Staline, xa hoàng đỏ
Thiên
đường và địa ngục
Vào khoảng cuối
năm 1931, Staline, Nadia và phần lớn những triều thần đều nghĩ
tới chuyện đi nghỉ mùa hè cũng như mùa đông, trong khi tình hình
thiếu thốn đã đưa đến nạn đói ăn. Vậy mà Staline cùng với tập
đoàn lãnh đạo rất coi trọng việc nghỉ ngơi, vui chơi. Hồ sơ lưu
trữ cho thấy rằng ít ra cũng 10% thơ từ trao đổi nhau giữa những
nhơn vật của tập đoàn đề cập đến chuyện nghỉ hè, dẫu cho nạn đói
ăn đã lên đến mức tệ hại nhứt.
Thủ tục cấp phép nghỉ ngơi, trên nguyên tắc, theo đúng nghi thức
quy định, thế nhưng làm sao tránh chuyện ngoại lệ cho các quan
to, nhứt là đối với Staline. "Đơn" xin phép cho đồng chí Staline
nghỉ một tuần được trình lên Bộ Chánh Trị hẳn hoi, nhưng vào
cuối những năm 1920, Staline thường nghỉ từ hai mươi ngày đến
một hoặc hai tháng là chuyện thường, dĩ nhiên là "theo đề nghị
của bác sĩ".
Các cấp lãnh đạo đi nghỉ ngơi bằng xe lửa dành riêng, có mật vụ
của OGPU hộ tống. Khu vực các "quan trong triều đình" thường
nghỉ ngơi trải rộng từ những nhà nghỉ thôn dã ở Crimée phía Tây
chạy dài đến những nhà tắm nước khoáng nóng ở Borjomi. Sở mật vụ
OGPU quy hoạch cẩn thận lộ trình cho chuyến xe lửa của Staline,
dẫu cho trong thời kỳ đói kém, lúc nào cũng có đoàn xe thực phẩm
dự trữ tháp tùng.
Sở thích về nhà nghỉ của Staline rất đa dạng, nhưng trong những
năm 1930, ông thích nhứt là nhà nghỉ số 9 ở Sotchi. Biệt thự
"Krasnaïa Poliana" là một ngôi nhà bằng cây, có mái hiên bao bọc
xung quanh. Sau này, được xây cất lại bằng đá. Ngày nay, ngôi
nhà này biến thành viện bảo tàng với chủ đề Staline, có hình
tượng của Staline đang ngồi ở bàn viết. Biệt thự nghỉ mát này
của Staline nằm trên đồi, còn những nhà nghỉ của Molotov và
Vorochilov nằm dưới thung lũng.
Những người quyền chức đỉnh cao Liên Xô thích đi nghỉ mát từng
nhóm, vợ con không đi theo mà ở lại Mạc Tư Khoa, nên nhà nghỉ
giống như nhà nghỉ của "một nhóm tu sĩ bôn-sê-vít". Nhưng, thỉnh
thoảng họ cũng có mang vợ con theo. Khi Nadia cùng đi nghỉ với
Staline thì hai ông bà thường mời họ hàng cùng đi. Trước khi
Staline đến nơi, nhơn viên của phủ chủ tịch, phối hợp cùng với
mật vụ và chánh quyền cơ sở, chuẩn bị đầy đủ mọi chuyện. Biệt
thự được dọn dẹp chu đáo, cũng như dành cho một cuộc tiếp tân
lớn, với đủ mọi thứ trái cây.
Trong khi đó, chánh phủ ở Mạc Tư Khoa vẫn phải điều hành công
việc bình thường. Những thắc mắc lớn, phải tham khảo ý kiến của
Staline. Nhưng thời đó chưa có điện thoại đường dài nên phải qua
đường thơ tín, mất nhiều thời gian.
