Trước đèn đọc sách:
"No Peace, No Honor"
by
Larry Berman
Hòa bình đâu,danh dự còn lâu
----------------------------------
Bài
6
Một cuộc cờ
Trong
chiến lược toàn cầu, để đối đầu với chiến tranh lạnh, và đồng
thời trong chiều hướng giải quyết chiến cuộc Việt Nam, Huê Kỳ
phải nhìn xa và trông rộng hơn.
Nixon
và
Kissinger
quan niệm vấn đề Việt Nam phải giải quyết tận nguồn gốc, nghĩa
là với hai tên trùm cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc. Lúc bấy
giờ hai nước đầu sỏ cộng sản này đang hục hặc nhau về vấn đề
biên giới, hàng ngàn cây số phân chia hai nước, nên họ cũng
bớt chú tâm vào những nước phương Tây. Ở nhiều quốc gia thuộc
Thế Giới Thứ Ba, mối hiểm họa một thời nguy hiểm nhứt của mặt
trận cộng sản quốc tế, nay trụ lại trong cuộc đấu tranh giữa
Liên Xô và các chế độ do Tây phương hậu thuẫn, trong đó có
phong trào "phi liên kết" thường được Trung Quốc bảo trợ.
Với một tình hình như vậy,
Kissinger
nghĩ rằng Trung Quốc phải có một ảnh hưởng đối với
Bắc Việt và
ông
quyết định mở
một
hướng ngoại giao về phía Bắc Kinh với hy vọng bắt chẹt
Hà Nội.
Nên chi, tháng Bảy năm 1971, Kissinger thầm kín đi Bắc Kinh thăm
dò Trung Quốc với hy vọng sẽ mở bang giao mới giữa đế quốc và
cộng sản.
Kissinger dự tính đi nước cờ chiếu tướng Trung Quốc thì đương
nhiên sẽ cô lập được Bắc Việt. Khi mà Trung Quốc bang giao với
Huê Kỳ thì thế nào họ cũng đắn đo hơn, vì có mấy ai vì con cá
nhỏ mà bỏ con cá lớn. Nói cách khác, Kissinger hy vọng Bắc Kinh
sẽ gây sức ép để cho
Hà Nội
phải xúc tiến hòa đàm. Theo Nixon và Kissinger thì lá bài Trung
Quốc rất phù hợp với chương trình "Việt
Nam
Hóa Chiến Tranh" của họ. Hai người tin tưởng rằng nhờ đó sẽ có
được
một
thỏa hiệp tạo điều kiện cho Huê Kỳ có thể rút quân về và Nam
Việt Nam có thể tồn tại. Nixon nhớ lại áp lực của phái đoàn
Trung Quốc ở hội nghị Genève 1954 nên lòng đầy hy vọng.
Chương trình mở cửa với Trung Cộng thật sự bắt đầu với chuyến đi
thầm lén của Kissinger qua Bắc Kinh để bí mật gặp Chu Ân Lai.
Sau mấy tháng chuẩn bị, đình hoãn tới đình hoãn lui và được giữ
tối mật, chuyến đi được sắp xếp dưới dạng Kissinger đi thăm
Pakistan. Từ đất nước này, hành trình của Kissinger thuộc tài
đạo diễn của Tổng Thống Muhammade Yahya Khan. Qua
một
cơn đau bụng trá hình, Kissinger được đưa đến khu biệt thự riêng
tư của của Tổng Thống Yahya để tịnh dưỡng. Nhưng thực sự là đàng
sau tấm bình phong ốm đau giả vờ đó, Kissinger đã đi Bắc Kinh
với phi cơ riêng của Tổng Thống Pakistan, do người phi công tín
cẩn
của Tổng Thống Yahya phụ trách chuyến bay.
Trong
những phiên họp từ ngày 9 đến 11.7.71, Kissinger tìm cách kết
nối vấn đề Đài Loan của Trung Quốc với chiến tranh
Việt Nam
của Huê Kỳ. Kissinger nói với Chu rằng Mỹ đang mưu tìm
một
hòa bình trong danh dự ở
Việt Nam
và sau khi đã rút quân ra khỏi
Việt Nam,
Huê Kỳ sẽ đưa hai phần ba quân số ở Đài Loan về Mỹ. Chu Ân Lai
hỏi Kissinger tại sao Mỹ lại quan tâm quá nhiều đến vấn đề danh
dự và uy tín của Mỹ ở
Việt Nam, trong khi danh dự và vinh quan trọng đại hơn là rút
quân ra khỏi Việt Nam và toàn bộ Đông Dương.
