Nhận
diện truyện ngắn
"Vàng lửa" qua yếu tố văn hóa
Được công bố lần đầu vào ngày 30
tháng 4 năm 1988 trên tuần báo Văn nghệ, Vàng lửa đặt
ra một vấn đề khá nhạy cảm đối với người đọc trong việc đánh giá
lịch sử và văn hóa dân tộc mà từ lâu, bởi nhiều lý do khác nhau,
chúng ta nhận diện chưa đúng bản chất của nó.
Thực ra, Vàng lửa là truyện ngắn mang tính luận đề , khô
khan, thậm chí chẳng khác gì một bài biên khảo nhưng đọc lại vô cùng
hấp dẫn bởi phần nội hàm phong phú với nhiều nhận định sắc sảo về
cách thẩm định lại một số giá trị vẫn được xem là dĩ thành bất biến.
Viết truyện ngắn này, tác giả tỏ ra khá kín võ khi anh sáng tạo ra
nhân vật Phăng, một gã thực dân phương Tây vượt biển sang Đông
Dương tìm vàng, nhận xét về nền văn hóa Việt. Điều này tương đối dễ
hiểu bởi tâm lý vọng ngoại của không ít công dân vong bản. Chả thế
mà, vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước, có nhà văn thuộc thành
phần thứ ba của Mặt trận dân tộc GPMNVN lấy tên là Patzi, viết về
một đề tài liên quan đến vấn đề dân tộc, tuy chẳng lấy gì làm xuất
sắc nhưng đã gây cho dư luận thế giới, nhất là các phong trào cánh
tả, xôn xao một thời. Vàng lửa, qua cái nhìn của Phăng, phác
họa rất rõ nét hai gương mặt tiêu biểu của Việt
Nam
thời cận đại. Có một mẫu số chung là, cả hai nhân vật lớn này đều
chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa Trung Hoa. Đó là một nền văn
hóa vĩ đại, có hấp lực cực kỳ lớn nhưng bảo thủ, trì trệ như một
nhà nghiên cứu phương Tây từng nhận xét "đến sớm, ở lâu nhưng đi
muộn".
Về mặt chính trị, Nguyễn Ánh, một nhân vật lịch sử sáng chói của nửa
cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, người đã lập ra vương triều
phong kiến kéo dài 143 năm, đã lạnh lùng tuyên bố với cố vấn Phăng
khi ông ta hỏi nhà vua về các nhà tư tưởng phương Đông: " Tất cả
do cay cú đời sống. Họ là quá khứ. Thời khắc đang sống mới là đáng
kể". Chi tiết thú vị này làm người đọc liên tưởng ngay đến câu
tục ngữ dân gian "được làm vua thua làm giặc" mà nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp đã cụ thể hóa trong truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ
viết sau đó ít lâu :" Những cột trụ nhà nước như bọn Lê Ngân, Lê
Sát, Lê Văn Linh, Lê Hy... đều là những chính khách xuất thân giang
hồ, trị nước bằng mưu mẹo chứ không xuất phát từ đạo và luật".
Chính vì tổ chức nhà nước không được xây dựng trên một hệ tư tưởng
tiến bộ mà lại hình thành từ những thủ đoạn chính trị bảo thủ, lạc
hậu, nên "Cung đình giống như nơi tụ họp các anh hùng lục lâm,
chỗ nhóm lửa, chỗ thổi cơm, chỗ múa giáo, chế được đặt ra do vui
chuyện mà định. Trên các chân dung chính khách chỉ nhìn thấy các cơ
mặt bất động hoàn toàn, biểu thị tinh thần chính trị tù đọng tột
cùng. Số trẻ trung hơn, dễ thấy trên gương mặt chối bỏ thẳng thừng
học vấn, chỉ chờ đón tiếp nhận cảm giác lạc thú".
