Trước đèn đọc sách:
"No Peace, No Honor"
by
Larry Berman
Hòa bình đâu,danh dự còn lâu
----------------------------------
Bài
12
Chiến dịch "Linebacker II"
Kissinger và Lê
Đức Thọ dự tính sẽ ký bản hiệp định "chấm dứt chiến tranh lập
lại hòa bình" vào ngày 31.10.1972, nhưng tiếc thay, vì gặp "trở
ngại kỹ
thuật" nên suốt tháng Mười Một, thiên hạ cứ phải quanh quẩn đi
tìm cách tháo gỡ vướng mắc mãi không xong. Thì ra, những điểm
thắc mắc của Việt Nam Cộng Hòa cũng có phần nào hợp lý nên Tổng
Thống Nixon phải có sự chọn lựa khác.
Cuối tháng Mười Một, Nixon chỉ thị cho Chủ Tịch Tham Mưu Liên
Quân triển khai một kế hoạch quân sự đề phòng bất trắc, nếu như
hòa đàm bị bế tắc. Kế hoạch đó chủ yếu tập trung vào những hoạt
động không và hải quân trên địa bàn toàn miền Bắc Việt Nam, mang
ám số "Priming Charge". Mục đích của kế hoạch là vừa tiêu diệt
tối đa tiềm năng chiến tranh của địch vừa tạo một tác dụng tâm
lý cực mạnh. Kế hoạch đó phải sẵn sàng để có thể ra tay trong
vòng 48 tiếng đồng hồ.
Giới thân cận không biết Nixon có ý định gì? Chẳng lẽ ông cho
tấn công cộng sản trở lại, khi con đường dẫn đến hòa bình đã hé
mở? Khó mà nói được Kissinger có tán thành dự tính này của Nixon
hay không, nhưng chắc chắn là tình hình làm cho Kissinger chẳng
mấy vui. Mấy lúc gần đây, những nhơn viên hàng đầu ở tòa Bạch Ốc
cảm thấy lo ngại cho tinh thần của Kissinger. Theo tướng Haig
thì Kissinger có trạng thái tâm lý khác thường, gần như hoang
tưởng, có những lối xử sự kỳ khôi. Ông Haig cho biết là tuần
rồi, Kissinger hành động quái lạ và trước đó ở Việt Nam cũng
vậy. Tình hình hỗn tạp hiện nay là do Kissinger mà ra, ông kết
thúc hòa đàm một cách hấp tấp, chưa đúng lúc, nên làm xáo trộn
hết, cho phía cộng sản cũng như cho phía Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 04 tháng Mười Hai năm 72, Đại Sứ Bunker đánh điện cho
Kissinger:
"Dĩ nhiên, Thiệu mong muốn tiếp tục chiến đấu vài ba năm nữa,
với chi viện của chúng ta, và hy vọng rằng sẽ đạt được những gì
ông ta mong muốn trong lúc này. Theo tôi suy đoán thì trong vòng
hai năm nữa tình hình sẽ giống như ngày hôm nay, bộ đội Bắc Việt
sẽ còn trong Nam và sẽ tiếp tục đánh nhau."
Tổng
Thống Nixon đã quyết định là Huê Kỳ sẽ không để cho quân lính
tiếp tục đánh nhau trên bộ hai năm nữa. Ông sẽ không để cho bị
sa lầy ở Việt Nam trong nhiệm kỳ hai. Dẫu sao chăng nữa, Nixon
cũng sẽ rước tù binh chiến tranh về và rút hết quân chiến đấu ra
khỏi Việt Nam. Cứ theo nhựt ký của ông chánh văn phòng tổng
thống thì dư luận thân cận của Bạch Ốc cho rằng Tổng Thống Nixon
đang lo nghĩ phải đối phó làm sao với Kissinger, với Thượng Viện
và với Việt Nam Cộng Hòa. Bận tâm chánh của Nixon là vấn đề tù
binh Mỹ vì không biết nếu ném bom trở lại thì cộng sản có trao
trả không, Thượng Viện có tiếp tục yểm trợ không và dư luận quần
chúng sẽ như thế nào đây? Tổng thống cảm thấy rằng mấy lúc gần
đây, Kissinger không còn hành động hợp lý nữa. Nixon bắt đầu
nghi ngờ óc sáng suốt của Kissinger, cho rằng ông ta bị ám ảnh
bởi chuyện giải quyết cho kỳ được chiến tranh Việt Nam. Nixon
nghĩ rằng nếu không giải quyết được vấn đề Việt Nam thì
Kissinger sẽ từ chức.
