghiệm chiến
trường Việt Nam, đang kết thúc bữa ăn tối bằng rượu mạnh để giúp
đỡ tiêu hóa và xì gà Cuba. Nhóm này gồm có Roy Rowan của tạp chí
TIME, người đã từng chứng kiến sự sụp đổ của Quốc dân đảng Trung
Hoa vào tay Trung cộng ở Thượng Hải. Vì vậy nên tòa soạn báo
TIME ở New York tặng cho anh ta bí danh là "người đóng cửa đất
nước". Còn có Catherine Leroy, một cô đầm nhỏ thó nhưng năng nổ
hăng say, đã làm bài phóng sự độc đáo cho tạp chí Life, nhờ chị
đã đi thực tế trong hàng ngũ Việt Cộng khi cộng sản bao vây Huế
hồi Tết Mậu Thân. Ngoài ra, còn có Dave Greenway của Los Angeles
Time, Mark Godfrey, Nik Wheeler và tôi.
Trải qua một lúc lâu thoải mái, trong bầu không khí ẩm ướt của
đêm Sài Gòn và với hương thơm thoang thoảng của phương Đông,
dường như trong một giây phút ngắn ngủi chiến tranh đã đi đâu
mất. Thức ăn ngon, rượu vang tuyệt vời và độ nồng ấm của rượu
mạnh sau bữa ăn loan tỏa qua đầu và qua người, những chuyện của
Sài Gòn, trong phút chốc, đã biền biệt đi xa.
Khi những người hầu bàn bắt đầu thu dọn, vì đã quá khuya, thì
câu chuyện của chúng tôi trở lại với thực tại. Rồi chúng mình sẽ
làm gì đây? Không một ai trong bọn tôi cho rằng nguy cơ sẽ do
quân lính Bắc Việt mà ra. Thế nhưng, tình hình phân hóa, không
ai chỉ huy của quân đội và cảnh sát Việt Nam làm chúng tôi lo
ngại nhiều hơn. Quân đội và cảnh sát lâm thời sẽ điên loạn lên
khi Mỹ ra đi và cộng sản tái lập được trật tự. Chúng tôi đã thảo
luận về vấn đề đó không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng tiếc thay
chưa có câu giải đáp.
Nik Wheeler và tôi rời bàn ăn, đứng lên nhìn xuống sông, từ lầu
tư của cái khách sạn xưa cũ nằm trên bờ sông. Nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh đang nằm yên trong bóng đêm. Tôi nhớ lại có một đêm tôi
suýt chết khi trái mìn định hướng nổ bên cạnh, và tôi đang chụp
cảnh trí đó. Một người bạn bị thương kêu cứu nên tôi vừa quỳ gối
xuống xem anh ta thì những mảnh vỡ của quả mìn bay trên đầu tôi.
Giờ thì nhiều bạn bè đã nằm xuống nơi chiến trường này. Henri
Huet, chuyên viên nhiếp ảnh, cùng làm việc với tôi ở UPI Sài
Gòn, Dana Stone và Sean Flynn, những phóng viên mạo hiểm, mãi mê
đuổi theo niềm hứng khởi của mình, nên đã lọt vào tay tiểu đội
hành quyết Cam Bốt, Larry Burrows, người nghệ sĩ dễ thương của
tạp chí Life, Kyoichi Sawada, người đã chiếm giải Pulitzer đầu
tiên khi làm việc cùng cơ quan thông tấn UPI với tôi và nay đến
lượt Michel!
Trên đường đi xuống cầu thang, chúng tôi qua ngang một gian
phòng rộng lớn đả được chính phủ mới của Dương Văn Minh sắp đặt
để mở hòa đàm. Một chiếc bàn tròn to lớn nằm ở giữa phòng. Trên
bàn là một huy hiệu của Kinh Dịch, có hai chim bồ câu bao quanh.
Đó là huy hiệu mới của chính phủ hòa hợp hòa giải. Chúng tôi mĩm
cười khi nhìn thấy anh bảo vệ nằm ngủ trên mặt bàn. Tôi bước đi
vào đêm tối im lìm.
Chương 5
:
Ai làm ăn lương thiện có thể ở lại
Ngày 27 tháng Tư - Sài Gòn, khách sạn Palace
01:00 giờ
Tôi chưa giải nghể được sau cuộc chè chén đêm qua. Tôi lấy một
chai bia 33 trong tủ lạnh nhỏ đặt trong phòng. Tôi vẫn còn nửa
điếu xì gà "Romeo & Juliet" của bữa ăn hôm qua ở Majestic. Tôi
ngồi trên giường để ghi những lời chú thích cho cuộn phim mà
ngày mai tôi phải gởi đi New York. Tôi bước lại tủ lạnh, lôi một
chai Cognac nhỏ và thêm vào tí Soda. Tôi tắt máy điều hòa không
khí, rồi mở cửa sổ ra. Vì lịnh giới nghiêm nên đường phố như
vắng tiếng xe cộ. Tôi nhớ ra rằng chưa bao giờ gặp một tình hình
như vậy của Sài Gòn. Chắc giống cảnh Sài Gòn trong những năm hai
mươi, trước thời kỳ của xích lô, của xe Lam và của những chiếc
Taxi hai màu vàng và xanh lơ chạy khắp phố phường.
Tôi nhìn ra những con đường rộng lớn của thành phố. Gần như
hoang vắng. Khi người Pháp vẻ bản đồ Sài Gòn, họ hình dung những
con đường rộng rãi và có trồng cây hai bên. Quả thật như là
Paris của phương Đông. Tôi đem máy ảnh ra lau chùi. Bụi đất đỏ
len lỏi vào nhiều bộ phận của máy ảnh. Tôi kéo vạt áo thun để
lau bộ phận ngắm. Tôi thật tình muốn làm thêm một phóng sự nữa ở
quốc lộ 13. Có lẽ vào buổi sáng.
David Kennerly đến đón tôi tại khúc quanh bằng xe của khách sạn
Caravelle. Chúng tôi định thực hiện một "chuyến đi an toàn" ra
tiền tuyến. Leon Daniel ngồi băng sau. Dọc theo quốc lộ 13,
khoảng 30 cây số về phía Bắc của Sài Gòn là chúng tôi bắt đầu
vào vùng phi quân sự. Chúng tôi choàng áo giáp lên vai và núp
xuống bên trong xe. Người tài xế nhấn hết ga và chúng tôi lao đi
nhanh như tên lửa trong khi hỏa tiễn Bắc Việt bay veo veo trên
đầu.