Khác với phần lớn những thủ lĩnh mở đầu các vương triều phong kiến
Việt Nam suốt hơn ngàn năm lịch sử đều xuất thân từ thành phần bình
dân, Gia Long có nguồn gốc quý tộc cao cấp của một dòng chúa nổi
tiếng từ thế kỷ XVI, nhưng ông cũng không tiến bộ hơn bao nhiêu so
với những hoàng đế tiền nhiệm. Đó là thói kiêu ngạo của một kẻ
ếch ngồi đáy giếng, độc tài, chuyên chế, tự cho mình độc quyền chân
lý và ưa nịnh hót. Điều này giải thích vì sao ông không cần tư
tưởng (hoặc sử dụng một thứ ngụy tư tưởng) nhưng lại rất giàu thủ
đoạn chính trị ngắn hạn để thao túng cộng đồng dân tộc chịu ảnh
hưởng sâu sắc của thứ văn hóa Khổng giáo phương Bắc, kìm hãm nhân
tài, làm thui chột mọi khả năng sáng tạo . Thói quen bắt chước một
cách lố bịch thật sự đã vượt rất xa giới hạn của sự giao thoa văn
hóa thông thường, nhưng ở quy mô khiêm tốn hơn nhiều so với nước
láng giềng. Bắc Kinh có điện Thái Hòa thì Thăng Long, Huế cũng có
điện Thái Hòa. Trung Quốc có cửu đỉnh tượng trưng cho cửu
châu từ thời nhà
Chu thì triều đình Đại
Nam
cũng có cửu đỉnh những chẳng tượng trưng cho cái gì rõ rệt mà
chỉ để vẽ phong cảnh. Nhà Đại Thanh có niên hiệu Càn Long thì nhà
Nguyễn có niên hiệu Gia Long v.v...
Gia Long là biểu tượng tập trung nhất của hệ ý thức phong kiến tập
quyền phái sinh từ Hoa Hạ. Ông chính là thứ sản phẩm văn hóa bắt
chước một cách mù quáng tạo nên một thiết chế xã hội đầy
khuyết tật đẩy dân tộc đến những thảm họa xét ra có thể tránh được
nếu những người kế tục ngai vàng sau ông có tầm nhìn của hoàng đế
Minh Trị Nhật Bản từ những năm ba mươi của thế kỷ XIX. Chân dung
chính trị của vị Cao hoàng đế triều Nguyễn được Phăng thuật lại xem
ra khá là khách quan :" Nhà vua là một khối cô đơn khổng lồ. Ông
đóng trò rất giỏi trong triều đình. Ông đi, đứng, ra, vào, ra các
mệnh lệnh, chấp nhận sự tung hô của bọ quần thần. Ông là người cha
nghiêm khắc của lũ con ích kỷ, đần độn. Là người chồng đáng kính của
các bà vợ tầm thường...Ông biết rõ ông đã già, với bọn cung tần mỹ
nữ trẻ đẹp ông bất lực. Ông biết rỗ cái triều đình thiển cận do ông
dựng lên, biết rõ quốc gia mình nghèo đói. Ông luôn lo sợ bởi quyền
lực nằm trong tay, nó lớn ngoài sức chứa của một con người..."
Trên cơ sở một nền chính trị tàn bạo , Gia Long, ngoài việc có công
lớn trong quá trình mở mang bờ cõi và thống nhất đất nước sau nhiều
thế kỷ dân tộc phân ly dẫn đến cảnh huynh đệ tương tàn, ông và các
hậu duệ của ông cũng để lại cho con cháu những thói quen văn hóa tai
hại. Nó lặn sâu vào tâm thức dân tộc làm mỗi chúng ta ngộ nhận, tự
thỏa mãn với những giá trị kém bền vững, thậm chí giá trị ảo, huyễn
hoặc bản thân mà không dám nhìn thẳng vào thói hư tật xấu , tự soi
gương để xem mình là ai, thuộc thứ hạng nào trong mối tương quan với
cộng đồng nhân loại.
