Xã
hội / Ký sự chiến trường |
Người chỉ huy pháo HQ 16
Trong trận hải chiến bảo vệ tổ
quốc 1974
Người chỉ huy pháo HQ 16
Ðó là Hải quân đại úy Ðoàn viết Ất, nguyên sĩ quan pháo thủ của HQ
16 mang tên danh tướng Lý thường Kiệt. Năm 1974, khi con tàu rẽ sóng
đi Hoàng Sa, trung úy Ất tưởng chỉ làm một chuyến hải hành tiếp tế
như thường lệ, nào ngờ ông đã tham dự vào trận đánh lịch sử. Chuyến
về trên con tàu bị thương với cõi lòng tan nát vì đã bỏ lại đồng đội
trên hải đảo và biển cả. Trung úy Ất cùng một số hải quân được tuyên
dương anh hùng, thăng cấp đặc cách tại mặt trận. Ngày nay, ông Ất
đang đóng vai một người dân tỵ nạn hiền lành sống rất bình dị bên
cạnh chúng ta. Ai biết đâu con người ấy, ngày xưa cũng đã từng là
một chiến sĩ dũng cảm của hải quân. Trong chiến trường, binh thư
viết rằng khi lâm trận, cấp úy ở ải địa đầu là những người quyết
định thắng bại. Trên các chiến hạm vào ngày đầu năm 74, sống chết
của con tàu trông cậy vào các trung úy chỉ huy pháo thủ. Trên chiến
hạm HQ 16 vào buổi sáng hôm đó, số mạng trong tay Trung úy Ất, ngồi
bên cây đại bác 125 ly, nạp đạn chạm nổ, hướng thẳng vào đài chỉ huy
của con tàu địch trước mắt. Sẵn sàng chuẩn bị bắn trực xạ.
Cuộc đời Ðoàn viết Ất
Sau trận Hoàng Sa, miền Nam ca ngợi chiến công của hải quân anh
hùng. Trong số các sĩ quan còn sống mà được vinh thăng có trung úy
Ðoàn viết Ất. Ất người Nam Ðịnh, 54 theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn.
Sinh viên đại học Vạn Hạnh. Năm 20 tuổi vào hải quân. Học thêm anh
văn tại Sài Gòn rồi thụ huấn căn bản quân sự tại Quang Trung. Năm 70
được gửi đi học tại trường hải quân Hoa Kỳ khóa 4-OCS. Vào thời kỳ
đó Sinh viên sỹ quan hải quân Ðoàn viết Ất đã có dịp học lái tàu Mỹ
tại vùng Vịnh Cựu Kim Sơn. Khi về nước, chuẩn úy Ất nhờ có đệ tam
đẳng Thái cực đạo nên được làm huấn luyện viên võ thuật. Cuộc đời
đưa đẩy, trải qua các đơn vị, lên thiếu úy rồi trung úy thì bắt đầu
xuống HQ 16 làm sỹ quan trách nhiệm dàn pháo cho chiến hạm. Các vũ
khí dưới tay gồm có cây 125 ly, lớn hơn cả đại bác 105 của bộ binh.
Những cây 40 ly một nòng và cây 40 ly nòng ghép đôi. Các bách kích
pháo. Súng cá nhân, áo giáp và nón sắt. Cùng với các đoàn viên xạ
thủ đầy kinh nghiệm, trung úy Ất chỉ huy anh em vào nhiệm sở tác
chiến với một tinh thần hăng hái rất hào hùng. Khi con tàu Lý thường
Kiệt phải đoạn chiến về đến bến bờ quê hương, nhớ lại cảnh chiến hữu
bị bỏ lại, lòng dạ hết sức não nề. Một năm sau theo hạm đội hải hành
chuyến cuối cùng anh bỏ lại vợ con, vì vậy đại úy Ất quyết định từ
giã hải quân tại Côn Sơn, xuống tàu trở lại Việt Nam. Ðây là một
quyết định sai lầm phải trả giá 6 năm tù cải tạo trên miền biên giới
Bắc Việt. Ngay sau khi được trả tự do, cựu đại úy hải quân đã có
nhiều nơi móc nối để lái tàu vượt biên. Năm 1983 cả gia đình đến
Bidong và sau cùng về định cư tại San Jose. Hai mươi năm qua chỉ làm
một việc, cho một hãng. Nghề sửa máy điện tử. Bây giờ ông già 60
tuổi theo phái tu thiền tại gia, tuyệt thực mỗi buổi chiều. Buổi tối
ngày15 tháng giêng năm 2008 đúng 34 năm trước sắp đến giờ khai hỏa
trận Hoàng Sa, công dân Mỹ gốc Việt tên Ất Ðoàn ngồi nhớ lại lúc con
tàu lướt sóng vào vùng hải chiến giữa các đảo Vĩnh Lạc, Cam Tuyền,
Quang Hòa và Duy Mộng.