Sau khi tiếp xúc với
Kissinger,
Chu Ân Lai
đến gặp Mao Trạch Đông ngay. Ý kiến của Mao là "Huê Kỳ nên bắt
đầu lần nữa và... nên để cho con cờ đô mi nô rơi ngã đi, Huê Kỳ
phải rút ra khỏi Việt Nam. Chúng ta đâu cần gấp gáp gì ở Đài
Loan vì ở đó không có đánh nhau. Nhưng ở Việt Nam thì đang có
chiến tranh và thiên hạ đang chết ở đó."
Sau khi gặp Kissinger, Chu Ân Lai đi
Hà Nội
ngay để
thông báo cho Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ biết những gì
ông đã thảo luận với Kissinger. Chu cho
Hà Nội
biết rằng
ông đã nói với Kissinger là chuyện Mỹ rút
quân ra khỏi Việt Nam
còn quan trọng đối với Bắc Kinh hơn là chỗ ngồi của Trung Quốc ở
Liên Hiêp Quốc hay là tình hình của Đài Loan. Thế nhưng,
cộng sản
với nhau thì họ thừa biết cái mửng "vậy mà không phải vậy". Theo
tiết lộ của sử gia Trung Quốc,
ông
Tiền Trai, thì "dẫu cho có những bảo đảm như vậy của Bắc Kinh,
Bắc Việt vẫn quả quyết rằng Bắc Kinh coi trọng bang giao với Huê
Kỳ nhiều hơn là tình đoàn kết
cộng sản
anh em với
Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa. Bắc Việt tin tưởng rằng việc Bắc Kinh mở cửa
với Hiệp Chúng Quốc Huê Kỳ làm thiệt hại đến quyền lợi và mục
tiêu của họ." Ngày 15.7.71, khi Bắc Việt biết tin Kissinger đã
kín đáo đi Trung Quốc và Nixon dự tính đi Bắc Kinh,
cộng sản
nghi rằng kế hoạch hòa bình mới của họ - đề nghị bảy điểm của
CPLT đưa ra hôm 1.7.71 - sẽ chẳng còn giá trị gì nữa. Vì vậy cho
nên, Xuân Thủy cho rằng chương trình mở cửa của Nixon đối với
Bắc Kinh là
một
"thủ đoạn xảo trá" và
một
cuộc "tấn công hòa bình giả mạo", cốt để chia rẻ thế giới xã hội
chủ nghĩa.
Phía
cộng sản
còn nhớ hồi tháng Ba, Chu Ân Lai có cho họ biết rằng:"Đồng chí
Mao Trạch Đông có nói với Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng rằng các đồng
chí
Việt Nam
biết đánh và cũng biết thương thuyết." Và Chu Ân Lai cũng có
khen Xuân Thủy và Nguyễn Thị Bình là thương thuyết tiến triển
khá tốt và mặc dầu họ Chu đã có kinh nghiệm thương thuyết trước
kia nhưng nay cũng thấy cần phải học hỏi ở
cộng sản Việt Nam.
Chu Ân Lai có nói:"Chúng
tôi
cần phải cám ơn các đồng chí và học tập ở các đồng chí về phương
thức chống Mỹ. Không ủng hộ cuộc cách mạng của nhân dân
Việt Nam
chẳng khác nào phản bội lại cách mạng. Đồng thời chúng
tôi
cũng sẵn sàng hy sinh, nếu như kẻ thù mở rộng chiến tranh." Thế
nhưng, với tình hình mới này,
Hà Nội
nghĩ rằng chẳng lẽ mọi chuyện đã đổi thay?
Sau phiên mật đàm lâu ba tiếng đồng hồ với Lê Đức Thọ ngày
12.7.1971, Kissinger cho biết rằng "chưa bao giờ thấy khích lệ
như lần này." Sau chuyến đi Bắc Kinh, Kissinger thấy mọi chuyện
đều khác trước khi
ông
ngồi đối diện với Lê Đức Thọ. Đó là do chủ quan của Kissinger,
vì hôm đó, Lê Đức Thọ chưa được biết chuyến đi Trung Quốc của
Kissinger.