Staline thích chữa bịnh bằng cách tắm nước khoáng nóng, một lối
trị bịnh được thực hiện hàng năm. Mặc dầu với tướng tá to lớn,
Staline vẫn có mặc cảm về phương diện thể chất, vì cánh tay thấp
khớp và vì chứng vẩy nến. Hơn nữa, vì bị sức khỏe bản thân ám
ảnh, ông cũng hay lo âu cho sức khỏe của bạn bè. Cấp lãnh đạo Xô
Viết tự coi như là những "người lao động có tinh thần trách
nhiệm" để phục vụ nhơn dân, nên việc bảo vệ sức khỏe của họ được
kể như là một công vụ. Điều này được coi như là một truyền thống
xô viết. Trước kia Lê Nin cũng thường săn sóc sức khỏe những
người quyền chức của ông.
Trong những năm đầu thập niên 1930, các ủy viên Bộ Chánh Trị của
Staline làm việc cật lực và bị nhiều sức ép nên sức khỏe của họ
bị suy yếu. Một phần vì bị chế độ xa hoàng lưu đày và qua thời
kỳ nội chiến nên dễ gặp khó khăn.
Trong khi các quan to Điện Cẩm Linh lo chuyện nghỉ ngơi và thăm
hỏi sức khỏe lẫn nhau thì tình hình đói kém của quần chúng nhơn
dân bành trướng đáng ngại. Vorochilov - ủy viên chiến tranh -
viết thơ đề nghị Staline nên đưa người đi thực tế tận địa phương
để nhận định tình hình. Ngày 24.9.1931, trong một bức thơ chấp
nhận đề nghị, Staline công nhận là "hợp lý. Chúng ta chưa ý thức
được tầm quan trọng của những cuộc thanh tra tại chỗ và chuyện
tiếp xúc trực tiếp tại hiện trường. Lẽ ra, chúng ta thành công
nhiều hơn nếu chịu khó đi đây đi đó nhiều hơn và tiếp xúc với
quần chúng nhơn dân. Tôi đâu có muốn đi nghỉ ngơi như vầy...
nhưng vì tôi mệt quá."
Giữa cơn khủng hoảng trầm trọng, trong khi nông dân phải ăn cả
thịt chó, thịt ngựa, khoai hư thúi, vỏ cây, bất cứ thứ gì có thể
nhá và dồn đầy bụng được, thì ngày 21.12.1931, Staline ra lịnh
tổ chức lễ mừng sinh nhựt của cá nhơn ông ở Zoubalovo. Như vậy
là ăn uống thỏa thích, ca hát tưng bừng, nhảy nhót quên thôi.
Bầu không khí của giai cấp thống trị ở thủ đô vui nhộn sống
động. Ở nông thôn, chính chế độ dường như có chiều hướng bị chao
đảo.
Mùa hè năm 1932, khi Fred Beal, một nhơn vật tả khuynh Huê Kỳ
đến quan sát một ngôi làng gần Kharkov, lúc bấy giờ là thủ phủ
của Ukraine, ông ta chỉ thấy toàn là những người chết, ngoại trừ
một bà điên điên khùng khùng! Trong những túp lều lụp xụp, mấy
con chuột cống được một lúc no nê, vì có quá nhiều xác chết,
không ai đem đi chôn.
Ngày 6.6.1932, Staline và Molotov tuyên bố sẽ không châm chước
bất cứ số lượng hoặc hạn kỳ giao lúa mì nào hết. Những gì đã quy
định là phải tuân hành. Ngày 17.6.32, Bộ Chánh Trị Ukraine yêu
cầu Trung Ương cứu trợ thực phẩm vì địa phương đang lâm vào
"tình trạng khẩn cấp". Staline quy trách nhiệm cho lãnh đạo địa
phương và đổ lỗi cho hành động phá hoại của địch. Điện Cẩm Linh
cho rằng nạn đói ăn là một hành động thù nghịch nhắm vào Trung
Ương Đảng, do đó nhắm thẳng Staline.
