PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                       TRANG CHÍNH

" Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống " (Siddhatta)
 CHUYÊN MỤC

Tư Tưởng

n Học

Ký sự

Giáo Dục

Diễn Đàn

Chính Luận

Môi Trường

Văn minh - Văn hóa

Viễn tượng Việt Nam

Việt Nam trong dòng thời sự

Đạo Bụt trong dòng văn hóa Việt

 TƯ LIỆU

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị

Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa

Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền

Nguyên Tắc Của Nền Pháp Quyền

Thế Nào Là Dân Chủ ?

Các Vấn Ðề Dân Chủ

  Ký sự Xã hội

Hãy cứu người
lao động tại Malaysia

 

  • PSN 7.04.2008 - Trần Ngọc Thành

Gặp gỡ đồng bào Lao động Ma Lai ngoài hàng rào nhà trọ (ảnh TNT)

7 chị em công nhân đã bị bán qua 5 lần chủ (ảnh TNT)

Với đại diện Tổng Liên Đoàn Lao Động Malaysia (ảnh TNT)

Lại lên đường.
Từ những thông tin trong nước, chúng tôi biết được hàng chục ngàn người nghèo đang được đảng và chính phủ Việt Nam „ưu tiên” đi xuất khẩu lao động đến nước Malaysia. Vì nghèo nên họ phải đến nơi đây. Những người „giàu có hơn”, có khả năng trang trải (bằng vay mượn hoặc thế chấp) từ 120 đến 150 triệu đồng tiền việt cho các công ty môi giới sẽ đến được Hàn Quốc, Nhật Bản để bán sức lao động.

Tôi đã đến Đài Loan và Hàn Quốc, đã sống với những người „giàu có hơn” trong các container mà giới chủ thuê cho họ ăn ở, nghỉ nghơi sau giờ làm việc cực nhọc tại các công xưởng. Tôi chưa sống qua mùa đông, nhưng đã thưởng thức cái nóng, cái oi bức đến điên người của mùa hè khi phải chui rúc trong các container đó. Tôi thầm cảm phục sự chịu đựng giẻo dai của những cô gái, chàng trai đất Việt, nhưng cũng đau lòng khi nghĩ đến những bệnh tật sẽ dày vò họ sau những năm tháng sống và làm việc trong điều kiện khốn khổ như vậy.

Tôi hình dung được những gì đã và đang xẩy ra với những người Việt nghèo trên đất Malaysia.

Cuối năm ngoái, Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động (UBBV) đã cử hai chuyên viên từ Úc Châu là anh Nguyễn Đình Hùng và anh Nguyễn Hưng Đạo đến Malaysia gặp gỡ công nhân để tìm hiểu tình hình. Qua những gì hai anh chứng kiến, UBBV quyết định phải thường xuyên chú ý tới anh chi em lao động tại đây để tìm cách giúp đỡ.

Chúng tôi lại lên đường. Anh Hùng từ Sydney, tôi từ Warszawa.