Phiên mật đàm này cũng không đạt được những gì khác hơn là Bắc
Việt lại đòi hỏi phải thay đổi chế độ Nguyễn Văn Thiệu,
một đòi hỏi luôn ám ảnh đầu óc cộng
sản.
Xuân Thủy cứ hỏi Kissinger là liệu có thay đổi chánh phủ Thiệu
trước kỳ bầu cử tổng thống Nam Việt Nam 3.10 không? Xuân Thủy
cho rằng:"Chánh phủ này phải bị loại bỏ. Mỹ đã cung cấp cho họ
bộ máy quân sự, lực lượng cảnh sát và
một
tập đoàn hành chánh để đàn áp nhân dân và những người đối lập.
Như vậy, trên thực tế, Mỹ đang dung dưỡng chế độ Thiệu. Tôi có
thể nói rằng không thay đổi chế độ đó thì chẳng thể có giải pháp
hòa bình cho vấn đề
Việt Nam.
Các
ông
nói rằng các
ông
không thể làm chuyện đó, nhưng chúng
tôi
nghĩ rằng các
ông
làm được, nhưng các
ông
không muốn làm đó thôi. Thương thuyết không đem lại kết quả thì
dư luận quần chúng sẽ nghĩ rằng Huê Kỳ không muốn rút quân ra
khỏi Nam Việt Nam. Như vậy là các
ông
thiếu thiện chí."
Đến đây Lê Đức Thọ tố thêm
một phát nữa:"Có lẽ đây là một
trở ngại to lớn nhất vì chế độ Thiệu rất độc tài và hiếu
chiến... Chừng nào Thiệu còn ngồi đấy thì chẳng bao giờ có hòa
bình... Có thể nói rằng việc loại bỏ hay giữ Thiệu là thước đo ý
định của các
ông
trong việc lập lại hòa bình hay tiếp tục
Việt Nam
hóa chiến tranh. Nếu Mỹ thay Thiệu, chúng
tôi
sẽ nhanh chóng giải quyết chiến tranh, không những ở
Việt Nam
mà trên toàn thể Đông Dương nữa. Chúng
tôi đã thương thuyết hồi 1954 (Hiệp Định
Genève) và 1962 (Hiệp thương về trung lập của Lào), các
ông
cũng thấy là chúng
tôi đã xử sự đúng đắn và hợp lý ra sao rồi.
Cho nên, nếu các ông
thay Thiệu thì chúng
tôi
sẽ có những hành động rộng rãi và nhanh chóng, đẹp lòng cả đôi
bên. Những gì chúng
tôi
nói với
ông
hôm nay là những điều vô cùng nghiêm túc."
Kissinger bắt đầu phát cáu:"Các
ông
cứ nói rằng chúng
tôi
phải thay
ông
Thiệu. Cụ thể các
ông
muốn chúng
tôi
phải làm sao đây?" Thọ mách nước:"Các
ông
có thể thay thế Thiệu bằng nhiều cách. Chẳng hạn như các
ông đã đưa Thiệu lên địa vị cầm quyền thì
nay, nhân dịp bầu cử, các ông
lật hắn ta xuống mấy hồi. Bầu cử là cơ hội tốt nhất. Báo chí, dư
luận quần chúng và phe đối lập ở
Sài Gòn đều biết là với hậu thuẫn của Mỹ thì
Thiệu sẽ thắng, mất hậu thuẫn đó là ông
ta sẽ thua. Dễ mà, nếu muốn lật đổ Thiệu thì
thiếu gì cách."
Sau chuyến đi
Hà Nội
của Chu Ân Lai, tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt đâm ra thắc mắc.
Không biết với tình hình mới này, liệu Trung Nam Hải có quan tâm
gì đến thân phận của Bắc Việt nữa không, hay chỉ bận lòng với
mối bang giao mới với tên trùm đế quốc. Lê Duẩn cho rằng "trong
chiến tranh xâm lược chống lại
Việt Nam,
Huê Kỳ tạo ra hết bất ngờ này tới điều ngạc nhiên khác. Cho đến
khi Mỹ hoàn toàn rút lui khỏi Nam Việt Nam, Nixon không còn đòn
phép nào mới lạ nữa. Thế nên, chuyến đi Bắc Kinh của Kissinger
là báo hiệu cho điều mới lạ khác."
