Một
người bạn nước ngoài kể rằng có lần, sang Việt Nam, anh bị
lạc đường tại TPHCM. Rút tấm bản đồ thành phố mang theo,
anh chặn lại một cách ngẫu nhiên vài người đi qua để hỏi
thăm đường về khách sạn; và anh phát hiện một điều: không
một ai làm được việc mà anh yêu cầu là xác định vị trí nơi
họ đang đứng, trên bản đồ.
Anh bạn
còn nhận xét rằng năng lực định vị đồ vật của một số người
Việt Nam cũng không được tốt lắm. Chuyện này không liên
quan đến khả năng ngoại ngữ, bởi anh thường cố gắng giao
tiếp bằng tiếng Việt với những người Việt không quen biết
trước. Nói chung, anh cho biết, để mô tả vị trí của một
vật nào đó trong không gian vật lý (chẳng hạn, căn nhà nằm
trong con hẻm, panô quảng cáo ở ngã tư), những người Việt
anh giao tiếp thường tốn khá nhiều công sức. Họ loay hoay
với nhiều phương án liên kết vật cần được định vị với các
vật khác mà không dứt khoát theo đuổi phương án nào; bởi
vậy, không có phương án nào được hoàn thiện. Hậu quả là
càng cố giải thích, sự việc càng trở nên rối rắm và không
thể hiểu được, thậm chí… cả đối với chính người giải
thích.
Anh bạn
tin rằng sử dụng bản đồ, định vị đồ vật bằng ngôn ngữ
không phải là một công việc đòi hỏi năng khiếu gì đặc
biệt: đó chỉ là chuyện rèn luyện một kỹ năng bằng cách lặp
đi lặp lại các thao tác tương tự để thành thói quen. Theo
anh, có lẽ một bộ phận người Việt Nam không coi việc rèn
luyện kỹ năng đó như là điều kiện cần thiết cho cuộc sống,
công việc.
Việc
“một bộ phận” người Việt gặp khó khăn trong việc tra cứu
bản đồ hoặc định vị đồ vật là điều có thật và đó, suy cho
cùng, chỉ là hai trong nhiều khuyết tật có chung một
nguyên nhân sâu xa, liên quan đến phẩm chất, tính cách con
người.
Cá nhân
chỉ là một thành phần của nhóm
Môi
trường xã hội truyền thống, mà một người Việt tồn tại và
phát triển, đặc trưng bởi sự thống trị của chủ nghĩa cộng
đồng, chủ nghĩa gia đình. Trong đại gia đình xã hội, mỗi
người sinh ra, lớn lên đều phải gắn với một gia đình tư
nhân, một thôn, làng, gọi chung là một nhóm người. Cá nhân
không bị tan biến vào nhóm, không vô danh, nhưng không
được cá nhân hóa: trong cuộc sống xã hội, gia đình, chứ
không phải cá nhân, là chủ thể.
Gắn chặt
với cộng đồng những người thân, quen, con người có thể có
được nhiều cơ may được bảo đảm các điều kiện sống vật
chất, được thương yêu, bênh vực. Nhưng đổi lại, con người
không có điều kiện để xây dựng và hoàn thiện tính cách cá
nhân, phát huy các phẩm chất, năng lực cá nhân, để được
coi là một cá thể sống đúng nghĩa có thể tự mình tồn tại,
giao tiếp mà không cần bám víu vào một thể sống khác.
Trong
khung cảnh sống của con người Việt Nam đương đại, chủ
nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa gia đình truyền thống cộng
hưởng với chủ nghĩa tập thể. Nhóm càng được tôn vinh, còn
cá nhân tiếp tục bị xem nhẹ. Cá nhân phải sống trong tổ
chức: hộ gia đình, nhà trường, cơ quan, công ty. Về phần
mình, các tổ chức, các nhóm, dù mang tên gọi nào, đều vận
hành theo mô hình gia đình: người đứng đầu là cha, anh,
chú, bác; các thành viên mang thân phận con, em, cháu.
Được
giáo dục để gắn chặt với một nhóm, thấm nhuần nếp sống có
hạt nhân là sự bảo bọc, giám hộ của tập thể, con người
không tự coi mình là một chủ thể độc lập, tự làm chủ vận
mệnh của mình, có quyền của riêng mình và phải tự chịu
trách nhiệm về hành vi của mình. Người Việt, phần lớn,
không có được tính tự chủ cá nhân.
Cá nhân
không có tư thế chủ nhân không gian vật lý
Do không
có ý thức làm chủ không gian vật lý, con người không coi
không gian là của mình và không bận tâm đến việc chủ động
tìm hiểu, kiểm soát nó. Vẫn có nhiều người Việt Nam biết
tra cứu bản đồ để tìm đường đi, biết cách định vị đồ vật
bằng các công cụ khái niệm. Nhưng trong đại đa số trường
hợp, người Việt Nam làm các việc đó không phải như một
người giữ vị trí trung tâm và nắm quyền kiểm soát khung
cảnh sống, mà ở trong tâm trạng của người giữ vai trò
khiêm tốn của một phần tử bình thường, bên cạnh những phần
tử bình thường khác, của khung cảnh đó.