Chúng tôi bắt kịp một đại đội Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang di
chuyển lên hướng Bắc. Chúng tôi chụp hình quân lính và chiến xa
của họ đang tiến trên quốc lộ, rồi dừng lại ăn trưa. Đang gặm
miếng ăn cầm tay (Sandwich) thì đám mây đen nghịt bắt đầu kéo
đến. Mưa bắt đầu rơi nặng hột thì một tràng AK-47 nổ trên không,
ngay trên đầu tôi. Tôi cảm thấy không khí rung động. Đột nhiên,
hàng cây cháy bùng lên. Chiếc xe của khách sạn xoay tròn và tan
ra nhiều mảnh vụn trên quốc lộ, bỏ chúng tôi lại bơ vơ. Đạn pháo
cỡ lớn, loại 105 ly, bắt đầu rơi quanh chúng tôi. Một chiếc
thiết vận xa, cửa sau còn mở, chạy thoáng qua. Tôi chạy theo
thật nhanh, dưới cơn mưa, nhảy gọn lên, xong khép cửa lại.
Trong góc xe, một bóng người ngả xuống, khói bốc lên từ thân
xác. Tôi nhìn xem, thì dường như là một chuyên viên nhiếp ảnh.
Máy ảnh loại Nikon F của anh nằm xoài trên sàn xe, chiếc máy tan
tành. Tôi thử nhặt chiếc máy lên, nhưng nóng quá. Tôi đành bỏ
xuống. Bên ngoài chiếc thiết vận xa, tôi có thể nghe tiếng đạn
pháo đang tìm mục tiêu. Màng nhĩ của tôi nổ lung tung. Một quả
tạc đạn lân tinh nổ bùng bên trong thiết vận xa. Tiếng nổ thật
chát chúa. Chất lân tinh bốc lên không rồi rơi xuống như những
cánh tuyết, chỉ khác là rơi xuống chỗ nào là cháy chỗ đó. Tôi
thấy lớp da của tôi bốc cháy, nhưng kỳ lạ vô cùng, là tôi chẳng
thấy đau đớn gì hết. Đạn pháo và hỏa tiễn đang tập trung vào
tôi. Và đang lần hồi tới gần...
Khách sạn Palace
04:00 giờ
Tôi thức giấc, chiếc áo thun đẫm ướt mồ hôi. Thì ra, cái máy
điều hòa không khí đã ngừng từ lâu. Thình lình, có một sự rung
động như là hỏa tiễn rơi ngay bên ngoài cửa sổ. Mảnh vụn văng tứ
tung. Có tiếng còi hụ. Tôi chạy ra khỏi phòng và chạy xuống cầu
thang, ra đường. Vụ nổ làm bừng sáng cả một góc trời. Có lửa
cháy trên nóc khách sạn Majestic, chỉ cách chỗ tôi một khu nhà.
Tôi len lỏi đi qua đám đông đang hoảng sợ. Từ lầu hai, Nik
Wheeler gọi xuống, tôi chạy trở lên. Phía sau Nik là phòng họp
đã chuẩn bị đang bốc khói. Qua khói mù và những mảnh vụn, chúng
tôi khó khăn lắm mới nhận thấy một xác người. Thì ra đó là anh
chàng bảo vệ nằm ngủ trên bàn họp đêm qua.
Chợ Bến Thành
07:30 giờ
Ngôi
thánh đường đổ nát, chỉ còn lại cây thánh giá đứng trơ vơ.
Một vùng, bề dài bằng hai khu nhà, ngang bằng một, đã bị trận
pháo kích đêm qua tàn phá. Nhơn viên cứu cấp lôi ra một xác
người từ đóng tro tàn còn bốc khói. Những người phụ nữ lang
thang trong đống gạch vụn, thúc thích trong khăn tay. Thỉnh
thoảng có người tìm thấy một xác chết trẻ con và oà lên khóc.
Đang chụp hình, tôi bỗng nhiên nhận thấy một cô phóng viên
truyền hình xinh đẹp, áo bông, váy ngắn và giày ống, mà tôi chưa
gặp bao giờ. Cô có vẻ lúng túng trong khi đang làm việc.
Đó là Hillary Brown của hãng thông tấn ABC, mới
vừa đến Việt Nam. Cô đã từng theo dõi các trận đánh bom ở Bắc Ái
Nhĩ Lan. Như vậy, cô không xa lạ gì với cảnh tượng ở Việt Nam.
Sửa lại dáng đứng, cô có lời phê để ghi vào thiên phóng sự:"Kể
từ 1968, đây là lần đầu tiên hỏa tiễn cộng sản rơi xuống Sài
Gòn. Người dân thủ đô không tưởng tượng được là lực lượng địch ở
ngay bên ngoài đường biên thành phố. Họ thấy rằng đây có thể là
màn cuối cùng của cuộc chiến này."
Khu cộng sản Bắc Việt trong Tân Sơn Nhứt
12:00 giờ
Mặc
dầu Sài Gòn vừa bị pháo kích, và lực lượng chiến đấu đang lảng
vảng ở ngoại ô thành phố, đoàn quan sát ngừng bắn của cộng sản
Hà Nội cứ mở họp báo ngày chủ nhựt như thường lệ. Đúng theo tinh
thần Hòa đàm Paris, phi trường Tân Sơn Nhứt được cộng sản dùng
làm nơi họp báo của họ.
Nằm vào một góc của căn cứ không quân Mỹ trước
kia, khu cộng sản Bắc Việt được những cây cọ dừa cung cấp bóng
mát. Những người lính Bắc Việt, đầu đội nón cối, vai mang AK đi
tuần rảo quanh doanh trại hoặc đứng im một cách lạnh lùng. Một
nhóm ký giả Mỹ và chuyên viên thu hình đứng đầy căn lều bằng tôn
mái tròn, chờ dự họp báo.
Cuối phòng, một cây cờ Việt Cộng to tướng, nửa đỏ,
nửa xanh lơ, ở giữa là một ngôi sao vàng, được treo trên tường.
Ngồi ở cái bàn trải thảm màu xanh lá cây, đặt ngay bên dưới cây
cờ, ông đại tá Ba, phát ngôn viên của họ trả lời các ký giả.
Trong khi đó vài ba người lính cộng sản mời nước ngọt cho những
nhà báo đang nóng nực vì lều chật lại đông người, vì ánh đèn
quay phim làm tăng cao độ nhiệt.