Di chúc của tiền nhân.
Với ngàn năm đô hộ giặc Tàu, Việt Nam trải qua bao phen chống xăm
lăng. Từ nhà Hán, nhà Ngô cho đến giặc Mông Cổ. Rồi nhà Minh, nhà
Thanh. Quân dân ta phải chống giặc Bắc phương suốt 4 ngàn năm lập
quốc. Trận hải chiến cuối cùng vào đời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ.
Vua Trần Nhân Tông đã để lại di chúc như sau: "Các người chớ quên
nước lớn thường làm điều trái đạo. Họa muôn đời của ta là Trung
Hoa. Họ không tôn trọng quy ước và biên giới. Luôn luôn bày đặt
chuyện để gây hấn. Không thôn tính được thì gặm nhấm đất đai của ta.
Vậy các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất cũng không để lọt vào
tay kẻ thù. Ðây là di chúc cho con cháu muôn đời." Trần Nhân
Tông (1279-1293).
Trận Hoàng Sa
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trận Hải chiến lịch sử
giữa Hải quân Việt nam Cộng Hòa và Hải quân Trung Cộng diễn ra tại
Hoàng Sa. Nguyên do vì sao? Di chúc của vua Trần Nhân Tông để lại
hơn 700 năm đúng từng chữ một. Vẫn là họa phương Bắc. Nước lớn không
tôn trọng quy ước. Bày đặt chuyện gây hấn. Gặm nhấm đất của ta. Trận
hải chiến hết sức anh hùng của lực lượng hải quân nhỏ bé VNCH đã
khai diễn với anh khổng lồ Trung Quốc. Trước khi nổ súng, chiến hạm
hai bên đã cài răng lược, vì vậy chỉ vài giây phút đầu tiên là quyết
định trận đánh. Gần đến nỗi đại bác của ta bắn trượt tàu địch đã xéo
qua tàu bạn. Trong vòng 30 phút đầu tiên, bên ta chiến hạm HQ 10 bị
trúng đài chỉ huy và hoàn toàn bất khiển dụng. Hạm trưởng từ trần
chết theo tàu, hạm phó ra lệnh đào thoát, sau đó ông chết trên xuồng
cấp cứu vì vết thương quá nặng. HQ 16 sau khi hạ được một chiến hạm
của địch cũng bị thương rất nặng. Hạm trưởng và thủy thủ đoàn cố cứu
con tàu ra khỏi chiến trường. Bên địch có hai chiến hạm bốc cháy và
hai tàu còn lại chịu thương vong nhưng vẫn còn chuyển vận. Những
hình ảnh sau cùng ghi nhận được hết sức hào hùng nhưng đồng thời
cũng hết sức thương cảm. Hải quân đào thoát từ HQ 10 ngồi trên bè
cấp cứu bị tàu địch bắn theo. Nhưng đặc biệt còn thấy chiến hữu từ
chiến hạm không bỏ tàu vẫn tiếp tục tác xạ qua tàu địch. Bút ký của
người còn sống có ghi rõ cả tên các thủy thủ Việt Nam đang bắn những
viên đạn sau cùng. Nước biển trên đầu ngọn sóng làm nhạt nhòa nước
mắt của những lính bỏ tàu. Truyện kể của những anh em từ hải đảo
xuống bè di tản khi thấy bên ta bắn chiến hạm địch bốc cháy đã cùng
nhau cất tiếng hát trên biển Hoàng Sa.
Bài ca bất hủ đó là bản Việt Nam, Việt Nam.
Hãy tưởng tượng giây phút lạ lùng giữa trùng khơi dậy sóng với lửa
đạn vang trời, ai cất được tiếng hát... nghe tự vào đời.. Việt
Nam nước tôi...
Năm 74, dầu sôi lửa bỏng.
Tháng giêng năm 1974 không phải là lúc Miền Nam thái bình thịnh trị.