Một viên chức đã bạo gan báo cáo tình hình khẩn cấp của Ukraine
cho Bộ Chánh Trị thì Staline chận ngay:"Này đồng chí, được biết
đồng chí là một diễn giả tài ba, nhưng hiển nhiên đồng chí cũng
là một người kể chuyện giỏi. Bịa ra được một chuyện thần thoại
về đói ăn, kể cũng tài! Đồng chí muốn làm cho chúng tôi sợ,
nhưng vô ích. Đồng chí nên từ chức thư ký Trung Ương Đảng
Ukraine để gia nhập Hội Nhà Văn thì hơn. Rồi đồng chí có thể
sáng tác những truyện hoang đường cho những thằng ngu xuẩn đọc."
Khi được Mikoïan - Ủy Viên Công Nghiệp Nông Phẩm - tiếp, một
nhơn vật của Ukraine hỏi: "Vậy chớ đồng chí Staline hoặc một
thành viên nào đó trong Bộ Chánh Trị có biết chuyện gì đã xảy ra
ở Ukraine không? Nếu không thì chúng tôi xin góp ý: một chuyến
xe lửa chở đầy xác chết, những người chết vì đói ăn, vừa tới
Kiev, sau khi đã lượm lặt xác người dọc theo lộ trình từ
Poltava."
Cấp lãnh đạo biết
rõ những gì đã xảy ra vì thơ từ trao đổi giữa họ với nhau tiết
lộ là từ cửa sổ xe lửa, họ đã trông thấy những cảnh tượng khủng
khiếp: "Nhìn qua cửa sổ xe lửa, tôi thấy những người kiệt sức,
áo quần tả tơi, ngựa chỉ còn da bọc xương..." Bọn nịnh thần kề
cận Staline bàn ra, tán vào "những tên bịp bợm chánh trị đòi hỏi
phải đóng góp cho Ukraine chết đói. Chỉ có giai cấp thoái hóa và
đang suy biến mới có thể đưa ra những sáng kiến vô liêm sỉ như
vậy." Thế nhưng, ngày 18.6.1932, Staline cũng phải công nhận
"điều phi lý hiển nhiên của vụ đói kém" ở Ukraine.
Con số người chết, hậu quả của nạn đói "phi lý" kia, là do chỗ
người ta muốn kiếm tiền để xây dựng xưởng luyện kim và để mua
máy kéo. Con số đó đã lên đến một kết quả khủng khiếp là từ bốn
đến năm triệu sanh linh, nhưng cũng có thể lên đến khoảng mười
triệu. Một thảm trạng chưa có nơi nào hơn được trong lịch sử
nhơn loại, ngoại trừ thành tích của hai tên đồ tể "kiệt xuất",
Đức Quốc Xã và Mao Trạch Đông. Nông dân lúc nào cũng là kẻ thù
của bôn-sê-vít. Chính Lê Nin cũng đã nói: "Những người nông dân
phải nếm mùi đau khổ của nạn đói."
Những nhơn vật tiếng tăm như Kopelev, khi thấy người ta chết quá
nhiều vì đói ăn phải than rằng "chỉ vì mục đích biện minh cho
phương tiện", và bà Nadejda Mandelstam thì trách "họ không chịu
nhận trách nhiệm về những gì xảy ra sau đó".
Nhưng vì sao họ lại làm như vậy cho được chớ? Dẫu thế nào đi nữa
thì chính họ, những con người của những năm 1920, đã hủy diệt
những giá trị xưa cũ và bày ra những công thức... để biện minh
cho những phát minh vô tiền khoáng hậu, với lý luận là "không
đập trứng thì làm sao có trứng chiên". Mỗi cuộc tàn sát mới được
biện minh là để tạo dựng ra một thế giới lỗi lạc "mới". Những vụ
tàn sát và nạn đói kém làm cho Đảng xao xuyến, nhưng Đảng viên
cũng bắt đầu xầm xì là làm thế nào mà họ có thể chấp nhận chuyện
người ta chết nhiều dữ vậy?!
