Nhìn
lại cuộc di tản 30.04.1975
Sau
khi biết Miền nam sẽ mất vào tay Hà nội, tôi đã cố gắng vận động
bạn bè và sự quen biết người Mỹ để mong tìm một giải pháp cuối
cùng ngăn chặn tiến trình sụp đổ của Sài gòn chậm lại, nếu không
cứu vãn được tình thế. Gỏ cửa đến đâu đều bị đóng im lìm. Phút
chót, biết không thể làm được gì hơn, tôi phải vận động thực
hiện một chương trình di tản và giúp tái định cư những người
Việt nam không muốn sống chung với người cộng sản. Thật ra,
những người Việt nam lúc ấy muốn đi tỵ nạn cộng sản thì quá
đông, mà sự đón nhận lại quá hạn chế trong thời gian và khả
năng. Thực tế không chìu lòng người. Biết làm sao giờ ? Để giúp
hiểu tại sao có việc di tản và tỵ nạn vào lúc biến cố 30/04, tôi
phải dài dòng thuật lại chi tiết những việc làm của tôi và sự
hưởng ứng của một số bạn của tôi.
Nhũng nỗ lực, những trở ngại và chương trình di tản ra đời
Y kiến nhờ
Hoa Kỳ
đón tiếp di dân Việt nam sau chiến tranh giải phóng của Cộng Sản
và để tránh một chế độ thống trị độc ác của cộng sản sau tháng 4
/ 1975 là của riêng tôi.
Lúc ấy Tổng Thống Ford và ngoại Trưởng Kissinger không có ý kiến
nào giúp người Việt nam tránh khỏi làm nạn nhân cộng sản. Đó là
những người hy sinh vì chính nghĩa dân tộc Việt nam và tin tưởng
ở sức mạnh và sự trung thành của Đồng minh
Hoa Kỳ.
Lúc mất Phnom Penh ngày 17 tháng 4/1975, Chính Phủ Mỹ đem ra
khỏi
Cao Miên
chỉ được có 17 gia đình Miên. Số còn lại thì … phải chịu số phận
như thế giới đã biết.
Theo tôi nhớ, thì Đà nẵng mất cho Cộng Sản ngày 30 Tháng 3. Ngày
đó ở bên Mỹ là một Chủ Nhựt. Tôi và gia đình và một người bạn
Thái tên là Prapan Srisuta đương làm việc sửa sang lại một căn
nhà củ ở
Brookyn,
New York,
mà chúng tôi mới mua. Tôi nghe radio nói Đà nẵng mất thì tôi
biết sắp mất Miền nam Việt nam và thời Việt nam Cộng Hòa cũng
sắp hết hạng.
Ông tướng Ngô Quang Trưởng là người có đủ uy tín và tài quân sự
có thể chống lại sự xăm lăng của Cộng Sản Bắc Việt, cầm cự chờ
tới khi Mỹ trở lại chiến trường Việt nam. Nhưng, nếu Chính Phủ
Sài gòn không có
ông Ngô Quang Trưởng,
thì không hy vọng gì được. Sau mất Đà nẵng, vì sự tính toán quá
mưu sĩ nhưng thiếu thông minh của Tổng Thống Thiệu, ông Trưởng
không còn uy tín và mất tinh thần chiến đấu.
Tôi kết luận phải có chương trình di cư để giúp những người Việt
nam Quốc Gia để kịp tránh cho họ không phải đau khổ và nhục nhã
dưới sự thống trị độc ác và trả thù của Cộng Sản.
Sáng hôm thứ hai, tôi bỏ công việc đi
Washington.
Lúc đó tôi vừa mới ra trường Luật Harvard và đương làm việc cho
hảng Luật sư Simpson Thacher and Bartlett. Tôi đi Washington có
hai mục đích: một là gặp người bạn vẫn làm việc cho Chính phủ và
hai là gặp
ông Chef CI Bill
Colby để gợi ý với ông làm thế nào có một “ kế hoạch phút chót ”
khả dĩ cứu được Miền nam.
Ông C.B. Colby
lắc đầu tỏ vẻ tuyệt vọng.
Tôi tới
Washington
và gọi
ông Parker Borg,
Phụ tá Ngoại Trưởng Henry Kissinger. Tôi nói với Parker rằng
chúng ta phải có chương trình di cư cho đồng minh Việt nam.
Parker và tôi học tiếng Việt cùng một lúc năm 1967 và 69 tại Bộ
Ngoại Giao Mỹ để chuẩn bị làm việc tại Việt nam.
Parker trả lời: “Trể quá Steve ơi. Tôi mới xin thôi không làm
việc cho Kissinger nữa.»