Hillary Brown hỏi đại tá Ba:"Giờ thì có hy vọng gì
đi đến một giải pháp qua thương thuyết với chính phủ Sài Gòn
không? Cộng sản có chấp nhận tổng thống Hương như là thành phần
của chính phủ hòa hợp hòa giải, khi tổng thống Thiệu đã ra đi
không?" Đại tá Ba nghiêm trọng lắc đầu và đáp:"Ông Hương hay ông
Thiệu thì cũng thế thôi."
Thắc mắc chánh của báo chí ngoại quốc, được hỏi đi
hỏi lại nhiều lần là nếu họ ở lại khi Bắc Việt chiếm thành phố
thì số phận của họ sẽ như thế nào? Họ có được an toàn không? Tất
cả bọn chúng tôi nghĩ đến thân phận của mình trong những ngày
sắp tới. Mĩm cười, đại tá Ba trả lời:"Người nào làm ăn lương
thiện sẽ được đối đãi tử tế."
Sài Gòn - Trụ sở Thượng viện
15:00 giờ
Một toán quân danh dự dàn chào - quân phục trắng
thẳng nếp, nón sắt bóng láng phản chiếu ánh nắng mặt trời - đứng
nghiêm trước tòa nhà thượng viện, trang trí cờ xí, nằm trên con
đường dọc theo sông Sài Gòn. Các toán truyền hình chạy lăng xăng
tìm cách thu hình các phái đoàn. Có Nguyễn Cao Kỳ với bà vợ xinh
đẹp và mảnh mai. Ông "Minh Cồ", đã có một lúc làm Chủ tịch hội
đồng quân nhân cách mạng cũng đến dự. Cuối cùng, kèn trống inh
ỏi, một chiếc xe Mercedes đen trờ tới, có toán an ninh với M-16
hộ tống. Tổng thống Trần Văn Hương, vừa nhậm chức hai mươi bốn
giờ qua, đứng trước toán quốc kỳ làm lễ chào cờ. Quốc thiều trổi
lên. Chậm rãi, ông xoay người qua, và từng bước một, ông leo mấy
nấc thang của quốc hội để từ chức tổng thống. Và nhiệm kỳ ngắn
ngủi của ông đã xong rồi.
Chương 6
:
Tôi nghĩ ai ai cũng điên khùng
Ngày 28 tháng Tư - Cầu Tân Cảng, Sài Gòn
10:00 giờ
Trực thăng võ trang bay ngang dọc trên đầu người,
tiếng bay của hỏa tiễn đua nhau xé không gian. Quân sĩ Việt Nam
nằm sát hai bên lề đường trên cầu, nổ súng khơi khơi nhắm vào bờ
bên kia sông. Nhiều cột khói khổng lồ bốc lên từ những nhà kho
của Tân Cảng và từ các thùng chứa xăng nằm trên cửa sông vào Sài
Gòn. Tại con xa lộ bốn đường xe chạy này, cách xa trung tâm
thành phố không đầy năm cây số, chính phủ Việt Nam đang sống mái
với kẻ thù trong một trận đánh cuối cùng.
Tôi
nằm úp mặt một bên cầu, trong khi Hillary Brown, tay cầm một máy
ghi âm lăn ngang qua cầu đến chỗ tôi. Chúng tôi cùng nhìn xuống
mép cầu. Bên dưới chúng tôi, ngay trước mặt, có những bóng người
chạy ngang qua những ngôi nhà đang cháy. Những chiếc trực thăng
võ trang bay rất thấp, phóng hỏa tiễn và nhả đạn vào những bóng
người đó. Quân Bắc Việt đã đến trước cổng thành phố.
Nhiều chiếc xe tải, bóp còi inh ỏi, xuất phát từ
Tân Cảng, chạy hết tốc lực, chở đầy những thùng đạn. Xe tải chưa
qua khỏi chúng tôi thì một tiếng nổ kinh thiên động địa đẩy mạnh
chúng tôi vào thành cầu và một chiếc xe bốc cháy, như một quả
cầu lửa đỏ khổng lồ. Chiếc xe chẳng còn gì. La ó vì sợ hải,
những người lính Việt Nam Cộng Hòa quăng súng chạy nhanh xuống
cầu, hướng về phía thành phố.
Cửa hàng mậu dịch của Mỹ, Sài Gòn
11:30 giờ
Những người Việt Nam đập phá cửa nẻo của cửa hàng
mậu dịch to lớn nhứt của Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Trong khi tiếng còi
báo động kêu ầm ĩ, họ cứ đẩy những xe chất đầy đường, gạo, thuốc
men, thịt cấp đông,... Cảnh sát đứng nhìn một cách thích thú,
chẳng nói, chẳng rằng. Thỉnh thoảng còn chốp lấy một món hàng
nào đó trên xe thực phẩm đẩy ngang qua trước mặt, như là một
cung cách thu thuế.
Dinh tổng thống, Sài Gòn
15:30 giờ
Phòng khánh tiết rộng lớn, màn treo phướng rủ của
Dinh Độc Lập chứa đầy quan chức chính phủ, dân biểu quốc hội,
viên chức tòa đại sứ Hoa Kỳ và phóng viên ký giả. Gian phòng
nóng bức dưới những ánh đèn thu hình. Thỉnh thoảng, một cơn gió
ẩm ướt lay động những bức màn của mấy cái cửa rộng lớn, và mây
đen kéo đến, hứa hẹn một cơn mưa to.
Cụ già bảy mươi mốt tuổi đời Trần Văn Hương, vị
tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, lụm cụm bước lên
bục. Nước mắt lưng tròng, ông đọc bài diễn văn cuối cùng. Ông
dứt lời, một quân nhân, trong bộ đồng phục trắng thẳng nếp, sắp
xếp lại quốc kỳ vàng ba sọc đỏ. Một quân nhân khác tháo gở quốc
huy tổng thống cũ xuống. Gian phòng bỗng nhiên im ắng lạ thường,
như bị một xúc động cao độ làm tê liệt. Toàn bộ những người tham
dự như bị đông đặc trong một khung cảnh lịch sử!
Bỗng
dưng, như một phát súng lịnh, một tiếng gầm vang dội tràn ngập
gian phòng. Màn trướng tung bay theo gió, mưa nặng hột đổ xuống,
đi kèm là sấm sét. Như chừng trời đất cũng muốn bày tỏ nỗi niềm
tức giận cho một hiện tượng chánh trị có một không hai.