Để tiết kiệm, tôi chọn đường bay rẻ tiền. Qua ba lần đổi máy bay, chúng tôi gặp nhau ở Kuala Lumpur. Vì có hẹn trước, chúng tôi gặp cô Hồng Nga, phóng viên BBC tại bến xe buýt. Kéo nhau vào tiệm cà phê chuyện trò và làm việc chớp nhoáng. Chúng tôi thoả thuận: BBC chưa vội đưa tin về công việc của UBBV tại Malaysia để tránh phiền phức và đảm bảo an toàn. Cô Hồng Nga tranh thủ gặp gỡ anh chị em công nhân gần khu vực Kuala Lumpur trước khi bay về Việt Nam. Chúng tôi lên xe buýt đi về Malaka cách Kuala Lumpur chừng 200 Km. Sau hai ngày liên tục di chuyển, tới Malaka chúng tôi mệt phờ người, vào khách sạn „nhiều sao” nghỉ ngơi lấy lại sức và bàn kế hoạch cho những ngày kế tiếp. Malaisia cách Ba Lan 7 múi giờ, dù mệt, tôi không sao ngủ được. Sáng sớm, chúng tôi ra bến xe buyt, điểm đến là Johor Bahru cách Kuala Lumpur chừng 500Km, sát biên giới Singapore. Hôm nay là thời cơ hiếm có, chúng tôi được gặp gỡ anh chị em công nhân vào ban ngày. Linh mục Nguyễn Văn Cao từ Úc Châu qua, sẽ làm lễ thánh cho gần 1000 công nhân theo đạo Thiên Chúa ở Johor Bahru va vùng phụ cận. Chủ nhật, hết vé xe buýt. Chúng tôi phải đi taxi với giá 250 ringgit, gần 80 đô la Mỹ. Ngồi trên xe tại nước Malaysia ở một miền quê hẻo lánh, tôi có cảm giác xe đang chạy trên xa lộ của nước Đức. Tốc độ trên 120Km/giờ, đường phẳng lì, láng bóng, sạch sẽ, ba làn xe mỗi chiều. Tôi từng nghe đến sự phát triển của Malaysia, của Kuala Lumpur. Đến phi trường tôi phải đi ngay, chưa có dịp chiêm ngưỡng vẽ đẹp của thủ đô. Nhưng, con đường „nhà quê’’ làm tôi sửng sốt! Cái gì đã thúc đẩy sự phát triển của nước „nhược tiểu” này ? Bao giờ quốc lộ I của Việt Nam mới được như vậy? Họ đâu có bác Hồ và đảng cộng sản „quang vinh”! Họ cũng đã từng bị ba „đế quốc to” là Bồ Đào Nha, Anh và Nhật xâm chiếm. Và ngày nay, họ có độc lập, dân chủ, có các đảng đối lập bên cạnh đảng cầm quyền, có bầu cử thật sự và tự do báo chí.

 

Đến với cộng đồng.
Johor Bahru. Sau 15 phút hỏi đường, chúng tôi gặp được anh Lập – Một người đã sống và làm việc tại Malaysia được 4 năm, thân quen với anh Hùng từ lần đi trước, hợp tác với UBBV, tình nguyện giúp đỡ anh chị em công nhân  từ lâu nay – dẫn tới Thánh Đường, nơi anh chi em đang tập trung làm lễ.

Những tiếp xúc đầu tiên không mấy thiện cảm: „Các chú từ Việt Nam qua?”- „Các chú là công ty môi giới?”- „Các chú từ Sứ Quán?”. Tôi ngậm ngùi và hiểu họ. Dù ba ngày đi đường thiếu ngủ, mệt mỏi, nhưng so với những chàng trai, cô gái tuổi từ 21 đến trên dưới 30, chúng tôi vẫn là những người to cao, trắng trẻo và béo tốt! Thật không ngoa tý nào khi người ta nói về sự khốn cùng của người lao động tại đây. Họ cũng ngạc nhiên, tại sao lại có những người „vô công rồi nghề” từ Úc, từ Ba Lan lặn lội đến đây. Qua những cuộc trò chuyện sau này, chúng tôi thông cảm, chia sẽ với những uất ức của họ khi họ nhắc đến những từ như „công ty môi giới” hay „đai sứ quán Việt Nam”.

Cả ngàn người gặp nhau ở đây, một số cùng làm việc với nhau, trong cùng một công ty hay các khu lân cận, nhưng đều đến từ những miền quê của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, họ đến vì cùng một lý do, cùng một hoàn cảnh: Nghèo. Anh Vinh quê ở Hải Dương, chị Vĩ Bắc Giang, anh Hào Nghệ An, anh Quang Hà Tĩnh... Không một miền quê nào thiếu người đại diện. Những chàng trai, cô gái, cần mẩn, siêng năng, chịu thương, chịu khó nhưng thiếu đất sống ở quê nhà: Không có tiền để vào đại học, không có tiền lo lót để vào cơ quan nhà nước, vào làm công nhân tại các xí nghiệp có chủ nước ngoài cũng chẳng dễ dàng gì.

