Mây...
Không định tọa thiền mà tôi vẫn ngồi trong thế kiết già; không
quán công án nào mà tôi cứ mãi nhìn mây. Một mình giữa vườn bưởi,
tôi lặng lẽ ngước nhìn mây trắng, mây xanh, mây hồng … Nhìn, và rồi
chỉ là mây thôi; trắng, xanh hay hồng sẽ thay mầu, nhưng mây thì vẫn
lãng đãng bay. Nhìn, rồi không còn xanh hay hồng nữa, chỉ trắng
thôi. Cả vạn hữu chỉ còn bao la mây trắng … Con-Mắt-Tâm nhìn cái
bao-la-trắng đó, lặng im và nhìn mãi, nhìn mãi, tới đâu thì “Cảm
ứng đạo giao nan tư nghì”?
Một cánh chim bay ngang, để rơi lại âm thanh hững hờ. Có thế
thôi mà cũng đủ khiến người nhìn mây lại thấy mây có trắng, xanh,
hồng; người và mây lại là hai thực thể, có người nhìn và vật bị
nhìn!
Vươn vai, rồi mở nhẹ khóa chân, tôi thở mạnh và buông lơi,
soải dài toàn thân trên nền đất ẩm. Vô hình chung, mặt đối diện trời
và lại thấy mây!
Bây giờ thì mặc! Mây là mây, ta là ta, hay mây với ta là một
cũng mặc! Chỉ cần khởi từ ý nghĩ muốn đạt tới “là một” sẽ
chẳng bao giờ là một được rồi! vì còn muốn là còn đối đãi, còn ta,
còn người, còn vật.
Thử quên thiền đi, có được không? Hãy chỉ thanh thản ngắm mây,
như người lữ khách dừng bên sông, lơ đãng nhìn giòng nước chảy xuôi
mà không băn khoăn đâu là đầu ghềnh, đâu là cuối bãi.
Bây giờ, trước mắt là mây, chỉ mây thôi, không gì nữa cả. Mây xứ
người hay mây quê hương? Mây nhẹ hay ta nhẹ mà ta như cũng bay cùng
mây? Với mây, ta đang ở đâu mà nghe thấy âm thanh của đoàn tầu nặng
nề lăn trên đường sắt. Đoàn tầu cũ quá, và đường sắt còn cũ hơn
khiến bánh sắt siết trên đường, quằn quại hơn tiếng khóc:
“Ta sẽ rủ gió lùa trên tóc rối
Giọng ân tình năn nỉ bước đi mau
Còi rộn rã bởi hoang đường đã đổi
Bởi phiêu lưu ngày tháng vẫn con tầu”
Nhưng con tầu không có lựa chọn. Nó phải lăn bánh dù đã quá
già nua. Khi thân tầu rung rinh, lắc lư, nó rung rinh và lắc lư tất
cả khối người đông đảo, xô đẩy nhau trong lòng nó. Có người cằn
nhằn, có người lặng thinh chịu đựng, có người chợt chắp tay, cúi đầu
khi làn sóng xô người ấy lủi vào một thân người ốm yếu ngồi cuối
toa. Người ấy vội vã chắp tay, cúi đầu, có lẽ vì thấy tấm áo nâu bạc
phếch của người vừa bị xô. Tấm áo đó có đủ xác định người đang khoác
nó là một thầy tu hay không, có lẽ chỉ người chắp tay cúi đầu và
người nhận cái chắp tay cúi đầu là đồng cảm được thôi.
Giòng cuồng lưu hung hãn, dập vùi xoáy hút những viên sỏi lăn
trôi theo nhau, vẫn có những hạt cát biết mình đang chứa cả đại
dương.
Con tầu từ miền Bắc, đang xuôi Nam. Tầu men dẫy Trường Sơn mà
lăn. Gập ghềnh quá, cheo leo quá nhưng nó vẫn kiên nhẫn lăn bánh.
Ông thầy tu ngồi yên lặng, nhiếp tâm, toàn thân ốm yếu toát ra sự
khắc khổ, cô đơn tột cùng:
“Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về”
Đây là toa tầu hạng ba, toa rẻ tiền nhất dành cho người cùng
khổ, buôn gánh bán bưng, hàng hóa, thúng mẹt ngổn ngang với người
trong không khí ẩm mốc, tối tăm. Vậy mà, ở góc cuối toa đó phảng
phất làn ánh sáng dị ảo, như ánh sáng từ một đốm nhang trầm, ấm và
thơm. Nhang đâu mà đốt nơi khổ nhục nhớp nhúa này ?
Nhìn kỹ …. và nhìn kỹ hơn thì không thấy cây nhang nào. Làn
hương lặng thầm, kín đáo đó hình như tỏa ra nơi ông thầy tu ốm yếu
mà từ lúc bước lên tầu vẫn an nhiên khép hờ đôi mắt, nhiếp tâm,
quyện thành ngũ-phần-hương lan nhẹ khắp lòng toa:
“Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời”
Ông như không quan tâm gì, ngay cả những lúc tầu dừng ở mỗi
sân ga. Hình như ông có đến mà không đi, hay có đi mà
chẳng đến. Nơi đến hay chốn đi cũng như nhau thôi khi ông đã
từng thấy rồi; thấy ngôi nhà mà chúng sanh miệt mài khổ nhọc kiếm
tìm.
Chắc phải thế ông mới an nhiên tự tại như vậy được.