Giữa cơn sấm sét ầm ì, tướng Dương Văn Minh, năm
mươi chín tuổi đời, bước lên bục diễn đàn. Thân phận cuối cùng
của Nam Việt Nam được phó thác cho vị tướng này. Mười hai năm
trước đây, cũng chính ông tướng này đã tiếp tay để cho Hoa Kỳ
dấn thân vào Việt Nam bằng cách lật đổ ông Ngô Đình Diệm, một vị
tổng thống chuyên quyền. Giờ đây sự can dự đó đang đi lần đến
hồi kết cuộc rả rời. Tướng Minh tiếp cận với giai đoạn lịch sử
một lần cuối, để chứng kiến cuộc trao quyền lại cho phía cộng
sản. Quốc huy mới của đất nước - hình quẻ kinh dịch với hai con
bồ câu - được gắn lên bục diễn đàn thì một tiếng sấm nổ to, rền
vang trên thành phố và vang dội trong phòng khánh tiết.
Sài Gòn - Công trường Lam Sơn
18:00 giờ
Tội băng ngang đại lộ Nguyễn Huệ, cố giữ cho máy
ảnh khỏi bị ướt vì cơn mưa tầm tã. Một trận kẹt xe kinh khủng,
tôi phải bỏ xe để đi bộ đến văn phòng. Xích lô, Honda, Taxi và
xe nhà bị kẹt cứng trên đường, bóp còi inh ỏi.
Chờ cho đám kẹt xe giãn ra, tôi nhìn về phía tượng
hai người lính thủy quân lục chiến Việt Nam dựng ở công trường
Lam Sơn, trước tòa nhà quốc hội. Xuyên qua tượng đài, tôi thấy
ba chấm đen ở chân trời tiến nhanh về phía tôi. Ba chiến đấu cơ
A-37, mang cờ hiệu Việt Nam, nhào lộn trên đầu tôi. Tôi tạm thời
cho rằng đó là một lối biểu dương lực lượng, nhưng cấp thời sau
đó, một chiếc tách rời đội hình, bay về hướng dinh Độc Lập rồi
phóng hỏa tiễn xuống. Một cụm lửa nổi lên bên trong sân dinh,
tiếng nổ hòa lẫn với tiếng sấm sét rồi hai chiếc còn lại cũng
bay theo chiếc trước và nhả đạn xuống mục tiêu.
Tôi chui xuống gầm xe, cùng với nhiều ký giả khác,
từ dinh Độc Lập chạy ra, tìm chỗ an toàn. Ba chiếc phi cơ lại rả
đội hình và bay sà ngang chỗ chúng tôi nã đại liên. Sau đó, cả
ba kéo mũi lên, bay về hướng Bắc, về miệt phi trường. Tôi mở máy
vô tuyến, băng tần phòng vệ của Mỹ để nghe đài Mission Warden.
Đài vẫn còn hoạt động. Được biết là phi cơ đang ném bom Tân Sơn
Nhứt.
Khi băng qua đường đến khách sạn Continental
Palace, tôi trông thấy Mark Godfrey dìu Hillary Brown đến chỗ an
toàn. Hai người đều ướt như chuột lột. Súng nổ nghe đều khắp.
Như chừng lính tráng và cảnh sát trong thành phố mạnh ai nấy
bắn. Ký giả Ed Bradley trông như chết điếng vì hoảng sợ khi ông
trông thấy người cảnh sát quay lại, chĩa súng vào đầu chuyên
viên thu hình rồi bóp cò. May quá, súng đã hết đạn!
Những tiếng nói trong tai tôi la lối om sòm, tiếng
Việt, tiếng Mỹ lẫn lộn. Một tiếng nói người Mỹ lấn át tất
cả:"...gọi trung ương, gọi trung ương...tôi không biết chuyện gì
xảy ra, nhưng có lẽ mọi người đều điên khùng hết rồi!"
Sài Gòn, trên sân thượng khách sạn Continental
Palace
23:00 giờ
Harry Griggs và Neil Davis của NBC và tôi, cả ba
vừa tiêu thụ xong một bữa ăn tuyệt vời chưa từng thấy, với rượu
mạnh và xì gà Cuba, ở nhà hàng trên sân thượng của khách sạn.
Chúng tôi có thể nghỉ ngơi thoải mái vì chẳng còn nơi nào để đi
làm phóng sự, với lịnh giới nghiêm, đã được ban hành từ lúc xế
chiều. Ai bị bắt gặp ờ ngoài đường thì sẽ bị bắn tại chỗ. Chỉ có
ba người chúng tôi, hai Mỹ, một Úc, trong nhà hàng, nên được
chiều chuộng tối đa.
Từ trong bóng tối, mươi cô gái muốn nhờ chúng tôi
giúp cho một chuyến đi Mỹ. Giờ phút đó, người Việt Nam nào cũng
bám lấy chúng tôi. Người quản lý đưa ra một chai rượu nữa, nhưng
ở phía Bắc đã nghe thấy nhiều tiếng nổ. Giây phút sau, có tiếng
nhiều loạt súng từ phía Tân Sơn Nhứt.
Có tiếng nói trên tần số của Embassy Mission
Warden:"Đây trung ương...có tin DAO bị pháo kích! Trung
ương...trung ương, Mission, chúng tôi bị thiệt hại và có người
bị thương ở phòng thể dục! Trung ương...trung ương, có trực
thăng võ trang rơi gần cổng! Trung ương...trung ương... đây là
Security One. Có lính thủy quân lục chiến bị bắn gần cổng trước!
Chúng tôi cần cứu cấp NGAY!"
Từ vị trí thuận lợi, chúng tôi thấy hết vụ nổ này
đến vụ nổ khác làm sáng cả mỗi góc trời. Có vẻ như toàn bộ máy
bay ở bến đậu bị pháo. Tôi trở vào phòng ngủ và tìm cách liên
lạc điện thoại với văn phòng. Không ai trả lời. Tôi trở lên sân
thượng, Harry Griggs đang liên lạc vô tuyến với NBC. Vẫn chưa có
tìn gì của sứ quán.
Vô tuyến của Mission lại lên tiếng:"Trung ương,
đây Security One. Ở đây có ba thủy quân lục chiến hy sinh. Xin
cho ý kiến. Xin tiếp tay với chúng tôi."
Đến đây, có một tiếng nói khác trên máy vô
tuyến...một tiếng nói chúng tôi chưa nghe thấy bao giờ. Một
giọng nói trầm lắng và bình tĩnh, như một mệnh lệnh:"Mission
Control, Mission Control, đây Silver Hill. Tôi lập lại, đây là
Silver Hill, xin cho biết bạn nghe tôi rõ không? Chúng tôi nắm
quyền chỉ huy tất cả mọi công tác. Tất cả các liên lạc, giờ đây
chuyển qua Silver Hill."