Cũng ngày 4.12.72 đó, Kissinger đang ở Paris để họp với Lê Đức
Thọ, một phiên họp mà Nixon mong rằng sẽ là phiên họp cuối cùng,
với kết quả khả quan. Thế nhưng, lần đó Thọ ngồi vào mật đàm
không phải để dung hòa hoặc nhượng bộ gì hết. Cho nên phiên mật
đàm hôm đó hoàn toàn vô ích. Không những không thỏa hiệp, Thọ
còn đưa ra nhiều điều kiện mới, còn có những đòi hỏi khác. Mật
đàm lủng củng, vậy là giữa Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu hục
hặc nhau. Kissinger đổ lỗi cho Sài Gòn đã gây rắc rối vì đưa yêu
sách ra đòi sửa đổi này nọ. Mất đi một cơ hội, Kissinger có vẻ
thù hằn Tổng Thống Thiệu nên đối xử không mấy đẹp với những
thành phần khác của phái đoàn Nam Việt Nam, như Trưởng đoàn Phạm
Đăng Lâm, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Thạnh Đốn Trần Kim Phượng, Đặc
sứ Nguyễn Phú Đức. Có lần Tổng Thống Thiệu tâm sự với những
người thân cận:
"Giá mà Kissinger được quyền đánh bom dinh Độc Lập để bắt ép tôi
ký tên vào hiệp định thì hắn ta chẳng ngại ngùng gì."
Tổng Thống Thiệu dự định ngày 12 tháng Mười Hai sẽ đọc một bài
diễn văn trước lưỡng viện Quốc Hội. Qua Đại Sứ Bunker, Tổng
Thống Nixon mong rằng ông Thiệu đừng nêu ra những bất đồng giữa
Hoa Thạnh Đốn và Sài Gòn về chuyện hòa đàm vì như vậy làm cho
trận tuyến Paris sẽ khó khăn thêm. Bắc Việt sẽ khai thác nhược
điểm đó của phe đồng minh Việt-Mỹ.
Ấy vậy mà Tổng Thống Thiệu đâu có đếm xỉa gì những lời cảnh giác
của Nixon. Trong bài nói chuyện lâu một tiếng đồng hồ, ông minh
định lập trường của ông liên quan đến cuộc dàn xếp hòa bình ở
Đông Dương. Ông lập lại đòi hỏi bộ đội Bắc Việt phải rút hết
khỏi Nam Việt Nam và nói với Quốc Hội là Hội đồng Quốc gia Hòa
hợp Hòa giải thật ra chỉ là một liên hiệp trá hình. Theo ông thì
Hà Nội phải chấp nhận nguyên tắc Đông Dương gồm có bốn quốc gia
riêng biệt và phải cam kết không tấn công bất cứ một nước nào
trong số ba quốc gia còn lại. Tổng Thống Thiệu lập lại là ông
không bao giờ chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử nào nhằm thay đổi
hiến pháp hay cơ cấu chánh quyền hiện tại. Tóm lại, Tổng Thống
Thiệu chống đối Tổng Thống Nixon ra mặt và thẳng thừng chấp nhận
sự trừng phạt của Quốc Hội Huê Kỳ. Như vậy là ông Thiệu đi một
ván bài liều mạng, từ thua tới huề vốn chớ không thấy có khả
năng thắng.
Ngày 13.12.72, từ Paris, Kissinger đánh điện cho Nixon báo cáo
tình hình phiên mật đàm ngày hôm trước, trong đó Lê Đức Thọ cũng
có thái độ lố bịch và xấc xược như những phiên họp trước.
Kissinger cho rằng:
"Hà Nội có thái độ trịch thượng vì chúng ta chẳng còn lợi thế
nào nữa hết do chỗ, qua hành động thiển cận, Sài Gòn đã phá vỡ
dự thảo hiệp định, nên làm cho chúng ta mất hết lợi thế. Rồi
đây, chúng ta chẳng còn con bài tẩy nào hết, trong khi áp lực
quốc nội sẽ mạnh lên nếu chúng ta không đạt được thỏa hiệp hoặc
không có khả năng bảo vệ Nam Việt Nam. Giờ đây chúng ta chỉ còn
có hai cách. Một là, cứng rắn trở lại với Hà Nội, để cho họ thấy
rõ cái giá phải trả cho mươi ngày bướng bỉnh vừa qua. Hai là,
thu xếp với Sài Gòn và ít ra cũng phải ngăn ngừa ông Thiệu đừng
đưa ra những đề nghị đơn phương nữa."