Lời chào mời thật hấp dẫn: „Chính sách xoá đối giảm nghèo của đảng và nhà nước ưu tiên người nghèo đi xuất khẩu lao động, sau ba năm xuất ngoại trở về sẽ trở thành những người giàu có...” Tiền đồ tươi sáng trong những cái loa tuyên truyền, những lời ngọt ngào từ cửa miệng những đại gia môi giới với cái mác „cộng hoà xã hội chủ nghĩa” đó làm cho họ quyết chí ra đi. 20 hay 30 triệu cho các thủ tục và cho công ty môi giới. Không có tiền? dễ ợt. Vay ngân hàng lãi xuất với 1,2% tháng, thế chấp nhà cửa, vườn ruộng. Xong ngay. Nhiều chị ngậm ngùi để lại 2, 3 đứa con cho người chồng bệnh tật ở quê lên đường với niềm hy vọng đổi đời. Sự thật phủ phàng đã cướp đi những nụ cười hồn nhiên, vô tư của tuổi trẻ: - „Cháu sang đây đã hơn hai năm, làm chẳng đủ ăn, làm sao trả hết nợ được chú”; - „Công ty của cháu hợp đồng một đường làm một nẻo, chủ bảo đấy là hợp đồng với môi giới gọi môi giới mà hỏi, còn đây là yêu cầu của công ty, làm thì làm không làm thì nộp phạt 2000 ringit, tự mua vé máy bay mà về Việt Nam. Trời ơi! 2000 ringgit hơn 600 đô la mỹ tiền phạt, rồi tiền vé máy bay, 30 triệu tiền nợ lãi. Lấy đâu? Gọi điện cho môi giới: „Xin lỗi quý khách số này hiện nay không liên lạc được, xin quý khách gọi lại sau”. Gọi lại sau! Gọi lại sau, „cái sau” nào cũng vậy. Công ty môi giới đã đóng cửa, giám đốc đã lặn rồi. Có thể giờ đây họ đang làm giám đốc một công ty môi giới mới với một cái tên mới, oách hơn. Đành ở lại, nhắm mắt đưa chân, 12,15 tiếng một ngày, làm gì cũng được, ở đâu cũng đươc, ăn gì cũng đươc, miễn sao có được chút tiền để trả nợ lãi ở quê.

Cậu Ánh bảo tôi: „Nếu có điều kiện chú nên đi thăm anh Trần Văn Đài, đồng hương với cháu bị tai nạn lao động đứt cả bàn tay, mới 24 tuổi đầu, tội nghiệp lắm”. Tôi và Ánh ra đường vẫy taxi, đi 15 phút hết 15 ringgit đến nhà trọ của Đài. Tình cảm của những người đồng hương xa quê thật đáng quý, gần 30 người đang tụ tập liên hoan tiễn Đài về quê. Tôi gặp Đài, một chàng trai đầy nghị lực, các ngón bàn tay trái bị chặt. „cháu bi tai nạn đã được 8 tháng. Chủ cho tiền chữa trị và tiền vé máy bay. Cháu về nước nhưng chẳng còn tiền, bạn bè giúp đỡ mỗi người một ít, nhưng ai cũng nghèo. Rồi đây mất một bàn tay, cháu biết làm gì hở chú?” Tôi động viên cháu, rút ví giúp cháu một ít tiền, rất nhỏ so với thu nhập của người Việt bình thường ở Ba Lan. Nhưng, với những công nhân ở đây, phải làm việc cật lực hơn nửa tháng. Cháu ôm chầm lấy tôi, tôi tạm biệt cháu mà chẳng dám hứa điều gì.

Cũng tại Johor Bahru, tôi gặp môt chàng trai khác: Anh Mạnh quê ở Hương Sơn, Hà Tỉnh. Cách đây 6 tháng, khi đang làm việc bị mạt sắt bắn vào mắt. Không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, phải tự xoay tiền để chữa trị, 4 lần đi bệnh viện ở Kuala Lumpur để khám và mổ, bao nhiêu tiền làm việc lâu nay không đủ để chữa mắt, Mạnh phải vay chủ 4000ringgit để trả tiền thuốc men và viện phí. Chủ đồng ý cho vay nhưng với điều kiện Mạnh phải làm việc để có lương trừ nợ. Một mắt đau đang thời gian điều trị, cứ hai giờ phải tra thuốc một lần. Sau một thời gian đi làm, Mạnh không chịu nổi, quyết định trốn chủ về quê nhưng không có tiền. Linh mục Cao giúp Mạnh mua vé máy bay, tôi cũng giúp cháu một ít. Còn nhiều số phận khác tương tự tôi sẽ gặp nay mai. Mạnh đã về Việt Nam, đã đến viện mắt Hà Tây để khám.

 

Những cuộc gặp gỡ lúc nữa đêm.
Thế là qua một ngày chia sẻ, cảm thông với những người con xa Mẹ, vất vả xứ người tại Johor Bahru. Các bạn trẻ nơi đây đã đồng ý với chúng tôi: Muốn chiến thắng sự đày đoạ, áp bức, khổ nhục, phải đoàn kết. Trong số hàng ngàn người, không phải ai cũng biết tiếng Malaysia, phải có người đại diện. Đoàn kết là vũ khí hiêu quả nhất của những người thấp cổ bé họng trước những ông chủ tham lam, không có lương tri, khi thấy tiền là mờ mắt.