Lê Nin có nói: "Một cuộc cách mạng không có những đội hành quyết
là không nghĩa lý gì hết." Buổi sanh thời, Lê Nin hết lòng ca
ngợi những biến cố khủng khiếp của cách mạng Pháp, bởi vì chủ
nghĩa bôn-sê-vít do Lê Nin chủ xướng là một quan niệm chánh trị
có một không hai, là "một hệ thống xã hội xây dựng trên sự đổ
máu". Nếu như những người bôn-sê-vít là những kẻ vô thần thì họ
không phải là những nhà chánh trị "thế tục" theo nghĩa thông
thường vì họ tự hạ mình xuống để giết chóc, dựa vào ưu thế đạo
đức cao siêu của mình. Chủ nghĩa bôn-sê-vít có thể không phải là
một tôn giáo, nhưng cũng gần giống như vậy. Staline giải thích
cho Beria rằng bôn-sê-vít là "một loại hình thuộc dạng vừa quân
sự vừa tôn giáo".
Những người tận tâm, tận tình với ý hướng của Staline gần như là
những con người cuồng tín, sẵn sàng liều chết và quyết tâm giết
hại với ý nghĩ là sẽ làm cho nhơn loại tiến bộ. Chẳng khác nào
những tên cảm tử quân liều mạng sống đánh bom phá hoại thời nay.
Vì tin tưởng rằng mình có niềm tin trong sáng cho nên Đảng cho
rằng có quyền độc tài. "Thánh Kinh" của Đảng là những lời giảng
dạy của chủ nghĩa Mác-Lê, được coi như là chân lý có "tính khoa
học". Họ bị tiêm nhiễm đến đổi trong những bức thơ tình giữa
những cặp trai gái có liên quan đến chánh trị, người ta cũng nói
đến chuyện Mác-Lê!
Tinh thần Đảng gần như là một ý niệm huyền bí. Điều kiện tiên
quyết cần thiết là phải có một kỷ luật sắt và phải triệt để tôn
trọng những nghi thức trong sinh hoạt Đảng. Theo một nhơn vật
cộng sản lão thành thì một người bôn-sê-vít không phải chỉ là
một người tin tưởng chủ nghĩa Mác mà còn là một người tin tưởng
tuyệt đối ở Đảng, bất chấp mọi thứ khác..., một con người có khả
năng dung hòa đạo đức và lương tri để có thể chấp nhận một cách
trọn vẹn, như một giáo điều, là Đảng chẳng bao giờ sai lầm - dẫu
cho Đảng sai lầm hoài. Staline có nói "những người bôn-sê-vít
chúng ta thuộc một giống người đặc biệt" cũng chẳng phải là quá
đáng.
Vậy mà Nadia không thuộc "giống người đặc biệt", dẫu cho bà là
vợ của Staline. Nạn đói ăn đã làm cho cặp vợ chồng ở cấp cao
nhứt của Liên Xô phải hục hặc nhau. Qua cửa sổ trên xe lửa đi
Karkov, cô bé Kira Allilouïeva, cháu của Redens, anh rể Nadia,
thủ trưởng mật vụ Guépéou ở Karkov, bất ngờ trông thấy những
người đói ăn, bụng phình to đi xin thực phẩm và mấy con chó ốm
tong teo chạy dọc theo đường rầy. Kira về nhà kể lại cho bà mẹ
nghe. Bà này mạnh dạn thuật lại cho Staline để được phán một câu
"Hơi sức nào mà để ý. Trẻ con bịa chuyện đó thôi." Chuyện đói
kém ở nông hôn gây nên cảnh bất đồng ý kiến trong gia đình
Staline.