Hòa
đàm tan vỡ ngày 13.12.72 và ngày hôm sau, Nixon cho lịnh tái ném
bom, với một ý định duy nhứt là bắt Hà Nội phải trở lại bàn hòa
đàm. Ngày 18.12, chiến dịch "Linebacker II" - thường được gọi là
"Trận ném bom mùa Giáng Sinh" - bắt đầu đưa B-52 xuất trận cùng
với oanh tạc cơ chiến thuật, đánh phá vùng Hà Nội-Hải Phòng,
khác với những mục tiêu trước kia của B-52. Với "Linebacker II",
Nixon muốn gây thiệt hại vật chất tối đa cho Bắc Việt và hủy
diệt khả năng tiến hành chiến tranh của cộng sản. Đồng thời
Nixon cũng muốn chứng minh với Nam Việt Nam rằng ông cũng là một
con người sắt đá. Một chiến dịch mà hai mục đích, vừa kêu gọi Hà
Nội trở lại hòa đàm lại vừa nhắn nhủ với Tổng Thống Thiệu.
Để bảo đảm rằng Tổng Thống Thiệu không hiểu lầm thông điệp mà
Nixon muốn nhắn với ông qua chiến dịch "Linebacker II", Tổng
Thống Nixon đưa Tướng Haig đi gặp ông Thiệu. Chuyến đi này, Haig
có mang theo một thơ riêng của Nixon gởi cho ông Thiệu, một bức
thơ mà nội dung chỉ có bốn người biết là Nixon, Kissinger, Haig
và Tổng Thống Thiệu. Tướng Haig giải thích:
"Tổng Thống nên hiểu rằng bức thơ này được viết ra sau khi Tổng
Thống Nixon đã suy nghĩ chín chắn về tình hình Đông Nam Á, về
tình trạng hiện tại của hòa đàm, và đặc biệt là về thái độ của
Tổng Thống liên quan đến những vấn đề đó. Tổng Thống Nixon tin
tưởng rằng Tổng Thống sẽ giữ bức thơ này tuyệt đối bí mật."
Bức thơ chuẩn bị tư tưởng ông Thiệu về chiến dịch "Linebacker
II", nhưng đồng thời cũng khuyên ông đừng coi đó như một kích
thích tố để gây khó khăn cho Hoa Thạnh Đốn. Theo Tướng Haig thì
tình trạng hục hặc giữa Sài Gòn và Hoa Thạnh Đốn đã làm cho Hà
Nội lợi dụng để kéo dài thời gian.
Tướng Haig trình bày cho Tổng Thống Thiệu thấy rằng Tổng Thống
Nixon quyết tâm tiến hành "Linebacker II" một cách nghiêm chỉnh
và tích cực để cảnh cáo Bắc Việt đừng có coi thường và đồng thời
để cho ông Thiệu nên hành động cho xứng hợp với cung cách xử sự
của Nixon. Với "Linebacker II", Mỹ hy vọng rằng Bắc Việt sẽ trở
lại bàn hội đàm ngay và sẵn sàng dàn xếp. Nếu Hà Nội muốn thu
xếp thì mọi chuyện sẽ nhanh chóng. Tuy nhiên, Haig cũng nhấn
mạnh là Tổng Thống Thiệu không nên lợi dụng cuộc ném bom khu vực
Hà Nội-Hải Phòng, vì rồi đây Nixon sẽ bị áp lực mạnh mẽ của
chánh trị quốc nội để kết thúc chiến tranh.
Sau Sài Gòn,
Tướng Haig tiếp tục đi Nam Vang và Bangkok để giải thích cho
Tổng Thống Lon Nol của Cam Bốt và Thủ Tướng Thanom Kittikachorn
của Thái Lan biết rằng với "Linebacker II", Tổng Thống Nixon
khẳng định trách nhiệm của Mỹ ở Đông Nam Á, dẫu cho đã kết thúc
được chiến tranh Việt Nam. Và Huê Kỳ cũng sẽ kiên quyết nếu Bắc
Việt lại vi phạm hiệp định.