Chúng tôi lên xe buýt về cùng với anh chị em, dự định ghé thăm những người đồng hương, làm việc tại xí nghiệp may ở Batu Pahat. Trên xe, các bạn trẻ can ngăn: Các chú cẩn thận, ở đây nguy hiểm lắm, không nên qua đêm. Họ kể cho chúng tôi nghe những chuyện cướp bóc dọc đường, trấn lột, anh chị em khi đi làm về, đột nhập vào nhà, thậm chí vào khách sạn ăn cướp do những băng nhóm tội phạm người Việt cấu kết với người Indonesia nhằm vào người lao động Việt Nam và lao động nhập cư từ các nước khác. Chúng tôi nghe lời, tìm phương tiện để về Malaka. Trời sắp tối, không còn xe buýt, xe taxi rất nhiều nhưng không ai chịu chở. „Về đêm nguy hiểm lắm”! Cánh taxi, dân thổ địa ai cũng lắc đầu. Chạy đi chạy lại, cuối cùng, một chàng gốc Ấn độ đen thui, to cao, dáng bặm trợn đồng ý với giá 250 ringgit, xấp xỉ 80 đô. Vì sợ về trễ nên hắn ta chạy như ma đuổi. Xe Mersedes cà tàng, tối trời mà hắn phóng tốc độ 120 cây. Ơn Trời, chúng tôi về đến khách sạn an toàn. Đã 1 giờ 30 đêm. Mệt rã rời, không thèm thay quần áo, anh em chúng tôi kéo một mạch đến trưa. Lại chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới đến „vùng sâu, vùng xa”. Muốn gặp được những công nhân làm việc tại Malaysia, đi ban ngày không có cơ hội, hầu như tất cả đồng hương Việt Nam đều làm việc 12 đến 15 tiếng mỗi ngày, bắt đầu từ 8 giờ sáng. Thời gian gặp gỡ lý tưởng nhất là lúc 12 giờ đêm, lúc đó  họ đã về, đã nấu nướng, ăn uống xong. Cũng phải tiếp chuyện thật nhanh, cuốn gói sớm để họ còn đi ngủ lấy sức để ngày mai cày tiếp. Lại 12 tiếng, 15 tiếng mà lương đâu có nhiều. 26 ngày quần quật, hết ngày dài lại đêm thâu, chủ trừ trước, chủ phạt sau, nhiều lắm họ chỉ được còn 120 đên 150 đô la mỹ. „Thế là phúc lắm rồi chú”. Có nhiều kiểu phạt nghe rất tức cười nhưng ra nước mắt: Một cô bé tuổi mới qua thời „bẻ gãy sừng trâu” chưa lâu, làm việc đói quá, giờ giải lao lượm một quả xoài rụng trong sân công ty, bị bảo vệ bắt được, chủ phạt 1200 ringit và doạ đuổi việc.