Hiệp ước Ba Lê đã ký xong nhưng hai bên vẫn còn chiến đấu trong trận
giành dân lấn đất. Với chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh, Hoa kỳ
đã rút hết quân về. Xa hơn nữa, ngay từ năm 1970, Mỹ đã tuyên bố dứt
khoát không tham dự vào cuộc tranh chấp các hải đảo ở biển Ðông.
Trong khi quân Mỹ rút thì Việt Nam Cộng Hòa bùng lên tia hy vọng
mới. Tin biển Ðông có dầu làm tổng thống Thiệu nói với nội các là
dường như Trời ngó lại. Một thùng dầu thô được lệnh đem lên đốt tại
Nghĩa trang quân đội Biên Hòa trong buổi lễ tưởng niệm để linh hồn
16 ngàn tử sĩ phù hộ cho đất nước một tương lai tốt đẹp. Nhưng chính
niềm vui ngắn ngủi đã nằm trong thiên tai. Trường Sa là nơi có nhiều
triển vọng của kho tàng đáy biển. Muốn lấy Trường Sa thì Trung Cộng
phải thôn tính Hoàng Sa. Trong lúc VNCH còn phải lo trong nội địa
thì Trung Quốc cho hải quân đóng vai ngư phủ xâm nhập phía đông của
quần đảo. Ðúng như vua Trần đã nói, chúng cứ gặm nhấm dần dần. Căn
cứ vào địa lý nhân văn, căn cứ vào di tích lịch sử, căn cứ vào hiện
trạng thềm lục địa, dứt khoát toàn bộ Hoàng Sa và Trường Sa là của
Việt Nam. Từ ngàn xưa cho đến ngàn sau. Nhưng đất nước đang chiến
tranh, sức đâu mà có đủ phương tiện trấn giữ cả trăm hải đảo cô
quạnh giữa trùng khơi. Vì vậy, thừa nước đục thả câu, các quốc gia
lân bang xâu xé. Từ Trung Hoa đỏ của Bắc Kinh cho đến Trung Hoa vàng
của Ðài Bắc. Rồi Mã Lai, Indo và Phi luật tân đều nhào vô giành hải
đảo. Nhưng có kế hoạch và tham lam nhất vẫn là người Tàu. Từ Trung
Hoa ngày xưa cho đến Trung Cộng ngày nay, mộng bá quyền của người
phương Bắc luôn luôn là cơn ác mộng của phương Nam.
Châu chấu đá voi
Ngày 15 tháng 1 năm 1974 chiến hạm HQ 16 lên đường ra Hoàng Sa đưa
địa phương quân Quảng Nam ra thay phiên trấn thủ lưu đồn. Ngày 17
tháng 1 khi đổ bộ lên đảo đã gặp Hồng quân. Từ trước đến nay vẫn gặp
dân đánh cá xua đuổi là chúng bỏ đi, những lần này lại là hải quân
Trung Cộng. Ðô đốc Hồ văn Kỳ Thoại tư lệnh hải quân vùng I cảm thấy
chuyện bất thường. Nhân lúc tổng thống Thiệu ra kinh lý, nội vụ được
trình trực tiếp. Sau phần trình bày của vị tướng hải quân, ông Thiệu
ngồi xuống lấy giấy bút viết tay trong 15 phút một bản văn lịch sử.
Ðây là chỉ thị căn bản của trận hải chiến duy nhất đã xảy ra giữa
Việt Nam và Trung Hoa trong thế kỷ thứ 20. Tướng Thoại đã ghi lại
trong tác phẩm "Can trường trong chiến bại" chương 16 đại ý như sau.
Lệnh viết tay của trung tướng Thiệu chỉ thị áp dụng các biện pháp
xua đuổi ôn hòa, bắn dọa cảnh cáo và sau cùng thì dùng vũ khí để bảo
vệ lãnh thổ. Quyết không để mất một tấc đất nào. Tất cả mọi
người hiện diện đều không có ý kiến. Các tướng lãnh và phái đoàn
chính phủ tháp tùng không ai lên tiếng. Không có bàn thảo gì hết.
Xem ra ông Thiệu hết sức cô đơn và cương quyết trong quyết định lịch
sử rất có thể bùng nổ lớn mà không ai tiên đoán được. Vẫn theo bản
tính của ông, không ra lệnh chi tiết về việc khai hỏa. Không cần
thảo luận về việc khả năng hùng mạnh của toàn thể hải quân Trung
Cộng. Chỉ riêng Hạm đội Hải Nam cũng có thể tung ra 10 chiến hạm
phục kích vây chung quanh hạm đội Việt Nam và diệt gọn. Rõ ràng là
một quyết định châu chấu đá voi, dựa trên tình tự dân tộc với mối
thù từ ngàn năm trước. Sau cùng châu chấu cũng đành phải đá voi.