Nếu ông đã thấy ngôi nhà Phật thì ông với Phật không hai, dù
nơi thênh thang hay tận cùng tuyệt lộ:
“Nhất triêu cước lạc huyền nhai hạ
Thỉ bả chân không đối tịch hồng”
“Sẩy chân rơi xuống vực sâu
Lấy Chân Không đối đêm thâu rực hồng”
Một vài người nghèo khổ ngồi gần, kín đáo nhìn ông, kín đáo
chắp tay khi thỉnh thoảng ông hé mắt nhìn ra khung cửa toa tầu. Ông
nhìn ra, chẳng vì chờ nơi đến mà chỉ muốn nhìn núi rừng. Thấy bóng
núi cao đó, thấy cây xanh rừng kia, ông có thể đoán biết tầu vừa qua
Nghệ An nơi có chùa Phổ Nghiêm, qua núi Dục Thúy nơi có chùa Sơn
Thủy, qua Thừa Thiên, nơi có chùa Bảo Quốc, qua Huế, nơi Từ Đàm Từ
Hiếu còn đứng đó với sương rêu ….
Lòng ông chợt rung động. Hình như ông vừa bước ra khỏi thế
giới của mình. Ông nhìn những người dân lam lũ xung quanh, nhìn
những món hàng nhỏ nhoi dăm ký đường, dăm bó củi, rổ trái cây ….
nhưng là gia tài của những người đang bương trải lượm từng hạt cơm
về cho gia đình. Cả một dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn hiến, phút
chốc, bỗng chỉ còn một thôi thúc duy nhất là tìm kiếm thức ăn!
Như trong mơ, ông thầy tu chợt ý thức rằng ông đang đi về chùa.
“Chùa”, một tiếng thân thương ấy đã từ mười lăm năm nay ông nhớ
tưởng. Chùa. Ông sẽ về nơi ấy. Chùa. Dù bất cứ ngôi chùa đó ở đâu.
Ông đang đi về chùa, không phải là về lại ngục tối sau những lần bị
thẩm cung, tra tấn. Ý nghĩ “Về chùa” làm ông nôn nao và dạ dày quặn
thắt. Thì ra, ông đã tuyệt thực mười ngày rồi. Ông tuyệt thực vì
trước khi thả ông do áp lực Quốc Tế, kẻ cầm quyền đã bắt ông ký giấy
xin khoan hồng rồi mới thả. Mang trong lồng ngực một trái tim
chỉ biết đập nhịp Bi Trí Dũng nên ông đã lạnh lùng từ chối “xin tha”
điều mình “chưa từng phạm”. Và để tỏ quyết tâm, ông thầy tu đã tuyệt
thực, lặng lẽ tuyệt thực, chỉ ông biết và kẻ giam cầm ông biết mà
thôi, đằng trước không tuyên cáo, tuyên bố; đằng sau không yểm trợ,
ủy lạo gì cả. Ông im lặng trở về nhà giam, từ chối cơm tù. Thế thôi.
Nhưng hẳn là trong im-lặng-sấm-sét đó đã lóe lên lằn sáng xanh biếc
diệu kỳ của thanh gươm Bát Nhã, nên cánh cửa ngục phi luân đã phải
mở ra:
“Buổi vô thủy hồn tôi từ đáy mộ
Uống sương khuya tìm sinh lộ viễn trình
Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ
Tôi yêu ai, trời rực sáng bình minh?”
Từ ngục tối nơi heo hút sơn lam chướng khí miền Bắc, ông thầy
tu được đẩy lên toa tầu bẩn thỉu, xuôi Nam.
Mười lăm năm khổ sai, mười ngày tuyệt thực, ba mươi sáu tiếng
đồng hồ liên tục trên con tầu cũ kỹ gập ghềnh, ông thầy tu không còn
sức nữa. Ông dùng tàn lực đứng dậy khi con tầu chầm chậm ngừng ở một
sân ga. Không cần biết là ga nào, ông phải bước xuống thôi. Có người
nào đó đưa tay ra đỡ ông, dìu ông xuống hẳn mặt đường:
- Thưa thầy, thầy về đâu?
- Chùa.
- Thưa thầy, đây là tỉnh Nha Trang, có Phật-học-viện Hải Đức.
- Hải Đức! Hải Đức!
Ông thầy tu lập lại hai tiếng ấy cùng với âm thanh đại hồng
chung gióng lên từ ba ngàn thế giới. Nương theo âm thanh đó, ông
bước đi như mơ, cứ thế mà bước, xiêu vẹo, ngả nghiêng, vấp ngã nhưng
vẫn bước. Trong tâm ông rộn rã câu chú:
“Gate.
Gate.
Paragate.
Parasamgate.
Bodhi.
Svaha.”.
Ông thầy tu quỵ xuống trước cổng tam quan, loáng thoáng nghe
tiếng nhiều bước chân lao xao chạy tới và mơ màng thấy một bóng áo
nâu từ trong chùa hối hả bước ra:
- Chuyện gì đó?
- Bạch Thầy, Ngài đã về. Ngài đã về.
- Ai về?
- Bạch thầy, Thượng Tọa Tuệ Sỹ. Thượng Tọa Tuệ Sỹ đã về. Ngài
đã về.
Phút chốc, cả không gian như cùng vang lên câu chú Bát Nhã:
“Gate. Gate.
Đã về. Đã tới ….”
Đó là ngày đầu tháng 9 năm 1998.
Diệu Trân
(*) Thơ trích từ thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn của Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ.
|