Trước khi tôi bay qua đây, anh Hùng thông báo: Hình như đồng hương ở Malaysia không có điều kiện ăn Tết cổ truyền. Tôi phóng xe ra chợ „Sân vận động 10 năm” mua 4 bánh chưng và 1 ký giò chả, chồng sách báo và mấy băng đĩa nhạc. Anh Hùng cũng mang một vali báo, mấy băng đĩa DVD Asia, trong đó có bài „Khóc Mẹ Dân Oan”. Hôm đến Johor Bahru chúng tôi chỉ mang theo báo, không dám mang bánh chưng. Một ngàn người, chỉ vài cái bánh chưng đưa ra ngượng chết. Chúng tôi chia ra làm quà cho nhưng anh chị em những nhóm it người gọi là hương vị quê hương. Lại gọi taxi lên đường đến những „vùng xa”. Chúng tôi đến chỗ ở của chị em lúc 9 giờ đêm. Do có hẹn trước, Đông, một cô gái Sóc Trăng, cáo ốm nghỉ sớm, đạp xe ra đường lớn đón chúng tôi: „Các chú cố gắng ngồi chờ, chắc hơn tiếng nữa chị em sẽ về”. Chín chị em trong một căn nhà lộp tôn, dưới nắng trưa hè, chắc chúng ta hình dung được cái nóng ra sao. May thay, chị em chỉ „nhờ vả” nó từ 12 giờ đêm đến 7 giờ sáng. Sau 14, 15 tiếng cực nhọc, nằm xuống là ngủ ngay, hơi sức đâu để ý đến nóng hay lạnh. Đông nấu cơm cho cả nhà, chúng tôi chờ chị em đi làm về và tranh thủ hỏi chuyện: Nhà Đông thuộc diện dưới nghèo, nên được vay ngân hàng lãi suất 0,5% tháng. – „Ưu tiên đó chú, hầu hết chị em đều phải vay lãi suất 1,2% tháng. Cháu sang đây gần 2 năm nhưng vẫn chưa trả hết nợ. Ở nhà cực lắm nhưng sang đây còn cực hơn, trả xong nợ là cháu sẽ về’’... Chín chị em mỗi người mỗi cảnh, quê đủ cả ba miền Bắc, Trung Nam, được cái thương yêu, nhường nhịn và giúp đỡ lẫn nhau. Cơm đã chín, chúng tôi cố chờ, một tiếng, 2 tiếng,...”Thế đấy các chú ạ, các chị tranh thủ làm thêm để kiếm chút tiền còm. Các chú có đến đây mới hiểu được và thông cảm cho các cháu”. Chúng tôi ra về, không dám làm phiền chị  em. Giấc ngủ ngắn ngủi nhưng vô cùng quý giá đối với họ. Đến khách sạn lại 1 giờ 30 sáng.

Biết chúng tôi đến đây, nhiều anh chị em viết thư nhờ người mang đến, nói lên cảnh khổ của đơn vị mình và yêu cầu giúp đỡ. Họ gọi chúng tôi là tổ chức công đoàn quốc tế. Chúng tôi cố sắp xếp thời gian, đến thăm và động viên họ, dù buổi tối hay lúc nửa đêm.

130 ngàn con người, 130 ngàn số phận, trải dài, trải rộng trên khắp đất nước Malaysia. Chúng tôi nhận đươc thư của cô Hoàng Thị Hiền, quê Hà Tĩnh, đại diện cho mấy chục chị em bị giới chủ bán chuyền tay, đến lần thứ 5 qua 5 công ty. Hàng tháng lại bị chủ trừ 50 ringit, từ tiền lương cho chủ cũ. Đã có lúc, hàng tháng trời chị em không có việc làm, không có tiền, không có gạo ăn, phải vào rừng hái rau, ăn sắn, ăn khoai trừ bữa, không biết kêu ai. Gọi về môi giới Việt Nam không ai trả lời, đến sứ quán Việt Nam không ai tiếp. Lợi dụng  tình cảnh của chị em, chủ trước bán cho chủ sau như những món hàng. „Vô lý lắm các chú ạ, nhưng biết kêu ai bây giờ”. Thế đấy! Biết kêu ai bây giờ. Chúng tôi đi đến đâu cũng gặp điều vô lý : Công ty may, công ty điện tử, công ty bánh kẹo, v.v… vô lý mọi lúc, vô lý mọi nơi.

Chúng tôi lại đến thăm anh chị em công ty may ở ngoại ô Kuala Lumpur, chuyện trò với anh chị em ngoài hàng rào khu nhà trọ. Muỗi nhiều quá, tôi bị đốt hết sưng cả hai tay. Anh Hùng ít bi muỗi cắn hơn. Chắc người Úc ăn nhiều thịt Kanguru nên muỗi malaisia nó sợ. Tại đây, nhiều anh em bỏ ra làm ngoài vì không chịu nổi, quá nhiều bất công, quá nhiều vô lý. Chúng tôi được biết anh Lâm Văn Có, quê ở Hải Phòng, vay tiền với lãi suất cao để đươc đi lao động. Sang đây, theo yêu cầu của môi giới Việt Nam, chủ trừ tiền lương hàng tháng để trả cho  môi giới. Theo hoá đơn của chủ, số tiền vay đã trả hết từ lâu nhưng chủ cứ tiếp tục trừ. „vì yêu cầu của phía Việt Nam” (!). Không cãi được, sự chịu đựng có hạn, anh bỏ ra làm ngoài. Nhiều anh chị em xa nhà đã 6 năm, nhưng chưa một lần về nước, dù Kuala Lumpur cách Sài Gòn chỉ hơn một tiếng bay.