Không
làm chủ không gian vật lý, con người cũng không bận tâm
đến việc gìn giữ chất lượng của nó. Đối với rất nhiều
người Việt Nam, bên kia tường rào nhà mình là nơi mà mình
không có quyền và cũng không chịu trách nhiệm quản lý. Khi
ném một con chuột chết, một mẩu thuốc lá cháy dở hoặc một
hộp sữa chua rỗng ra giữa đường phố, trên bãi cỏ công
viên, hầu hết tác giả của hành vi đó không có suy nghĩ gì
đặc biệt, vẫn vô tư theo cung cách của người xả rác thuở
xưa, lúc mà con người chưa có ý niệm gì về hiệu ứng nhà
kính, về sự biến đổi khí hậu và về trách nhiệm của con
người đối với những hiện tượng đó.
Cá nhân
không có tư thế chủ nhân không gian xã hội
Tư thế
chủ nhân không gian xã hội đặc trưng bằng hai yếu tố cơ
bản của nhận thức xã hội về tự do. Một mặt, con người hiểu
rằng mình là một cá thể tự chủ và có quyền tự mình quyết
định việc chiếm lĩnh, khai thác không gian xã hội để thỏa
mãn các nhu cầu, lợi ích của riêng mình. Mặt khác, trong
điều kiện không gian xã hội là ngôi nhà chung của mọi công
dân, việc thực hiện quyền tự do của một người đồng nghĩa
với việc hạn chế tự do của mọi người. Bởi vậy, sự tự do
của một người bao hàm cả việc người đó tôn trọng sự tự do
của mọi người khác.
Không
làm chủ không gian xã hội, con người, với bản chất vị kỷ,
có xu hướng chỉ phát triển yếu tố “một mặt” của nhận thức
xã hội về tự do và bỏ qua yếu tố “mặt khác”. Hậu quả là
khi theo đuổi các mục tiêu của cuộc sống, con người thường
không quan tâm đến mối liên hệ xã hội giữa mình và cộng
đồng, không tính đến các hệ lụy xã hội của hành vi.
Cho đến
nay, chất lượng xã hội của các ứng xử thông thường của một
người Việt Nam tại nơi công cộng thường chỉ dừng lại ở mức
bảo đảm thuần phong mỹ tục, chưa bảo đảm được tính hợp lý,
tính có tổ chức, tính liên kết và tính trật tự. Các hành
động của cá nhân liên quan đến việc chiếm lĩnh, sử dụng
không gian công cộng, cho các mục tiêu cá nhân, thường tỏ
ra manh mún, tự phát, tùy tiện. Có thể tìm thấy ví dụ ở
mọi nơi: trên đường phố, muốn băng qua đường, thì cứ tìm
cách nào băng qua cho được; ở quầy bán vé, muốn mua vé,
thì tiến đến quầy bằng cách chen vào bất kỳ khoảng trống
nào trước quầy; trong khách sạn, muốn vào thang máy thì cứ
bước vào, dù trong thang máy có hay không có người đang đi
ra. Rất nhiều người Việt Nam không hiểu rằng người muốn
băng qua đường chỉ có quyền băng qua tại lối đi dành cho
người đi bộ; người muốn vào thang máy phải tôn trọng quyền
ưu tiên rời khỏi thang máy của người đang ở bên trong;
người muốn mua vé phải tôn trọng quyền ưu tiên của người
đến trước.
Có khi,
nhận thức phiến diện kết hợp với nếp sống hoang sơ, dẫn
đến các ứng xử lố bịch không thể hiểu nổi. Chẳng hạn, ở Hà
Nội, chủ một bất động sản “mặt tiền” không cho phép chủ
một bất động sản bị vây bọc ở phía sau mở lối đi qua trên
bất động sản của mình, với lý do mình không có nghĩa vụ gì
đối với việc bảo đảm cho người khác khai thác bất động sản
của họ. Điều đáng chú ý là cả các đại diện cơ quan nhà
nước, khi trả lời báo chí, cũng tỏ ra không hiểu tranh
chấp này là gì và ai là người có thẩm quyền giải quyết.
Trong khi, với nhận thức sơ đẳng của một chủ sở hữu sống
trong một xã hội trọng pháp, người ta biết rằng bất động
sản của mỗi cá nhân trước hết là một thực thể xã hội, là
một đơn vị trong cộng đồng láng giềng, có những mối liên
hệ qua lại không thể né tránh với các bất động sản chung
quanh.
Nói
chung, sự thiếu vắng tính tự chủ cá nhân ở người Việt Nam
là nguyên nhân của tác phong tự do kiểu vô chính phủ trong
không gian xã hội và của tư thế chơi vơi trong không gian
vật lý. Điều đó giải thích tại sao các sinh hoạt mang tính
giao tiếp công cộng ở Việt Nam thường trông rất mất trật
tự và nhếch nhác, nhất là ở những nơi đông người tụ tập.
Người Việt Nam, về phần mình, vẫn chưa được biết tới như
là một người lịch lãm, tự tin, có khả năng ứng xử theo
đúng các chuẩn mực của xã hội công dân và có khả năng dấn
thân trong tư thế người làm chủ, có quyền và có trách
nhiệm cá nhân đối với vận mệnh của thế giới tự nhiên, của
xã hội và của bản thân mình.