Hạm đội Hà văn Ngạc.
Từ Sài Gòn đại tá Hà văn Ngạc bay ra Ðà Nẵng nhận lãnh chức vụ chỉ
huy cuộc chiến lấy lại Hoàng Sa. Ðô đốc Hồ văn Kỳ Thoại tiễn ông đại
tá Sài Gòn lên HQ 5, mang hiệu kỳ soái hạm lên đường. Chia tay trên
cầu tàu căn cứ Ðà Nẵng, ông Thoại viết lại rằng đôi mắt chiến hữu
nhìn nhau, cùng cảm thấy sắp có biến cố lịch sử. Lệnh phải bảo vệ
đất nước được ghi rõ ràng từ tổng tư lệnh. Quân xâm lăng lần này đâu
có dễ thuyết phục. Hoàng Sa là con đường đi xuống Trường Sa, mỏ dầu
tương lai của cả Ðông nam Á. Hoa Kỳ lại xác nhận là không can thiệp.
Giặc Tàu chắc chắn sẽ không bỏ đi. Lính thủy Việt Nam với 4 con tàu
cũ sẽ lâm chiến trong hoàn cảnh hết sức cô đơn trên biển cả mênh
mông. Từ tướng cho đến quân, ai nấy đều biết rằng phải khai hỏa
trước. Không thể bắn cảnh cáo dọa dẫm gì hết. Tiên hạ thủ vi cường.
Ðiều quan trọng là khai hỏa vào lúc nào và ai sẽ là người ra lệnh
khai hỏa. Ðại tá Hà văn Ngạc xuống con tàu mang tên danh tướng Trần
bình Trọng, phen này nếu chẳng may sa vào tay địch chắc lại phải làm
quỉ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc.
Khói lửa biển san hô.
Buổi sáng hôm đó trời trong sáng, vào lúc 10 giờ thì tàu hai bên đã
gần nhau. Bên địch bên ta kèm nhau từng chiếc một. Ngẫu nhiên mỗi
bên đều có 4 chiến hạm. HQ 16 có HQ 10 bên tay mặt làm thành phân
đội số 2. Soái hạm HQ 5 đi với HQ 4 là phân đội 1 vòng xuống phía
đông nam đánh vào đảo Quang Hòa. Lập tức 2 tàu địch tách ra ứng
chiến. Hỏa lực của hai bên tương đương, nhưng tàu địch tối tân hơn,
chạy nhanh hơn, thân nhỏ sàn tàu thấp tạo thành mục tiêu di động và
nhỏ bé hơn chiến hạm của Việt Nam. Các vị chỉ huy của bên ta đều dự
trù sẽ nổ súng trước khai thác yếu tố bất ngờ. Vả lại, địch là kẻ
xâm lăng, chiếm đất ta, ta có quyền nổ súng. Lúc đó Trung úy Ất 24
tuổi, ngồi trấn thủ cạnh cây đại bác quyết định chiến trường 125 ly
nòng dài. Phía trước mặt là 2 tàu chiến của Trung Cộng chế ngự trước
đảo Duy Mộng. Trung tá Lê văn Thự với con tàu Lý Thường Kiệt đã xoay
trở mấy ngày qua nên quen thuộc với khu vực đầy bãi đá ngầm với san
hô. Pháo đội trưởng rất tin tưởng vào dàn xạ thủ nhiều kinh nghiệm
với những năm yểm trợ hải pháo cho bộ binh vùng duyên hải Trung
phần. Các hạ sĩ quan đều vững tay nghề và tinh thần hết sức cao.
Cũng có thể chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Thực sự thì cả hai bên
đều chưa hề có kinh nghiệm hải chiến trên biển cả. Sách vở và chỉ
thị dùng đạn xuyên phá nhưng trung úy Ất cho nạp toàn đạn chạm nổ.
Gần thế này mà xuyên phá thì hỏng hết. Phải chạm nổ mới có kết quả.