Vua Gia Long là vị hoàng đế tàn nhẫn đem cả dân tộc mình ra đặt cược
vào canh bạc chính trị đầy máu và nước mắt. Cái sự vĩ đại ở ông vua
được xem là một trong số không nhiều bậc anh hùng nước Nam là hiểu
rất rõ thần dân nghèo đói của mình phải "hoạt động cù lần" để
sống mòn mỏi, nhưng, hoặc là bất lực, hoặc là cố tình duy trì tình
trạng trì trệ như vậy để bảo toàn chiếc ngai vàng quyền lực . Dân
càng ngu càng dễ cai trị. Ở đây, lòng yêu nước chỉ là một thứ khái
niệm giả tạo được đưa đẩy trên đầu lưỡi lũ lưu manh chính trị. Tính
phổ quát của hiện tượng văn hóa phương Đông là nỗi sợ hãi truyền
kiếp của tầng lớp thứ dân trước nền chính trị độc tài luôn được duy
trì bằng bạo lực trong tình trạng nghèo đói triền miên. Đấy
chính là điều kiện tất yếu để con người tự thủ tiêu tinh thần dân
chủ vốn chưa bao giờ có trong ý tức cộng đồng, làm cho những giá trị
tốt đẹp của văn hóa dân tộc mỗi ngày một mất dần, chỉ còn lại những
thứ gần như cặn bã, như phân chia đẳng cấp, học vẹt để ra làm quan
đè đầu cưỡi cổ thiên hạ, đấu đá tranh giành quyền lực, thói đố kỵ,
tầm nhìn thiển cận và bè phái,v.v... Lời phán của vua Gia Long với
Phăng :" Khanh chẳng hiểu gì cả, vinh quang nào chẳng xây trên
điếm nhục" phần nào đã chứng minh cho luận điểm trên.
Nhân vật thứ hai được kể đến là Nguyên Du. Theo Phăng, Nguyễn Du
cũng là vật quốc bảo nhưng nhẹ đồng cân hơn so với vua Gia Long.
Người Tây phương có nhãn quan của một nhà bình luận chính trị này
coi tác giả Đoạn trường tân thanh là sản phẩm cưỡng dâm của
nền văn minh Trung Hoa nên con người ông chứa đầy điển tích :"
Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy
điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du
ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn
ngoài đời sống ấy. Người mẹ của Nguyễn Du ( tức nền chính trị đương
thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả,
kiềm chế. Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa".
Đây là nhận xét khá chối tai, xúc phạm đến lòng tự ái dân tộc,
nhưng, trớ trêu thay, lại không phải không có lý. Chúng ta hãy bắt
đầu từ tác phẩm Truyện Kiều . Tuy được xem là thi hào lớn của
dân tộc, là nhà nghệ sỹ sáng tạo ngôn ngữ tuyệt vời nhưng công bằng
mà nói Đoạn trường tân thanh vẫn là tác phẩm vay mượn của nền
văn học Trung Quốc ít ra là ở phần cốt truyện. Gần như mỗi câu trong
Truyện Kiều đều có vài ba điển cố, đến nỗi học giả Đào Duy
Anh phải viết cả một quyển Từ điển Truyện Kiều mấy trăm trang
để giải thích những điển tích, những thành ngữ cho phần lớn độc giả
nội địa vốn rất mơ hồ về Hán học . Tâm lý sùng bái văn hóa
Bắc Quốc đã làm cho nhà nghệ sỹ tài hoa của chúng ta chuyển dịch gần
như toàn bộ truyện Vương Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, kể
cả những phần hạn chế về kết cấu cũng như thuyết "Tài mệnh tương
đố" sang thể lục bát mà không có sáng tạo gì đáng kể về mặt tư
tưởng.
Phăng phân biệt rất rõ về đẳng cấp giữa Gia Long và Nguyễn Du vì Gia
Long " khủng khiếp ở khả năng dám bỡn cợt với tạo hóa, dám mang
cả dân tộc mình ra lường gạt, phục vụ cho chính bản thân mình. Ông
làm cho lịch sử sinh động hẳn lên..." Trong Khi Gia Long đứng
trên cộng đồng thì Nguyễn Du lại hòa mình vào cộng đồng . Gia Long
không tin học vấn có thể cải tạo giống nòi thì Nguyễn Du Viết Văn
tế thập loại chúng sinh, nhỏ lệ trước nỗi đau của nàng
Kiều bằng câu thơ cảm thán : "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng
bạc mệnh cũng là lời chung". Gia Long thích trò chơi quyền lực,
dám hy sinh cả một bộ phận dân tộc trong những cuộc chinh phạt đẫm
máu để tranh đoạt thiên hạ, trong khi ấy Nguyễn Du lại xót thương
cho từng thân phận đơn lẻ như Thúy Kiều, người kỹ nữ gảy đàn ở Thăng
Long thành hay mẹ con người hành khất ông gặp trên đường đi sứ...