Báo chí Việt Nam gần đây đưa tin về nhưng vụ trấn lột, cướp của, giết người dã man do những công nhân Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài bất hợp pháp gây ra. Lãnh đạo phía Việt Nam phủi tay, đại sứ quán phủi tay, quản lý lao động phủi tay, môi giới phủi tay. Tất cả tội lỗi đều trút hết lên đầu những tên tội phạm. Nhưng ai đã làm thủ tục, thu tiền để xuất khẩu những tội phạm sang đây? Chẳng lẽ công an khu vực, công an các cấp không nắm được hồ sơ của các tội phạm? Hay hộ chiếu, hợp đồng của tội phạm được bán cao gấp nhiều lần so với người bình thường? Tội phạm đâu phải một vài tên. Ai đã đẩy những công nhân như Lâm Văn Có vào bước đường cùng. Người công nhân khốn khổ vì lao động cực nhọc, bị chủ hà liếp lại luôn luôn nơm nớp lo sợ khi phải ra đường. Sợ cướp, sợ cảnh sát. Tất cả hộ chiếu của người lao động đều bị chủ giữ, có sự thoả thuận của phía Việt Nam, Nhiều công nhân phải nộp phạt cho cảnh sát vì không có giấy tờ tuỳ thân. Nhiều trường hợp bị nhốt cả tuần lẽ vì không có giấy tờ, không có cả tiền nên cảnh sát giam cho bõ ghét.

 

Trách nhiệm thuộc về ai ?
Tuy chưa gặp gỡ hết 130 ngàn con người, nhưng chúng tôi đã đi nhiều nơi, gặp gỡ anh chị em đủ mọi thành phần, mọi hoàn cảnh. Những chứng cứ chúng tôi có đủ trong tay. Chúng tôi quyết định đến gặp lãnh đạo Tổng Liên Đoàn Lao Đông Malaysia ở thủ đô Kuala Lumpur. Anh Nguyễn Đình Hùng gọi điện hẹn gặp, họ đồng ý tiếp chúng tôi.

Lại tranh thủ lên đường.

Những người lãnh đạo Liên Đoàn Lao Động Malaysia đôn hậu, vui vẻ và nhiệt tình. Tiếp chúng tôi là Tổng Thư Ký Tổng Liên Đoàn Lao Động Malaysia Ông G. Rajasekaran và ông M.Ethayakumar phụ trách lao động nhập cư. Chúng tôi thay mặt hàng chục ngàn công nhân Việt Nam, tố khổ và kể khổ với ông Tổng Thư Ký và người đồng sự. Sau hơn 30 phút lắng nghe, ông Tổng Thư Ký nói: Chúng tôi đã nghe đã biết những điều các ông nói. Chúng tôi chờ đợi sự lên tiếng từ phía Việt Nam nhưng họ yên lặng. Cách đây 2 năm, năm 2005, chúng tôi được chứng kiến cảnh hơn 600 công nhân Việt Nam đói khát cực nhọc, tập trung kêu cứu trước Đại sứ quán Việt Nam ở Kuala Lumpur. Chúng tôi đã mời đại diện Sứ quán Việt Nam đến để bàn bạc, Chúng tôi đề nghị phía Việt Nam lên tiếng để chúng tôi có cơ sở can thiệp. Nhưng, đại diện  Sứ quán Việt Nam nói: „Chúng tôi không dám lên tiếng, nếu chúng tôi lên tiếng thì phía Malaysia sẽ ngừng tiếp nhận lao động Việt Nam.

Ông Tổng Thủ Ký nhún vai và đưa hai tay lên trời.

Thế đấy! cháy nhà mới ra mặt chuột. Ông Tổng Thư Ký hứa là sẽ cùng với UBBV giúp đỡ công nhân. Chúng tôi tin lời ông. Chắc 3 triệu người Việt trong cộng đồng Hải Ngoại sẽ sát cánh cùng chúng tôi. Tạm biệt các ông, chúng tôi sẽ trở lại cùng với các ông để cứu giúp những đồng hương của chúng tôi. Chúng tôi đã vơi đi một phần nỗi buồn và sự lo âu, có lẽ tối nay, chúng tôi ăn sẽ ngon hơn và ngủ sẽ yên hơn.

