Việt Nam cần nhớ
CHXHCN
Việt Nam tuyên bố độc lập ngày 2 tháng Chín năm 1945. Lời tuyên
bố đó được đưa ra tiếp theo sau cơn đói bắt đầu từ năm 1944. Nạn
đói vẫn còn ám ảnh những ai đã sống qua thời kỳ đó. Khoảng hai
triệu người Việt Nam, mười phần trăm dân số lúc bấy giờ, đã qua
đời vì nạn đói. Để đối chiếu, người ta nhận thấy rằng trong cuộc
chiến Đông Dương thứ nhì, từ 1945 đến 1975, đã có ba triệu người
chết.
Nguyên nhơn nạn đói cũng khó tranh luận. Năm 1940, quân đội Phù
Tang chiếm cứ Việt Nam, nhưng để cho chánh phủ Vichy của Pháp
chịu trách nhiệm về hành chánh. Theo điều khoản của Hiệp Định
Pháp-Nhựt tháng Năm 1941, thì Đông Dương thuộc Pháp phải tiếp tế
thóc lúa cho Nhựt Bổn. Từ 1941 đến 1944, Việt Nam tiếp tế cho
Nhựt Bổn từ 700.000 đến 1,3 triệu tấn thóc và bắp cho Nhựt, đại
thể tương đương với từ 50 đến 80 phần trăm năng lượng sản xuất
thóc lúa của nước này. Và một diện tích đáng kể bị bắt buộc phải
sản xuất cây đay, cây gai dầu, bông vải và cây thầu dầu – cũng
cho Nhựt Bổn – do đó việc sản xuất lương thực cũng bị giảm sút.
Chuyện đường sá và những hạ từng cơ sở chuyển vận khác bị chiến
tranh tàn phá cũng gây khó khăn cho việc chuyên chở lương thực
thặng dư từ Nam Việt Nam ra ngoài Bắc. Hậu quả là trường hợp này
dẫn tới nạn diệt chủng.
Nhiều nạn nhơn phải đi bộ những đoạn đường dài mới tới tỉnh lỵ,
và hàng ngàn người đổ về thủ đô Hà Nội. Những cư dân thời đó còn
sống sót kể rằng từng hàng dài những hình dáng như bóng ma lũ
lượt kéo về thành phố. Những gia đình ở Hà Nội thường bắt gặp
xác chết trước cửa nhà. Người ta đào những hố to lớn ở vùng nông
thôn gần Hà Nội để chôn tập thể. Tiền công trả cho những người
chôn xác chết cứ hạ xuống hàng ngày, và ở Hà Nội, chẳng mấy lúc
mà chôn xác người chỉ đổi lấy chén cháo. Người chết ở nông thôn
đành bị bỏ mặc cho thối rữa, vì người ta đâu còn sức để chôn.
Điều kiện cùng cực đưa nhiều người đến lối ứng xử cực đoan.
Người này mửa ra, người khác ăn vào. Người ta đi theo ngựa và
trâu bò để lấy phân của chúng mà ăn hoặc để tìm những luơng thực
chưa tiêu hóa được của chúng thảy ra theo phân. Miếng ăn trong
miệng cũng chưa chắc là của mình, vì đôi khi người ta thường
đánh nhau để giành lấy miếng ăn trong miệng người khác. Thiên hạ
trộm cắp, cướp giựt và giết nhau vì miếng ăn.
Một gia đình làm bánh bán cho biết là phải làm bánh bằng đất để
đề phòng nạn ăn cắp. Khách hàng phải trả tiền mua bánh bằng đất
rồi đổi lấy bánh thật sau đó ở một nơi khác.
Còn có câu chuyện trẻ con bị chó đói ăn thịt nữa. Cha mẹ để con
ở nhà đi tìm thức ăn, khi trở về, than ơi, chỉ còn máu và xương
ở trong lồng giữ trẻ.
Việt Nam chưa có một ngày đặc biệt trong năm để tưởng nhớ nạn
nhơn của trận đói năm 1945. Bài tường thuật về độc lập và thống
nhứt của Việt Nam thường chỉ nói sơ qua cái tội ác đê tiện mà
người Việt Nam phải gánh chịu.
Một ngày đặc biệt để làm gì đây? An toàn thực phẩm còn là một
vấn đề cần phải quan tâm. Việt Nam ngày nay là đất nước xuất
cảng lúa gạo hạng nhì trên thế giới. Hồi đầu năm nay, chánh phủ
bắt buộc phải ngưng xuất khẩu gạo, nhưng chuyện đó đã được đình
chỉ.
Thế nhưng, còn có những thảm họa với nhịp độ và cường độ cao đe
dọa Việt Nam hàng năm, nhứt là những trận bão làm ngập lụt phá
hại mùa màng và thời vụ.
Tuy nhiên, trên phương diện kinh tế toàn cầu, nghĩa vụ xuất cảng
gạo của Việt Nam cần được tôn trọng, nhưng vì nhớ đến cảnh đói
kém nên người dân sẽ phải dự trù cho những ngày mưa gió. Trong
vòng hai thập niên qua, tăng trưởng đều đặn đã làm cho mức độ
tiêu thụ trở thành không thực tế và không thể chứng minh được.
Việt Nam ngày nay chỉ còn 20,7 tỷ Mỹ kim dự trữ, đại để tương
đương với ngân sách hàng năm của chánh phủ. Một ngày kia, đời
sống tốt đẹp sẽ chấm dứt và người Việt Nam sẽ thắc mắc vậy chớ
tiền bạc chạy đâu mất hết.
Chánh phủ Việt Nam nên nghĩ xem toàn thể đất nước, không phải
chỉ riêng chánh phủ, nên làm thế nào để dành dụm thêm – không
phải chỉ riêng tiền bạc mà còn hiện vật nữa – trong khi đang
phồn vinh. Và cũng phải nghĩ tới kế hoạch an ninh toàn diện,
nhứt là an ninh về lương thực.
Cố Nhân
Nguồn: "Vietnam needs to remember famine of 1945", của David
Koh, Straits Times, tháng Tám 2008.
[http://www.iseas.edu.sg/viewpoint/dk21aug08.pdf]
|