Không một ai trong chúng tôi nghe đến Silver Hill
bao giờ. Bỗng dưng tôi nhớ ra...là trong nhiều lần đến căn cứ
không quân Andrews, tôi có thấy một bảng chỉ đường hướng về
Silver Hill. Thì ra, từ giờ phút này, Washington nắm quyền điều
hành tất cả mọi chuyện ở Việt Nam.
Chương 7
:
Nhiệt độ lên 105 và cứ tăng lần
Ngày 29 tháng Tư - Sài Gòn
10:00 giờ
Đường
phố Sài Gòn vẫn vắng lạnh, im ắng. Giới nghiêm từ tối hôm qua
vẫn còn hiệu lực. Giống như cảnh một thành phố ma.
Trên sân thượng của khách sạn New Palace, chúng
tôi đứng nhìn về phía Tân Sơn Nhứt. Nhóm phóng viên của NBC đã
chuẩn bị xong máy thu hình, lấy khăn tay che đầu chống lại cơn
nắng gay gắt của mặt trời buổi sáng. Người bồi bàn của khách sạn
đưa lên những mâm thức ăn cầm tay và những ly bia.
Chúng tôi thấy một chiếc C-119 lượn quanh sân bay,
vài ba phút nhả đạn xuống đất. Bỗng nhiên, chiếc phi cơ vỡ tan,
biến thành một đám lửa sáng ngời rồi nhiều mảnh vụn từ từ rơi
xuống đất, xoay tròn và bốc khói. Neil Davis la lên:"Trời! hỏa
tiễn SAM!"
Tôi cảm thấy có ai vỗ vai. Quay lại, thì ra con
người mà tôi thấy vắng mất mấy hôm nay. Nguyễn Văn Thơm đang
đứng trước mặt tôi. Tôi đã hỏi những người tôi quen trước nay,
xem có biết Thơm ở đâu không. Thơm là chuyên viên phòng tối
trong hai năm, lúc tôi phụ trách hình ảnh cho UPI-Saigon trong
những năm 1960. Thơm trốn quân dịch nên chủ yếu làm trong phòng
tối. Ông đã in ra không biết bao nhiêu bức ảnh đã được giải
World Press Photo Awards và Pulitzer Prizes, nhờ rửa được những
bức hình độc đáo của những người nhiếp ảnh dũng cảm. Từ mấy
tháng qua không ai biết được tông tích của Thơm thì nay ông lại
hiện ra.
Nhìn tôi, Thơm nài nĩ:"Ông Dirck Halstead, tôi rất
vui mừng gặp được ông! Ông có thể nào đưa hộ gia đình tôi đi
không?" Đó là câu hỏi mà nhiều người trong bọn tôi đã nghe mấy
ngày nay. Tôi chẳng biết sẽ làm sao, nhưng tôi bảo ông Thơm là
cứ đem vợ con đến đây đi. Càng sớm càng tốt. Ông Thơm quay lưng
đi, tôi nhắn theo là, nếu được, nhờ ông mua cho tôi mấy cục pin
cho máy vô tuyến. Ông Thơm lủi thủi chạy xuống cầu thang.
Ông Thơm vừa chạy khuất là Harry Griggs, tay cầm
vô tuyến liên lạc, la to:"Có lịnh rồi! Đã đến lúc rồi! Di tản!
Mọi người đi nhanh!"
Tôi chạy nhanh xuống phòng, và kêu điện thoại báo cho cơ quan
thông tấn. Rowan cho biết là sứ quán vừa ra lịnh cho toàn thể
nhân viên Mỹ tập trung ngay ở các địa điểm di tản. Trạm của
chúng tôi nằm ngay đàng sau cơ quan thông tấn, ở khách sạn
Continental. New York muốn biết chắc chắn là chúng tôi phải rời
Sài Gòn ngay. Đã có quyết
định là Mark Godfrey, người muốn ở lại, sẽ là người duy nhứt
trong cơ quan nằm lại. Những người khác được lịnh là phải có mặt
ở điểm hẹn ngay. Tôi mở chiếc máy thu thanh ở đầu giường và lời
báo cáo thời tiết vẫn lập đi, lập lại:"Nhiệt độ lên 105 độ và cứ
tăng lần!"
Tôi chạy trở lên sân thượng. Toán phóng viên NBC
đã đi mất. Tôi nhìn xuống đường, thấy những người Mỹ từ bên
trong khách sạn bỗng nhiên đổ ra đường, đi về hướng đại lộ
Nguyễn Huệ. Tôi bắt đầu gom góp máy chụp hình và nghĩ đến Thơm.
Quái quỷ cái anh chàng này đi đâu? Tôi chờ 10 phút. Đường phố
vẫn hoang vắng. Một chiếc Jeep chở đầy thủy quân lục chiến Mỹ
trong quân phục chiến đấu chạy về hướng đại lộ.
Tôi đợi Thơm thêm 10 phút nữa. Tôi nghe tiếng trực
thăng bay trên trời ở đằng xa. Thật chán cái ông này! Tôi nhìn
xuống đường lần nữa. Chẳng thấy Thơm đâu hết. Tôi lấy túi đựng
máy ảnh ra đi thì thấy một gói nhỏ bên cạnh. Mở ra. Trời, những
cục pin mà tôi nhờ Thơm mua. Ông ta ở đâu bây giờ? Tôi bắt đầu
bấn loạn...chờ vài phút nữa... Một cái bóng qua ngang tôi, ngó
lên thì thấy một chiếc trực thăng CH-54 Sea Stallion của Hải
quân bay ngang. Tôi phải đi thôi!
Sài Gòn, đường Gia Long
11:00 giờ
Một nhóm người Mỹ di chuyển thận trọng qua các
đường phố hoang vắng dọc theo khách sạn Continental Palace. Họ
mang theo nào là ba lô, máy chữ, máy ảnh và thiết bị thu thanh.
Người Việt Nam nhìn theo chúng tôi và bắt đầu đóng cửa nhà và
cửa sổ. Những cái nhìn đó cho thấy họ đã đoán được điều gì rồi.
Họ thấy rằng chúng tôi đang cuốn gói.
Một sự im lặng kỳ lạ tiếp tục kéo dài trong khi
chúng tôi tụ tập lại trước tòa nhà số 35 đường Gia Long, trên
tường còn những chữ mờ mờ "University of Maryland, Saigon
Education Center". Những toán người Mỹ và Tây phương khác cũng
đến nhập bọn với chúng tôi. Chẳng mấy lúc mà nhóm chúng tôi có
đến mấy trăm người đứng ở góc đường để chờ đợi.