Sau bảy ngày đánh phá Hà Nội-Hải Phòng, Tổng Thống Nixon ra lịnh
tạm ngừng nhơn dịp lễ Giáng Sinh. Ngày 26.12.72, chiến dịch lại
tiếp tục và Hà Nội phản ứng ngay, chịu trở lại bàn hội đàm. Cuộc
ném bom đợt hai ngày 26.12 thật là ồ ạt. Nguyên nhơn nào thì hậu
quả nấy, ngoan cố cho lắm thì nay Bắc Việt phải lãnh đủ. Rồi
chiến dịch cũng chấm dứt ngày 29.12.1972. Ngày 28.12, Kissinger
điện cho Bunker:
"Chúng tôi có yêu cầu Bắc Việt họp với tôi ở Paris ngày 3 tháng
Giêng. Lúc này thì chưa thấy họ trả lời, nhưng theo như dư luận
bên ngoài cho biết thì họ sẽ nhận lời."
Chiến dịch "Linebacker II" bị dư luận Mỹ cũng như dư luận thế
giới lên án dữ dội, nhứt là sau khi Kissinger đã tuyên bố trong
cuộc họp báo là "hòa bình ở trong tầm tay". Bài xã luận ngày
28.12 của tờ "Washington Post" đặt câu hỏi:
"Tại làm sao chỉ trong vài ba tuần ngắn ngủi mà người ta có thể
chuyển từ một triển vọng hòa bình sang một hành động chiến tranh
dã man và phi lý chưa từng thấy, và lấy cớ gì trong vòng mươi
ngày phù du mà một dân tộc có chủ quyền lại sát hại một dân tộc
có chủ quyền khác?" Trên tờ "New York Times", nhà báo Tom Wicker
mô tả những trận không tập và không kích của "Linebacker II" như
là một "nỗi nhục trên đời".
Phía Quốc Hội Huê Kỳ cũng không vừa gì. Thượng Nghị Sĩ William
Saxbe của bang Ohio cho rằng Nixon đã "cho lý trí đi chơi chỗ
khác", còn lãnh tụ khối đa số Thượng Viện, ông "bồ câu chúa"
Mike Mansfield thì cho rằng vụ ném bom nằm trong "chiến thuật
thời kỳ đồ đá". Vậy mà, phê phán sao thì phê phán, trận đánh bom
của chiến dịch "Linebacker II" đem lại kết quả mong muốn vì nó
tác động được Bắc Việt và – quan trọng hơn hết – là ảnh hưởng
đến Việt Nam Cộng Hòa. Tổng Thống Nixon thấy cần phải thuyết
phục ông Thiệu là "dẫu cho hiệp định hòa bình có thế nào đi nữa,
Tổng Thống Thiệu có thể tin tưởng rằng Tổng Thống Nixon sẽ đưa
khả năng quân sự như vậy để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa, nếu cộng
sản Bắc Việt vi phạm hiệp định."
Chiến dịch
"Linebacker II" là hành động tấn kích cuối cùng của Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam. Điểm nổi bật trong chiến dịch này là pháo
đài B-52 được vận dụng để đánh phá những mục tiêu trong thành
phố. Cho nên thiệt hại bàng hệ khá trọng đại, không sao tránh
khỏi. Ngoài ra mức độ tàn phá của bom B-52 là vô địch. Trương
Như Tảng, Bộ trưởng Tư Pháp của Chánh phủ Lâm Thời Miền Nam (Mặt
Trận Giải Phóng) nhớ mãi để đời:
"Tôi bị đè bẹp xuống đáy hầm, chừng như rơi vào cõi tận thế.
Thật là kinh khủng. Không còn cử động được nữa, đầu óc chỉ muốn
lôi mình ra." Còn cựu đại tá Bùi Tín thì nhắc lại trận đánh bom
"mười hai ngày đêm" coi như "sinh sống trong một trận cuồng
phong, cây cối ngả nghiêng và sấm chớp biến đêm thành ngày."
B-52 và oanh tạc cơ chiến thuật bắn phá rất nhiều mục tiêu trong
khu Hà Nội-Hải Phòng và Thái Nguyên, nhưng trái lại thiệt hại
không phải ít, phần lớn là do hỏa tiễn đất đối không. Thiệt hại
dân sự bị dư luận chỉ trích nhiều nhứt là ở vùng bịnh viện Bạch
Mai. Pháo đài bay nhắm đánh sân bay cũ Bạch Mai thời Pháp nhưng
bom đi sai nên trúng bịnh viện. Thế nhưng cộng sản bao giờ cũng
vậy, biết khai thác thất bại của mình để đổi trắng thay đen,
biến thành thế thắng lợi – cũng như vụ Tết Mậu Thân - nên mở
chiến dịch tuyên truyền rầm rộ vang lừng, để xách động tinh thần
yêu nước "đánh Mỹ", nên gọi chiến dịch đó là "Điện Biên Phủ trên
không"!
Bài kế >>
Cố Nhân
|