Lại có lệnh bắn yểm trợ cho bộ binh trên đảo trước. Mấy bác hạ sĩ
quan thâm niên đến bên cạnh thì thào vào tai anh trung úy trẻ. Ta cứ
nhằm vào đài chỉ huy mà ra tay trước. Nếu cứ phơi mình ra mà bắn yểm
trợ lên đảo thì chết hết còn đâu mà yểm trợ bộ binh. Nhớ lại chuyện
34 năm trước, ông Ất kể rằng, chúng tôi cứ hướng vào đài chỉ huy của
tàu địch. Ðịch di chuyển là các nòng súng 125 và 40 ly theo sát.
Phía bên địch cũng quay súng hướng về chúng tôi như vậy. Giây phút
nghẹt thở kéo dài. Lệnh từ soái hạm cho HQ 10 bắn trước. Nghe tiếng
nổ là các tàu khai hỏa đồng loạt. HQ 16 hạ được một tàu địch và phía
bên phân đội 2 của HQ4 và 5 bắn cháy một tàu. Ngay sau đó thì HQ 10
bị địch bắn xập đài chỉ huy. Trong hải chiến, mục tiêu chính là đài
chỉ huy, nơi tập trung bộ phận lái tàu, hệ thống điện, truyền tin.
Kế tiếp là dàn pháo của tàu địch. Phần còn lại nằm dưới mặt nước,
phải tấn công bằng thủy lôi nhưng chiến hạm không được trang bị.
Súng bắn qua lại như mưa. Trung úy Ất thấy rõ hai chiến hạm địch bốc
cháy. Bên HQ 10 có lệnh bỏ tàu, tình thế rất bi thảm. Cùng lúc đó HQ
16 bị trúng thương nặng, lệnh bỏ tàu đã ban hành những sau đã kịp
thu hồi và cố gắng xoay trở để rời khỏi chiến trường. Hai chiến hạm
của phân đội 1 cũng đã trên đường triệt thoải khỏi vùng hải chiến.
Hai chiến hạm địch còn lại cũng bị thương nặng nên không đủ sức truy
kích. Nếu không chắc chắn HQ 16 không thể tiếp tục chiến đấu để tồn
tại. Con tàu chỉ còn một máy, không có điện phải vận chuyển bằng
tay, cố lết ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Rời khỏi trận địa khoảng 11
giờ sáng, đại úy Ất còn nhớ lúc 3 giờ chiều chưa ra khỏi chiến
trường. Nhìn về phía sau thật xa vẫn còn thấy chiến hữu trên đảo vẫy
tay gọi tàu vào đón. Con tàu không còn khả năng tự xoay trở nên đã
đành đoạn bỏ lại đoàn viên tuyệt vọng mỗi lúc một xa dần. Sang ngày
hôm sau toàn thể hạm đội Hải Nam của Trung Cộng mới ào ạt tiến đến
và bắt tất cả các quân nhân của ta đem về lục địa. Sau đó trao trả
tại Hồng Kông. Còn các chiến binh thả trôi trên bè cấp cứu đã nhờ
ngọn gió Ðông thổi vào đất liền, trôi giạt cho đến khi tàu buôn và
ghe chài vớt được trả về cho đơn vị.
Giấc mơ của Ðại úy Ất
Trung úy Ðoàn viết Ất với chiến công trên HQ 16 trong trận Hoàng Sa
đã được đặc cách lên đại úy. Chính vì cấp bậc này, cộng thêm khả
năng lái tàu Mỹ, ông được cộng sản gia tăng thêm 3 năm thành 6 năm
cải tạo. Khi ra tù, lại nhờ khả năng lái chiến hạm nên bà con móc
nối cho lái ghe vượt biên mới có cơ hội trở lại vịnh Cựu Kim Sơn
quen biết từ năm 70.
Ba mươi tư năm sau, bác Ất quê Nam Ðịnh ngồi nhớ lại hình ảnh con
tàu HQ 10 nằm trên biển san hô. Biết rằng bây giờ ta đánh thì không
lại quân Tàu, những vật đổi sao rời, cũng có ngày nước Trung Hoa
chia năm xẻ bảy. Việt nam hậu sinh lấy lại được Hoàng Sa sẽ trục con
tàu anh hùng lên làm thành một đài kỷ niệm như người Mỹ đã làm ở
Trần châu Cảng xứ Hạ Uy Di. Ai mà biết giấc mộng đó sẽ không phải là
thực. Trong khi chờ đợi, đại úy Ðoàn viết Ất sẽ cùng đại úy hải quân
Phạm bách Phi làm một sa bàn Hoàng Sa cho viện Bảo tàng để con cháu
thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đến xem ông cha ta ngày xưa châu chấu đá
voi ra làm sao.
|