Hai chiếc buýt sơn đen xuất hiện và lướt đến ngừng
ngay trước mặt chúng tôi. Một người lính thủy quân lục chiến Mỹ,
mình mặc áo giáp, đầu đội nón sắt bước xuống xe và hô to:"Đi
thôi, quý vị!" Từng người một, chúng tôi leo lên xe. Một vài
người Mỹ giúp một người bạn Việt Nam leo lên xe buýt. Bên trong
chiếc xe, bầu không khí nóng oi ả vì không có máy điều hòa.
Chiếc xe lăn bánh chẳng bao xa thì chúng tôi tới đàng sau sứ
quán Hoa Kỳ. Một đám đông gồm hàng trăm người Việt Nam cố gắng
trèo lên tường rào, trong khi thủy quân lục chiến phía bên trong
xô đẩy họ trở ra. Thấy xe chúng tôi đến, đám đông dàn hàng ngang
trước đầu xe. Thủy quân lục chiến trên xe la to:"Cứ chạy tới!"
Người tài xế hoang mang sợ hãi. Ông ta ngồi yên,
bất động. Những quả đấm bắt đầu đập mạnh lên tấm lưới sắt che
chắn cửa sổ xe. Máu từ những nắm tay đập vào lưới sắt bắt đầu ứa
ra. Anh thủy quân lục chiến móc khẩu súng lục 45 ra, chỉa vào
ông tài xế và quát:"Cho xe chạy nhanh lên!". Chiếc xe từ từ
chuyển bánh, bỗng nhiên, chúng tôi cảm thấy bánh xe lăn trên
thân người. Đám đông la ó. Anh lính kề họng súng vào gáy ông tài
xế và lập lại:"Cứ chạy đi!" Chúng tôi cảm thấy đau lòng và lợm
giọng khi chiếc xe cứ rẽ đám đông để tiến tới.
Căn cứ Tân Sơn Nhứt
12:30 giờ
Cổng căn cứ không một bóng người khi chiếc buýt
chạy ngang tượng đài cao nghệu trước cổng, với hàng chữ ghi
công:"Người bạn đồng minh cao quý...những sự hy sinh của họ
không khi nào bị lãng quên."
Chiếc xe dẫn đầu cán đại lên kẽm gai của rào cản
cuối cùng rồi băng qua cổng của DAO (Defense Attaché Office:
phòng tham vụ quân sự, cơ quan cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ thu
hẹp). Kề bên cổng là một chiếc xe của sứ quán bị lật ngửa. Những
cột khói đen to tướng bốc lên từ khu Air America, nằm bên kia
đường. Một chiếc trực thăng hư hỏng, nằm ở đường mương, thiếu
mất một gọng đáp, cánh quạt vẫn còn quay. Chiếc buýt dừng lại
bên trong cổng, trước bức tường dày cộm của DAO.
Hillary
Brown và tôi vừa bước xuống xe buýt thì một tiếng nổ kinh hồn
làm chúng tôi ngã xoài xuống đất. Một quả đạn 130 ly vừa đánh
trúng trạm Air America, cách chúng tôi chừng năm mươi thước.
Người lính với chiếc áo giáp cuối người bên trên Hillary để bảo
đảm an toàn cho bà, sau đó đứng lên hô to:"Hãy đi thôi quý vị...
đừng hoảng sợ!"
Vừa khom người, vừa chạy, chúng tôi phóng nhanh
vào bên trong tòa nhà DAO. Hỏa tiễn rơi tới tấp sau lưng chúng
tôi. Một người phụ nữ Việt Nam ngã nhào, Mal Browne của AP đỡ bà
lên rồi đưa bà vào bên trong.
Bên trong một cái hành lang dài, những tiếng nổ
bên ngoài chỉ nghe văng vẳng thôi. Hàng trăm người Việt Nam và
Mỹ ngồi dựa lưng vào tường, túi hành trang để trước mặt. Mấy
người lính Thủy quân lục chiến, đồ tác chiến nghiêm chỉnh, phát
cho mỗi người một tấm thẻ, dặn rằng:"Thẻ này dành cho quý vị,
chớ không phải cho hành lý."
Đang ngồi ở hành lang, một vài ký giả đã tháo máy
chữ ra và bắt đầu viết bài. Một nữ tu quỳ gối lên chiếc va li và
cầu nguyện. Tòa nhà thỉnh thoảng rung rinh vì đạn pháo nổ ngay
bên ngoài. Một sĩ quan thủy quân lục chiến đi qua hành lang và
tìm cách trấn an chúng tôi. "Đừng có lo sợ, trực thăng đến bây
giờ!"
Khu Tân Sơn Nhứt
13:30
Đại tá thủy quân lục chiến, Alfred Grey, đầu đội
nón sắt, thân mặc áo giáp bọc ngoài áo thun, đang nằm dưới rãnh
nước phía ngoài tòa nhà DAO, gần rạp chiếu bóng. Ông đại tá đang
liên lạc qua cái máy vô tuyến do một anh Thủy quân lục chiến trẻ
có vẻ sợ hải. Hai người cứ hụp đầu xuống mương đầy nước vì đạn
pháo rơi quanh họ.
Ông đại tá đang liên lạc với những chiếc trực
thăng, cất cánh từ hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi biển Nam
Hải bay vào. Bỗng dưng, tiếng nói của ông bị tiếng động của phi
cơ phản lực lấn át. Mấy chiếc F4 của Hải Quân Hoa Kỳ nhào lộn
trên không, phóng tên lửa và ném bom. Những đám cháy đỏ rực bên
ngoài tòa nhà. Ông đại tá nhìn lên và thấy tôi đang bấm máy chụp
hình. Ông nói to:"Tuồng hát sắp mở màn." Miệng nở một nụ cười,
ông chỉ tay về hướng nhà hát bị bỏ hoang. Lính thủy quân lục
chiến chạy nhanh vào tòa nhà, trong khi khói vàng tỏa ra trên
bầu trời màu xám.
Bay sà mặt đất, chiếc trực thăng Sea Stallion đầu
đàn xuất hiện trước tiên, theo sau là một chiếc khác. Hai chiếc
đáp xuống bên trong tòa nhà, cánh quạt vẫn tiếp tục quay nhanh.
Bệ chất hàng phía sau hạ xuống và một trung đội thủy quân lục
chiến, với súng M-16, M-50 và súng cối phóng nhanh ra. Trong
nháy mắt, họ họp thành đội hình bao quanh tòa nhà và núp kín.