Tôi hơi giận và thất vọng. Tôi nói : « Sao anh làm được như
vậy ? Tôi rất giận anh. Bây giờ anh bết quá ! »
Parker trả lời : «Tôi ghét
ông Kissinger. Ông
giả dối, lưu manh, mưu sĩ, không phải là người tốt. Tôi không
chịu làm việc cho ông ấy nữa.»
Tôi hiểu vấn đề Parker rõ
hơn và hỏi : « OK, bây giờ làm cái gì được ? »
Parker nói « Tối nay đi gặp Lionel đi. »
Lionel Rosenblatt cũng là người bạn trong chương trình CORDS tại
Việt nam đương làm Phụ tá cho ông Phó Ngoại Trưởng Ingersoll.
Đêm thứ hai, Parker chở tôi đi lên nhà Lionel. Vợ Lionel đau, đi
ngủ sớm. Lionel, Parker và tôi ngồi trong phòng khách. Lionel
đem rượu ra để uống.
Nhưng ông không mở đèn. Phòng khách không có ánh sáng. Chúng tôi
ngồi nói chuyện với nhau trong bóng tối.
Tôi trình bày ý kiến phải có chương trình di cư. Lionel nói: Tòa
Bạch ốc và ông Kissinger sẽ không đồng ý. Họ muốn quên Việt nam
vì đó là một sai lầm của Mỹ. Tôi biết Lionel từng nghiêng về
phía phản chiến chớ không như tôi. Nhưng tôi nói tiếp : « Người
Mỹ sẽ mất danh dự của một nước lớn Đồng minh giúp một nước nhỏ.
Mỹ sẽ không còn uy tín gì, nếu bỏ đồng minh.”
Nhiều người bạn mình sẽ chết. Anh biết. Parker biết. Tôi biết –
ai cũng biết. Như vậy, một người tốt, một người anh hùng, phải
làm thế nào ?”
Lionel im lặng mấy phút. Sau nói: “Steve có lý.”
Lionel đề nghị với Parker rằng, ngày mai là thứ ba, mời Steve
họp với nhóm trẻ gặp riêng để theo dõi tình hình nguy ngập của
Việt nam. Nếu cần chúng ta sẽ bàn và đồng ý với nhau. Tối mai,
họ có thể ảnh hưởng các Chef của họ.
Mọi người trong nhóm như Al Adams, Ken Quinn, Parker, Lionel,
Frank Wisner, một hai anh nữa ở CIA, Bộ Quốc Phòng, đều đã làm
việc tại Việt nam, biết nhiều tiếng Việt, có vợ Việt nam hay
nhiều bạn thân Việt nam và đã quen nhau từ thời phục vụ tại Việt
nam.
Rồi trưa Thứ Ba, tôi xuống Bộ Ngoại Giao, lên lầu 7 đi tới văn
phòng
ông Kissinger. Lúc
đó Kissinger đi Trung đông thì phải; không có ở
Washington.
Ông Ford đi Cali chơi golf.
Anh em sẽ họp tại Salon de conférence de Kissinger. Tôi sắp bước
vào phòng mời Parker ra. Vừa thoáng trông thấy sắc diện của
người bạn này, tôi biết ngay anh ấy đang khó chịu, buồn. Parker
nói: « Steve, anh không họp với chúng tôi được. Anh không còn
security clearance, không làm việc cho Chính phủ nữa; Steve chỉ
là thường dân làm luật sư mà thôi. Al Adams nói: “Nếu có Steve,
thì không có tôi.” Al bây giờ chờ ở ngoài một chút. Tôi sẽ trở
lại trong một giờ nữa hỏi xem anh đã làm cái gì được giúp Việt
nam.”
Lúc tôi trở về văn phòng ông Kissinger, thì Parker ra, vui lắm.
Parker nói: « Làm được rồi ! Chúng tôi đồng ý sẽ đề nghị một
Chương trình di cư cho Việt nam. Mời anh sẽ về chờ làm việc –
White house, State Department, CIA, Bộ Quốc Phòng và sẽ viết một
mémo trình lên với mấy ông Chef những lý do Chính phủ Mỹ phải
đón tiếp người Việt nam nếu mất nước cho Cộng Sản. »
Vậy các anh hãy làm việc ngay đi. Đặc biệt và quan trọng nhứt,
Ken Quinn về Tòa Bạch ốc (Anh làm staff tại Ủy Ban An Ninh Quốc
Gia) và ghi trong agenda của Ủy Ban ấy “Refugee program for
Vietnam. »
Khi Ủy Ban An Ninh họp với Tổnng Thống Ford vài ngày sau để thảo
luận về sự tiến công của Cộng sản tại Việt nam, họ trình bày dự
tính về refugees và đề nghị phải có chuẩn bị một Chương trình
đón di dân Việt nam. Đề nghị được chấp thuận.
Parker được bổ nhiệm tạm thời làm Phu tá đặc biệt cho Chương
trình Tỵ nạn cộng sản.
Steve B. Young
|