Chúng tôi đã trao cho ông bản copy hợp đồng lao động bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Trong một bản hợp đồng tiếng Việt, Điều 8 điểm 2 cấm công nhân đình công, biểu tình, lãn công dưới mọi hình thức. Đây có lẽ là điểm then chốt để giới chủ Malaysia lợi dụng để chèn ép và bốc lột công nhân. Điêu 8 điểm 8: Cấm nói xấu Việt Nam… Có lẽ các bạn nghe xong chắc sẽ tức cười. Nói xấu Việt Nam! Cái bóng ma „xấu” nó ám ảnh lãnh đạo đảng cộng sản mọi lúc, mọi nơi. Trong nước, họ nuôi dưỡng một đội ngũ công an hùng hậu bằng tiền thuế của dân để cấm dân „nói xấu”; 600 tờ báo không được „nói xấu”. Khi công dân đã ra nước ngoài lao động, không thể đưa theo được lực lượng hùng hậu này nên họ cho điều khoản „cấm nói xấu” vào hợp đồng lao động. Ở Malaysia này, chúng tôi không thấy một công nhân nào nói xấu ai cả. Họ chỉ nói lên sự thật: Sự thật vay tiền lãi suất cao, sự thật làm việc cực nhọc nơi đây, sự thật ốm đau bệnh tật, sự thật không được ai từ phía Việt Nam quan tâm. Những sự thật đó đã được ông Tổng Thư Ký Tông Liên Đoàn Malaysia xác nhận: „ Họ sợ lên tiếng…”

Điều 18 điểm 5 trong một bản hợp đồng bằng tiếng Anh, nghiêm cấm công nhân Việt Nam liên hệ hoặc tham gia nghiệp đoàn lao động Malaysia. Trong nước, chính quyền quản lý, kiềm chế công nhân bằng công đoàn nhà nước. Ra nước ngoài, họ không xuất khẩu được công đoàn nên cấm công nhân liên hệ với những người đồng nghiệp nước sở tại, khiến công nhân trở thành những con cừu non giữa đàn sói chủ tham lam, phần lớn là người gốc Hoa.

Liên Hợp Quốc và Chính phủ các nước viện trợ cho Việt Nam hàng tỷ đô la để „xoá đói giảm nghèo”. Số tiền đó đáng ra phải dùng để tạo công ăn việc làm cho người nghèo, giúp họ giảm nghèo trên chính quê hương họ chứ không phải để các quan tham chia nhau còn người nghèo được „ưu tiên” vay lãi suất 0,5 % tháng và đẩy đi làm nô lệ. Công nhân bị bóc lột, bị làm làm nhục, bị đánh đập; công nhân bị chết. Các quan tham coi là chuyện bình thường.

Khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ ngày 05 tháng 3 năm 2008 về việc nhiều công nhân Việt Nam tai Malaysia bị chêt, ông Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội Nguyễn Thanh Hoà đã lấp liếm và nói dối nhiều điều... Theo những gì chung tôi được biết qua phản ánh của anh chi em công nhân thuộc nhiều đơn vị: Từ khi  „xuất khẩu” được công nhân sang đây, tuyệt đại đa số „Công ty môi giới” coi như hết trách nhiệm. Tiền, thầy đã bỏ túi, còn „sống chết mặc bay”. Công nhân chết, công nhân bị thương không ai đoái hoài đến, trừ những người bạn cùng làm, những người đồng hương tốt bụng. Anh Võ Văn Yên quê Yên Thành, Nghệ an, từ mấy tháng nay phải sống chui lủi, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè. Trong một cuộc cãi cọ, bạn anh bị bọn côn đồ chém vỡ đầu, may không chết, đầu phải khâu sáu mũi. Cảnh sát yêu cầu làm chứng, anh biết tên tội phạm nên đứng ra làm chứng. Tên tôi phạm bị giam vài ngày, sau đó được thả và doạ sẽ giết anh. Đã nhiều lần anh cầu cứu Sứ quán nhưng không ai giải quyết. Anh muốn trốn về Việt Nam nhưng chủ giữ hộ chiếu, bắt phải nộp 2000 ringgit. Anh không có tiền. May thay, Linh mục Cao giúp đõ anh tiền chuộc hộ chiếu và vé máy bay, tôi cũng giúp anh chút ít, bao nhiêu năm vất vả xứ người anh vẫn trắng tay.