Khi nghĩ đến vùng thảo nguyên rộng lớn của Ukraine có cơ vuột
khỏi tầm tay kiểm soát của Điện Cẩm Linh, Staline điên tiết lên.
Các quan chức chánh phủ lại ngược xuôi nông thôn để thu thập ngũ
cốc, đồng thời cũng đưa quân mật vụ OGPU và công nhơn viên chúc
của Đảng, có mang súng ống, tăng thêm những cuộc bố ráp võ trang
dã man. Trong chiến dịch này, qua một lần đi kinh lý Oural, xe
của Molotov bị mắc lầy, lật nhào xuống hố. Không ai bị thương,
vậy mà Molotov cũng tự cho là "nạn nhơn của một vụ mưu sát"!
Staline cảm thấy
cấp chỉ huy địa phương không được tích cực cho lắm nên nghĩ đến
việc tìm người thay thế, một người mới, cứng rắn hơn. Muốn loại
bỏ những cấp chỉ huy trước, mà Staline cho là có óc bè phái, gây
bè, kết cánh để ăn nhậu, hưởng lợi. Staline bổ nhiệm Béria vào
chức vụ hàng đầu ở Caucase, một con người mà Staline cho là
"chịu khó giải quyết vấn đề, trong khi Bộ Chánh Trị chỉ biết cạo
giấy". Ý định của Staline bị giới hữu quyền cơ sở phản đối,
Staline chỉ bổ nhiệm Beria là đệ nhứt bí thư Géorgie và đệ nhị
bí thư Đảng của Liên Bang Caucase.
Tình hình nông thôn ngày một tồi tệ mà cấp lãnh đạo cứ nghĩ đến
chuyện đi nghỉ ngơi. Staline vẫn tiếp tục cai trị một đất nước,
đang có nguy cơ nổi loạn, chỉ bằng thơ từ. Qua một lần tiết lộ
với Winston Churchill, thủ tướng Anh quốc, Staline nói rằng đó
là thời kỳ khó khăn nhứt trong đời, còn khủng khiếp hơn bị
Hitler xâm chiếm. Đó là một thời chiến đấu kinh khủng, qua đó
Staline phải sát hại hàng chục triệu sanh linh. Thật dễ sợ và
phải kéo dài trong bốn năm.
Lẽ đương nhiên là nông dân phải tìm cách tấn công viên chức nhà
nước. Staline bực mình vì thấy kỷ luật đã lỏng lẻo và có những
trường hợp phản bội bên trong Đảng. Ngày 14.7, Staline ra lịnh
cho Molotov ban hành một đạo luật thật nghiêm nhặt để kết tội tử
hình những nông dân nào đói ăn mà ăn cắp, dù chỉ ăn cắp vỏ trấu.
Bầu không khí căng thẳng, do tình hình khủng hoảng thóc lúa của
nông thôn gây ra, làm cho Nadia không chịu được nên bà bỏ về Mạc
Tư Khoa, với lý do là để tiếp tục học hành. Ngoài ra, bà còn bị
chứng đau đầu và đau trong bụng hành hạ. Staline có cảm tưởng là
thái độ của ông có nguy cơ bị Bộ Chánh Trị chống đối nên ngày
27.8, ông trở về Điện Cẩm Linh, chánh thức là để giải quyết tình
hình chánh trị nhưng cũng để theo dõi tình hình sức khỏe của
Nadia. Sức khỏe mong manh và nhiều vấn đề của Nadia cũng làm cho
con người sắt đá như Staline phải nao núng. Không phải vì Nadia
bị tình hình chánh trị tác động mà còn do hậu quả của lần hư
thai năm 1926.
(Còn
tiếp)
Cố Nhân
(Nguồn:
1.- Le paradis et l'enfer: le Politbureau à la plage;
2.- Des trains bondés de cadavres: amour, mort et hystérie.
Trong quyển "Staline, la cour du tsar rouge", S.S.
Montefiore, nxb. Editions des Syrtes, 2005.)
|