Xét về mối tương quan, theo Phăng, lòng tốt của Nguyễn chỉ là thứ
lòng tốt nhỏ, không cứu được ai, vì ngay bản thân ông cũng phải lưu
lạc mười năm trời đói khát, bệnh tật nơi đất khách. Nhưng điều ấy
không quan trọng lắm nếu so với cách Gia Long, tức nhà cầm quyền
đương thời, đối xử với văn nghệ sỹ theo phương thức chăn nuôi gia
súc: "Ông không coi Nguyễn Du ra gì, hoặc có thể ông coi Nguyễn
Du là một con ngựa giống tốt trong cả đàn ngựa, lợn, bò, gà mà ông
chăn dắt". Qua nhận xét của Phăng, ta có thể thấy, những bậc
quan chủ như Gia Long, không bao giờ thực sự coi trọng trí thức,
nhất là trí thức văn nghệ sỹ, mà chỉ xem họ như một thứ cây cảnh,
con cảnh, thỉnh thoảng ban phát cho chút bổng lộc để họ lặp đi lặp
lại lời xưng tụng thứ công đức trừu tượng của chính nhà độc tài như
một con vẹt. Văn hóa, tự cổ chí kim bao giờ cũng là động lực chính
thúc đẩy xã hội phát triển. Nhưng đó phải là một nền văn hóa lành
mạnh được tích hợp và kế thừa từ sự nỗ lực không mệt mỏi của những
bộ óc thông minh qua nhiều thế hệ, chứ không phải là sự bắt chước
một cách máy móc rồi "Việt hóa" nó thành một bản sao nhợt nhạt.
Chúng ta đã có quá đủ bài học đau đớn từ sự bắt chước thiển cận, nên
suốt cả chiều dài lịch sử mấy nghìn năm vắng bóng một thứ văn tự ra
hồn , nếu không có các nhà truyền đạo Cơ Đốc đem mẫu tự Latin ghi âm
tiếng Việt, mà tiêu biểu là đức cha Alexandre de Rhodes, tạo thành
chữ Quốc ngữ vô cùng tiện lợi, thì chẳng biết bây giờ tình cảnh đất
nước ra sao.
Sự kiện không bình thường của nền văn hóa Việt được Phăng dùng hình
ảnh như là bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp, sau này được nữ nhà
văn Đỗ Hoàng Diệu viết rất thành công trong truyện ngắn Bóng đè.
Cái nền văn hóa đầy những khuyết tật ấy sống dai đến mức, sang những
năm đầu của thế kỷ XXI, vào những ngày giỗ, bóng ma vẫn hiện về
cưỡng dâm đứa cháu dâu. Điều đáng ngạc nhiên nữa là, trong những
cuộc làm tình quái dị theo kiểu Liêu Trai trước bàn thờ tổ tiên ấy,
cô cháu dâu lại tỏ ra thỏa mãn, thậm chí cứ sắp đến một ngày giỗ nào
đó, lại hối thúc chồng về quê. Chi tiết này liệu có gợi cho ta liên
tưởng đến đặc tính di truyền?
Đọc Vàng lửa, ta dễ bị đánh lừa bởi những sự kiện giàu kịch
tính về chuyện đào đãi vàng của nhóm người ngoại quốc cũng như ba
đoạn kết khá độc đáo với những cái chết bí ẩn của họ mà quên đi vấn
đề chính tác giả đặt ra là cần phải xem lại cả một nền văn hóa.
Vàng lửa chẳng những đã giải thiêng thần tượng, xét lại lịch sử
mà còn chỉ ra nguyên nhân của đời sống trì trệ cùng những bất cập
của xã hội phương Đông bị ràng buộc bởi hệ ý thức bảo thủ, lạc hậu
kéo dài nhiều thiên niên kỷ. Vấn đề là, liệu chúng ta có thắng được
chính mình trên bước đường đi tới tương lai?
Năm Đinh Hợi, tháng trọng thu, ngày lành
ĐVS
|