Như
để trấn an
Hà Nội,
Chu Ân Lai tiết lộ với Lê Duẩn là trong những ngày làm việc với
Kissinger, Bắc Kinh có cho
ông
này biết rằng Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ chương trình bảy điểm
của CPLT và Huê Kỳ không thể đòi hỏi Bắc Việt rút quân đội miền
Bắc ra khỏi Nam Việt Nam. Tuy vậy, Lê Duẩn vẫn còn cay đắng thố
lộ với Chu Ân Lai là cuộc tiếp xúc thầm kín giữa Kissinger và
Chu Ân Lai đã tạo ra những "phức tạp mới", làm cho Bắc Việt
không thể nào tiến đến việc dàn xếp nhanh chóng được.
Ngày 15 tháng Bảy, khi Nixon tuyên bố sẽ viếng thăm Bắc Kinh
trong năm 1972 thì nhóm đặc trách hòa đàm của Mỹ tin tưởng là
rồi đây mọi việc sẽ tiến triển nhanh chóng. Vậy mà, tình hình
không diễn tiến theo cung cách duy lý của Mỹ, những con người có
đầu óc tự do, phóng khoáng. Thói thường, suy nghĩ của những
người bên này và bên kia chiến tuyến hay đối nghịch nhau
một
trăm tám mươi độ. Y như rằng, ngày 17.7.1971, Nguyễn Duy Trinh,
bộ trưởng Ngoại Giao của
Hà Nội,
gởi
một
bức điện cho Lê Đức Thọ và Xuân Thủy:"Đối với ta, thời kỳ hiện
tại không phải là lúc thuận lợi để dàn xếp. Tương quan lực lượng
chưa phải lúc và dàn xếp quá sớm cũng tai hại như dàn xếp quá
muộn."
Trong khi đó, chương trình Việt Nam Hóa của Nixon chỉ làm cho
Hà Nội
thêm phần tự tin. Còn phía đồng minh
Sài Gòn-Hoa
Thạnh Đốn thì cùng
một
tên gọi nhưng ý nghĩa lại không như nhau. Với Mỹ,
Việt Nam
Hóa có nghĩa là Mỹ rút quân về, còn
Việt Nam
thì coi như là bị Mỹ bỏ rơi. Hành quân "Lam Sơn 719" là
một
cơ hội để trắc nghiệm chương trình
Việt Nam
Hóa của Nixon.
Ngày 8.2.1971, 16.000 quân lính Nam
Việt Nam tràn qua Hạ Lào để cắt đứt đường mòn
Hồ Chí Minh
và tấn công quân
Bắc Việt.
Xuyên suốt tháng Hai đó, Mỹ hỗ trợ bằng không quân và pháo binh.
Tại
hòa đàm,
Bắc Việt
lợi dụng hai phiên họp khoáng đại ngày 11 và 18 tháng Hai để
phản đối, rồi kế tiếp là tẩy chay hội nghị trong hai tháng.
Trong bài diễn văn ngày 17 tháng Hai, Tổng Thống
Nixon
tuyên bố:
"Đêm nay, tôi có thể thông báo là chương trình Việt Nam Hóa đã
thành công." Ông tiếp tục phỏng đoán rằng "việc Mỹ can dự vào
Việt Nam sẽ chấm dứt. Ngày mà người
Nam
Việt Nam có thể đảm nhiệm lấy việc tự vệ đã ló dạng." Tuy để lộ
một niềm hãnh diện dựa trên ảo tưởng có lợi cho mình, ông
Nixon
cũng kềm chế về mặt ngoại giao vì sợ mất lòng "ông bạn Trung
Quốc" vừa mới kết thân. Trong hồi ký,
Nixon
có viết:"Tôi hết sức cố gắng để cho hành quân Lam Sơn hồi đầu
năm 1971 đừng làm thiệt hại đến mối bang giao vừa chớm nở, như
cuộc hành quân qua Cam Bốt trước kia... Tôi nêu rõ là đừng xem
hành quân Hạ Lào như là một hành động đe dọa Trung Quốc."