Đồng thời, một thủy quân lục chiến khác nắm tay nữ
tu, hướng dẫn một toán lối trăm người Việt và Mỹ chạy nhanh từ
tòa nhà DAO. Họ vừa khom lưng vừa chạy xuyên qua hành lang nối
liền DAO với rạp chiếu phim...xuyên qua phòng đợi của rạp
hát...qua ngang người lính thủy quân lục chiến trẻ tuổi, đổ vào
sân trống rồi leo lên trực thăng.
Chỉ mất 90 giây, sau khi chiếc trực thăng Sea
Stallion đầu đàn của đại tá Herbert Fix hạ xuống, nó vọt trở
lên, với tốc độ tối đa, mang theo chuyến hàng quý giá, cũng như
chiếc thứ nhì theo sau và tiến trình lại bắt đầu trở lại.
Chương 9
:
Chúng tôi vừa bỏ đi
Ngày 30 tháng Tư - Ngoài biển Nam Hải, trên USS Blue Ridge
11:30
Hầu hết tập thể báo chí di tản khỏi Sài Gòn ngày 29 tháng Tư đã
tìm đường tới được soái hạm của Tập đoàn Tác chiến (Task Force),
chạy lang thang cách bờ biển phía Tây của Việt Nam khoảng 50 hải
lý.
Họ được đưa xuống trên nhiều tàu khác nhau của hạm đội và người
nào cũng mang theo phim hay băng ghi hình mà thế giới cần phãi
xem qua. Đối với tôi thì không còn kịp nữa rồi. Hôm đó là thứ
Năm, nghĩa là tối thứ Tư ở New York. TIME Magazine đóng cửa ngày
thứ Sáu, thế nên dù sao tôi phải rời hạm đội đem phim đến Subic
Bay. Subic là điểm gần nhứt, từ đó ban văn thơ của TIME mới đưa
lên chuyến bay của Pan Am để về tới New York cho kịp giờ báo lên
khuôn.
Chúng tôi tập hợp lại thành một phòng báo chí lâm thời trên tàu
Blue Ridge. Lần hồi, khi một ký giả hay một toán truyền hình nào
đặt chưn lên tàu là chúng tôi ráp nối tin tức lại, cho thấy
chuyện gì đã xảy ra trong hai mươi bốn giờ qua.
Sài Gòn giờ đây là một câu chuyện đã qua rồi! Quân Bắc Việt đã
treo cờ của họ lên dinh tổng thống, thế là bỗng dưng có một
thành phố mới tên Hồ Chí Minh.
Trong khi chúng tôi đối chiếu tin tức, tôi thấy một con người
đơn độc đứng gần cửa ra vào mà chẳng một ai để ý.
Tôi
nhận diện được Graham Martin, thế là mọi người đổ xô lại ông,
đưa micro ra phỏng vấn. Ông đại sứ có vẻ bịnh hoạn, mà ông bịnh
thật tình. Ông bị cảm cúm và mệt mỏi. Cuối cùng, ông bị bắt buộc
rời khỏi nhiệm sở để lên chiếc trực thăng đậu trên nóc sứ quán,
trong khi người lính thủy quân lục chiến phụ trách an ninh tung
lựu đạn xuống cầu thang để ngăn cản đám đông người Việt Nam định
nhảy lên chiếc trực thăng cuối cùng. Mọi người đều đặt câu hỏi
cho ông đại sứ, nhưng ông chỉ quay đi và lẳng lặng bước xuống
hành lang đi vào phía trong chiếc tàu.
Một phát ngôn viên của Hải Quân tìm cách ổn định lại phòng báo
chí. Tất cả nhóm báo chí đều viết bài đút kết cho câu chuyện của
họ, nhưng còn có một vấn đề bất ngờ. Sau khi ông đại sứ Martin
đã di tản, mọi chuyến bay đều đình chỉ. Mấy tiếng đồng hồ sau,
có người nhớ ra rằng toàn bộ 10 người lính thủy quân lục chiến
phụ trách an ninh còn bị bỏ quên trên nóc sứ quán. Theo lịnh
trực tiếp của Tòa Bạch Ốc, một phi hành đoàn Sea Stallion, dẫu
đã mệt nhoài cũng phải cất cánh trở lại đem họ ra, ngay lúc xe
tăng Bắc Việt chạy qua ngang tòa đại sứ.
Giờ
đây, mối lo cấp thiết nhứt của báo chí là làm sao đưa sản phẩm
của chúng tôi - phim, băng hình và ghi chú - ra khỏi chiếc tàu
này. Chúng tôi lập ra một ủy ban, kiến nghị với Đô Đốc chỉ huy
cuộc hành quân, và ông đồng ý cho một người đáp trực thăng đi
sang hàng không mẫu hạm Coral Sea. Tàu này có phi cơ loại chong
chóng, có thể đưa tài liệu đi Phi Luật Tân. Chúng tôi phải bắt
thăm và tôi là người may mắn. Tôi gom góp tất cả phim và băng
hình của các cơ quan thông tin, tạp chí và hãng thông tấn lại và
vài ba phút sau tôi rời khỏi tàu Blue Ridge.
16:00 giờ - Bay trên biển Nam Hải
Tôi bay trên một chiếc phi cơ loại COD (Carrier On-deck
Aircraft, phi cơ chở theo hàng không mẫu hạm), một phi cơ chong
chóng được phóng để cất cánh từ tàu Coral Sea. Chúng tôi bay về
hướng Đông, với "kiện hàng" quý giá. Trong số những người đi
trên máy bay, có những nhân vật đặc trách công tác di tản, tất
cả trên đường đi căn cứ hải quân Subic Bay để báo cáo tình hình.
Tôi quay sang một sĩ quan thủy quân lục chiến, quần áo trận còn
đẫm mồ hôi, hỏi ý kiến của ông về diễn tiến vừa qua. Ngập ngừng
đôi lúc, ông nói:"Chúng tôi là lính cứu hỏa. Giờ thì lửa đã tàn.
Đó là một dịp cho nước Mỹ tụ tập lại. Đây là lần đầu tiên chúng
ta ra đi và bỏ rơi một người bạn đồng minh...Tôi vẫn tự hỏi lòng
mình liệu còn có gì để làm hơn nữa hay không? Giá như tôi có
thêm trực thăng, thêm máy bay hơn nữa? Dẫu cho điều gì đã làm
được, tôi vẫn cảm thấy mình đã bỏ rơi họ...Tôi cứ bỏ đi thế
thôi."