Từ năm 2004 đến nay có 315 công nhân Việt Nam bị chết, riêng năm 2007 có 107 người. Phần lớn người chết đều còn rất trẻ, là lao động chính trong nhà. Ông Thứ trưởng đổ lỗi cho “việc khám sức khoẻ cho lao động đi Malaysia quá đơn giản” (!). Sư thật có đúng vậy không? Công nhân phải làm việc liên tục 15 tiếng mỗi ngày thậm chí 24 tiếng, từ 8 giờ sáng hôm nay đến 8 giờ sáng hôm sau, nghỉ đến một giờ chiều lại đi làm tiếp, ăn uống không có gì. Đến 2 giờ sáng chủ cho một tý cơm nấu theo kiểu Mã lai, chẳng ai nuốt nổi. Ngày tiếp ngày, tháng tiếp tháng. Sức người chứ đâu phải gỗ thép. Nhiều người ốm yếu, xanh xao, sau nửa đêm đi làm về, cầm bát cơm không ăn nổi, họ đặt xuống đi nằm. Nhiều người nằm không bao giờ dậy. Nếu chính phủ Việt Nam và những người có liên quan, không nhìn nhận nguyên nhân thấu đáo, chắc chắn số người chết sẽ tăng lên chứ không giảm như ông Thứ trưởng nói. Nhiều người tuy chết đã lâu, đến nay vẫn chưa được đền bù, nhất là những trường hợp chết tại nhà trọ.

UBBV sẽ vào cuộc.

Một trong những điều chúng tôi đòi hỏi là Chính phủ Malaysia phải có trách nhiệm điều tra lại cái chết của 315 anh chi em công nhân Việt Nam trong 4 năm qua và phải bồi thường thoả đáng; Sẽ đưa ra Toà những chủ nhân vi phạm mà chúng tôi đã thu thập được bằng chứng.

UBBV may mắn có được những cán bộ tâm huyết, nhiệt tình như các anh Đoàn Việt Trung, anh Nguyễn Đình Hùng, anh Nguyễn Hưng Đạo, anh Bùi Trọng Cường ở Úc châu, anh Nguyễn Cao Quyền ở Mỹ…

UBBV cũng nhận được sự yểm trợ vô tư, thầm lăng của Báo Người Việt, của Việt Tide- SaigonLittleRadio.

Để tránh tổn thất người và không ngừng phát triển, UBBV hoạt động lặng lẽ, âm thầm. Đã có hàng ngàn tờ báo giấy BVLD đến với công nhân từ Bắc chí Nam; Đã và sẽ có hàng ngàn, hàng vạn tờ đến với công nhân ở Malaysia và các nơi khác. Tuy nhiên, vì không “sôi động” nên những công việc của UBBV it được Cộng đồng Người Việt quan tâm và hỗ trợ. Cộng đồng thường chỉ chú ý đến những “hoạt động ồn ào”. Các cán bộ của UB nhiều khi đi công tác bằng ngân quỹ trích từ sổ tiết kiệm gia đình.

Tiếng chuông báo động phải được gióng liên hồi.

UBBV hoan nghênh TS Nguyễn Đình Thắng đã kết hợp hình thành “Liên minh bài trừ nô lệ mới ở Á châu” (CAMSA) đấu tranh có hiệu quả cho 2600 nạn nhân trong đó có 1300 là công nhân người Việt.

Vẫn còn hàng chục ngàn nạn nhân như vậy.

Máu chảy, ruột mềm. Họ cũng đều là con Hồng, cháu Lạc. Nếu chúng ta làm ngơ, mặc cho số phận của họ, sẽ có hàng triệu “Nô lệ mới” được tiếp tục “xuất khẩu” đi các nước Ả Rập và nhiều nơi khác.

Ba triệu đồng bào Hải ngoại chắc chắn chẳng làm ngơ.

 

Malaysia tháng 3 năm 2008.

------------------------------

* Ringgit là tiền Malaysia; một đô la mỹ bằng 3,3 ringggit.


SỰ
XÃ HỘI



TỦ SÁCH

Về một NỀN DÂN CHỦ PHÁP TRỊ VIỆT NAM

Mao, câu chuyện không được biết

Gene Sharp : Từ Độc Tài đến Dân Chủ

Vũ Thư Hiên : Đêm giữa ban ngày

TRANG NGOÀI PHÙ SA

Việt nam Chiến tranh và Lịch sử

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.