Thế
nhưng, so với thực tế trên hiện trường là cả một trời, một vực.
Đương đầu với một sức đối kháng mạnh mẽ hơn tin tức tình báo cho
biết, quân đội Việt Nam Cộng Hòa gặp một hỏa lực nặng nề vì quân
Bắc Việt
quyết tâm bảo vệ tuyến hậu cần huyết mạch cho phía Nam. Được
biết họ đã tung 36.000 quân chính quy vào mặc trận Hạ Lào và
thiệt hại trên 20.000 trong khi bên Việt Nam Cộng Hòa mất gần
nửa số quân. Ngoài ra, phía Mỹ thiệt mất 168 trực thăng và 618
bị hư hỏng. Năm mươi lăm phi hành đoàn bị chết trận, 178 bị
thương và 34 bị mất tích. Cuộc hành quân thử nghiệm chương trình
Việt Nam Hóa kéo dài được 60 ngày, với tổn thất khá nặng nề.
Theo nhận định của tướng Alexander Haig, phái viên của
Nixon,
thì "Hành quân Lam Sơn 719 đã tiêu thụ hết lớp người ưu tú của
quân đội Việt Nam Cộng Hòa và hậu quả trầm trọng và mang tính
hủy diệt hơn người ta tưởng. Chúng ta đã xử sự thật tồi tệ."
Cái lợi nhờ mở cửa với Trung Quốc đã bị thất bại của "Lam Sơn
719" hóa giải phần nào nên tiến trình
hòa đàm Paris
vẫn ì à ì ạch, đình đốn. Mối lợi phương xa đâu chưa thấy, sự
thua thiệt gần của
Nam
Việt Nam làm cho Hà Nội thấy phấn khởi hơn, dẫu cho thiệt hại
của cộng sản ở Lam Sơn 719 không phải nhỏ. Thế nhưng, đối với
cộng sản, một mạng người chẳng là gì hết. Vì vậy cho nên, trong
phiên họp ngày 26.7.1971, phía cộng sản đặt ngay vấn đề thời hạn
rút quân của Mỹ.
Xuân Thủy
mở đầu phiên họp với nhận định là đã có chút ít tiến triển giữa
chương trình chín điểm của họ và chương trình bảy điểm của Mỹ,
thế nhưng "còn lại hai điểm mà ông (Kissinger) chẳng đả động gì
đến hết là thời hạn rút quân, đính kèm với chuyện thả tù binh và
chuyện
chánh phủ Nam
Việt Nam. Chúng tôi đã nói rõ là các ông phải thay thế tập đoàn
của Nguyễn Văn Thiệu. Chương trình bảy điểm của các ông không có
ghi vấn đề đó mà ông cũng chẳng nói gì đến chuyện đó. Ông bảo
rằng
chúng ta
nên bàn về cơ cấu, nhưng vấn đề chủ yếu đó là cột sống của cơ
cấu kia mà. Nếu
chúng ta
không bàn về chuyện đó thì làm thế nào cơ cấu đó thành hình?"
Hơi bực mình,
Kissinger
đáp lời
Lê Đức Thọ:"Ông
Cố Vấn Đặc Biệt lại trổ tài sáng tạo hết ý."
Lê Đức Thọ
trả đũa:"Một cơ cấu mà thiếu cây đà chủ yếu thì đổ vở là cái
chắc." Nhắc đến chuyến đi Tàu của
Kissinger,
Lê Đức Thọ
mỉa mai cho rằng Huê Kỳ đừng nghĩ rằng Trung Quốc sẽ giúp ích gì
cho Mỹ trong vấn đề Việt Nam:"Chẳng có phương thức huyền diệu
nào để giải quyết vấn đề Việt Nam khác hơn là thương thuyết
nghiêm túc với
chúng
tôi
tại hòa đàm Paris này, trên căn bản những đề nghị của các ông và
của chúng
tôi.
Trong
một
cuộc cờ, người thắng và kẻ bại đấu với nhau mà thôi, chẳng có
cách nào khác hơn.
Chúng
tôi
có toàn quyền để giải quyết những vấn đề của chúng
tôi."