Tôi bước ra phòng lái, và ngồi lên chiếc ghế phụ đàng sau hai
phi công chánh và phụ. Tôi hỏi họ có nghe ngóng gì thêm được tin
tức của Sài Gòn không? Họ chỉ cho tôi thiết bị để nghe trên
chiếc ghế tôi ngồi và tôi đặt vào lỗ tai để nghe. Họ bắt cho tôi
băng tần FM của hệ thống quân đội Mỹ Sài Gòn. Khi phi cơ bay vào
vùng trời đen tối, tôi nghe được những âm thanh giống như nhạc
Mantovani trên đài phát thanh. Sau đó, một giọng người đưọc ghi
sẵn nói rằng:"
Đây là đài quân đội (Mỹ), Sài Gòn." Ngừng một lúc, rồi sau đó
tôi nghe Bing Crosby bắt đầu hát "White Christmas".
Lời bạt :
Trên
đây là tình hình đã xảy ra hơn ba mươi năm về trước, nhưng những
biến cố của mấy ngày cuối cùng ở Sài Gòn vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi
không biết có người nào, đã trải qua những cảnh tượng như thế mà
không bị mủi lòng hay không.
Sau khi rời hàng không mẫu hạm Coral Sea, nhảy cóc nhảy nhái từ
chiến hạm này sang tàu nọ của hạm đội, tôi đã xin được một chỗ
ngồi trên máy bay để tìm đường đến Subic Bay, mang phim của tôi
và của các đồng nghiệp đến nơi. Những tài liệu đó về đến New
York thì báo đã lên khuôn, nhưng Sài Gòn là chuyện xưa cũ đã qua
rồi. Tạp chí TIME đã in xong, với một cái ảnh "nghệ thuật" của
Hồ Chí Minh nơi trang bìa, và hầu hết những hình ảnh và bài viết
trang trong thì lấy của các hãng thông tấn khác. Phần lớn những
hình ảnh của bút ký này chưa được đăng lúc bấy giờ, dẫu cho hình
ảnh này cũng đã làm cho tôi được giải "Robert Capa Gold Medal"
hồi đó.
Nhiều người trong chúng tôi đã dừng lại Hong Kong đôi ba ngày,
sau khi Sài Gòn sụp đổ. Ở đó, chúng tôi gặp được Hunter
Thompson, người đã rời Sài Gòn khá lâu trước khi có đợt di tản.
Chán nản vì không in được đúng lúc những câu chuyện của mình nên
chúng tôi trúc bầu tâm sự cho Hunter, với hy vọng là, ít ra anh
ta cũng đưa những tình tiết đó vào một bài viết của anh. Thế
nhưng, anh chẳng viết được một chữ nào hết.
Tạp chí TIME đưa cô vợ Ginny của tôi sang Hawaï để gặp tôi. Tuần
lễ sau đó, chúng tôi sinh sống trong một "túp lều tranh" lý
tưởng và bình thản ở Kona. Thế nhưng, thay vì thư giản, thoải
mái, tôi lại xuống tinh thần ghê gớm. Tôi dạo chơi trên bãi
biển, không nói lên được lời nào về những gì tôi đã chứng kiến.
Một năm sau, hai đứa tôi cưới nhau.
Mùa thu năm 1976, gom góp lại những hình ảnh và ghi chú của tôi
về Việt Nam, tôi dựng lại được một chuyện phim. NBC chịu mua
chuyện đó để chiếu trong chương trình "Movie of the Week". Thế
nhưng, khi bắt đầu làm phim thì Brandon Tartikoff lên chức
trưởng đài nên dự án bị bỏ đi. Bút ký này được thu nhặt từ những
ghi chú ban đầu của tôi.
Năm 1995, tôi thăm lại Việt Nam để sáng tác ra tập phim tài liệu
"Goodnight Saigon". Lúc bấy giờ, ông Nguyễn Văn Thơm làm chủ
tiệm rửa hình nhanh, chỉ cách nơi mà tôi gặp ông lần cuối hồi
1975 một khu phố. Graham Martin, người đã rời sứ quán sáng sớm
ngày 30 tháng Tư, mang theo con chó và quốc kỳ Hiệp Chúng Quốc,
trở về Mỹ, lang thang trong những văn phòng của bộ Ngoại giao
mấy năm cho đến ngày về hưu. Đại tá Alfred Grey, người đã điều
hành cuộc di tản thủy quân lục chiến, tiếp tục con đường quân
nghiệp và lên chức tư lịnh thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Hillary
Brown, người nữ ký giả, vẫn làm phóng sự về những điểm nóng trên
thế giới cho hãng tin ABC News. Roy Rowan, người đã đóng cửa văn
phòng TIME ở Sài Gòn, vừa đi Việt Nam về, với một bài viết quan
trọng cho Fortune Magazine. Neil Davis, phóng viên NBC ở trên
sân thượng cùng với tôi ngày cuối cùng, đã tử nạn ngày 9 tháng
Chín năm 1985 ở Bangkok trong khi làm phóng sự về một cuộc đảo
chánh. Michel Laurent là chuyên viên hình ảnh cho báo chí nằm
xuống cuối cùng ở Việt Nam.
Quân
Bắc Việt chiếm Sài Gòn, san bằng mồ mã lính chiến Nam Việt Nam
và đổi tên thành phố lại là Hồ Chí Minh. Ngày nay, vị tướng già
nua, được Bắc Việt chính thức bổ nhiệm để cai quản thành phố
(Tướng Trần Văn Trà), với đôi chưn không, đi lang thang phố
phường, phản đối lại thành quả của cuộc cách mạng mà ông đã cam
go giành được, đã bị đánh đổi để lấy một sự kết hợp kỳ quái của
tham nhũng và thương mại.
Những ngôi nhà chọc trời hầu như mỗi tháng mỗi mọc lên, du khách
Hoa Kỳ đi chật đường phố, chui vào những nhà hàng theo kiểu thời
thượng của California.
Chiếc chiến đấu cơ phản lực F-15, ngày đó của tháng Tư năm 1975,
đã hướng dẫn đánh bom xuống dinh Độc Lập, giờ được đem triễn lãm
tại một công viên ỡ trung tâm thành phố. Tên phi công, đã từng
đào ngũ với phi cơ bay ra vùng Việt Cộng, nay là trưởng phi cơ
của Hàng không Việt Nam và con gái của ông là tiếp viên trên các
chuyến bay của hãng này. Ước mơ còn lại của ông ta là lái chuyến
bay đầu tiên của công ty đi Hoa Kỳ.
Dirck Halstead Halstead
Washington, ngày 7 tháng Năm, 2000
Cố Nhân
(Viết theo ý chính của bài "White Christmas, The Fall of
Saigon"
của Dirck Halstead, The Digital Journalist, May 2000)
[http://digitaljournalist.org/issue0005/wcintro.htm]