Nóng mũi, nóng mắt, Kissinger phê bình:"Nếu như chúng
tôi
hiểu đúng thì các
ông
nhứt quyết chú tâm vào hai điểm. Một là, chúng
tôi
rút quân về càng sớm càng tốt. Hai là, sau khi Mỹ đi hết rồi,
các
ông
sẽ lật đổ cơ cấu chánh trị hiện tại của Nam Việt Nam. Yêu cầu
của các
ông đâu phải là nhượng bộ mà là đòi hỏi chúng
tôi
phải dâng cho
Hà Nội
thời cơ để đạt được mục tiêu. Nếu như chính các
ông đạt được những điều đó bằng sức mình thì
chúng tôi
sẽ chấp nhận kết quả, nhưng có thể là các
ông
sẽ không đạt được ở bàn hội nghị này. Lẽ dĩ nhiên là sẽ chẳng có
bên nào chịu ký
một
thỏa hiệp để hiến dâng cho bên kia những điều kiện họ đòi hỏi
hết."
Sau khi cho biết rằng Huê Kỳ chuẩn bị ấn định thời gian rút quân
Mỹ và đồng minh trong vòng chín tháng sau khi hiệp định đã được
ký kết, Kissinger kết thúc hòa đàm với những lời lẽ chán
chường:"Nếu như các
ông
cứ tiếp tục luận điệu đưa ra những đòi hỏi rồi cân nhắc những
câu trả lời của phía chúng
tôi,
coi chúng
tôi
như những học sinh trong
một
kỳ thi, thì xin thưa rằng quý
ông
sẽ không được một thỏa hiệp nào hết."
Tóm
lại, Mỹ đã nhượng bộ Bắc Việt hầu hết ở mọi điểm. Vấn đề còn lại
là làm sao để trình bày cho Nam Việt Nam hiểu rằng Mỹ sẽ không
phản bội. Chỉ còn có cách là hứa hẹn với
ông
Thiệu những điều trái ngược với những cam kết cùng
Hà Nội.
Nghĩa là Huê Kỳ sẽ duy trì sự hiện diện quân sự và sẵn sàng sử
dụng khi
cộng sản
vi phạm nền hòa bình ký kết trên giấy tờ.
Mấy tháng qua, Tổng Thống Thiệu đã băn khoăn vì không có tin tức
nào về chuyện mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Ông thắc mắc
về chuyện đó trước chuyến đi Bắc Kinh của Kissinger khá lâu. Để
cung cấp cho Kissinger những dữ kiện từ
Sài Gòn,
trước khi Kissinger họp với Thọ, đại sứ Bunker đặt vấn đề với
Kissinger:"Chúng ta phải xử trí như thế nào với Thiệu, kể cả
phản ứng của
ông
về những đề nghị của chúng ta?... Mặt khác, vì từ lúc đầu, chúng
ta không chịu cho
ông
Thiệu biết những chuyện của mật đàm nên bây giờ gặp khó khăn."
Vì Tổng Thống Nixon bị áp lực của nội bộ Huê Kỳ nên Tổng Thống
Thiệu cảm thấy mình là nạn nhơn. Khi
ông
Thiệu nhận thấy điều kiện "hai bên cùng rút quân" đã biến mất và
bị thay thế bằng điều kiện "quân Bắc Việt ngưng xâm nhập Nam
Việt Nam",
ông
hiểu ngay là việc rút quân Bắc Việt đã trở thành điều kiện riêng
biệt, nằm ngoài hiệp định, do các quốc gia Đông Dương giải quyết
chớ không phải do Kissinger. Thì ra, Mỹ đã tách rời chánh trị và
quân sự để nhanh chóng đi đến dàn xếp. Ông Thiệu thấy ra rằng,
trong cuộc mật đàm mà
Việt Nam Cộng Hòa không được tham dự, Nam
Việt Nam chỉ được bảo đảm là không quân Mỹ sẽ ngăn chận không
cho cộng sản xuẩn động. Giả dụ lá bài Trung Quốc của
Nixon-Kissinger
có tác động như thế nào đó đến
hòa đàm Paris
thì cũng chỉ làm cho Huê Kỳ phải gia tăng nhịp độ nhân nhượng
cộng sản
Bắc Việt
mà thôi!
(Còn tiếp)
Cố Nhân
|