.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

 

 Diệu Trân



Sông núi thì thầm

 

      Một bài thơ dài, tựa đề rất ngắn: “Tĩnh thất” của thầy Tuệ Sỹ gồm 32 tiểu đoạn, 910 chữ sắp xếp trong 127 câu thơ đủ mọi thể loại, đọc mệt nghỉ (phải đọc chậm, khi mệt, nghỉ, mới nên đọc tiếp). Riêng tôi, không nhớ đã nghỉ mấy chặng khi “thăm” Tĩnh-thất của Thầy. Chỉ biết, khi cửa Tĩnh- thất khép lại sau bước chân qua, tôi nhận ra mình vẫn đang bị cuốn hút vào một câu, ở tiểu đoạn 4: “Gió ở đâu, mà sông núi thì thầm”.

 

      Tôi có những cảm xúc rất lẩn thẩn, chính tôi còn không biết từ đâu; chỉ có thể nói rằng những cảm xúc đó mãnh liệt lắm, sức bật của chúng đôi khi khiến tôi ngồi lặng hàng giờ, chỉ sợ nhúc nhích, chúng sẽ tan! Có lần, các bạn đạo lên án rằng, như thế là tôi sống trong mộng. Ô hay, cái gì là mộng, gì là thực khi chính cuộc đời tưởng thực đây, lại chỉ là cơn đại mộng!

 

      Câu thơ này, ẩn chứa gì mà đối với tôi như giòng nước xoáy? Tôi không lối ra, đành cùng với gió, qua đồng cỏ, qua rừng trăng, qua suối cạn, qua đồi cao … Khi gió ngừng thì núi đã hiện ra, hùng vĩ. Như trong mơ, tôi theo vách đá, men về Trường Sơn; và thấp thoáng, tôi thấy một bóng gầy khắc khổ, mong manh trong bộ áo nhật bình bốn vạt úa mầu gỗ mục.

 

      Thầy đứng im lặng trên đỉnh tuyết.

      Tôi dừng lại, thở một hơi thật dài. Gió Trường Sơn no đầy buồng phổi, tôi tự tin, theo vách đá mà bước, như con ong say mật lần theo hướng gió mong tìm tới bông hoa đang tỏa hương kỳ diệu.

      Đường lên Yên Tử có nao nức như vậy không, chỉ Thiền-sư Hương Vân biết được mà thôi, dẫu ngài có chia xẻ với nhân gian cũng chỉ là giới hạn vì mỗi chúng sinh đều có một góc riệng, rất riêng, riêng đến mức chính chúng sinh đó, nếu không tự nhìn mình sâu sắc cũng không nhận được! Như tôi đang không rõ tôi lần theo bước chân Thầy để tìm gì? Câu thơ đang dẫn tôi đi có là một phần lời đáp không? Có thể lắm, tôi muốn đảnh lễ Thầy để xin Thầy nói cho nghe, lời sông núi thì thầm. Chắc hẳn Thầy đã nghe được lời gọi thiêng liêng ấy.

 

      Men vách núi, giòng nhạc symphony quấn quýt chắp cánh cho tôi tìm dấu chân Thầy:

      “Cho tôi một hạt muối tiêu

      Bờ môi em nhạt nắng chiều lân la

      Tôi đi chấn chỉnh sơn hà

      Hồng rơi vách đá mù sa thị thành”

      Âm thanh dương cầm thánh thót lời tạ từ, quấn quýt giòng vĩ cầm mời gọi hối hả. Đi. “Tôi đi chấn chỉnh sơn hà” vì cờ hồng đã mù sa thị thành. Thầy khẳng định rõ ràng ngay như thế, không quanh co dấu diếm. Hành trang ư? Chỉ xin em một hạt muối tiêu. Hạt muối, vật tưởng quá tầm thường mà chính là sức sống. Muối tan trong nước sẽ không nhìn thấy muối nữa nhưng nước ấy, có giọt nào không mặn vị muối pha? Với tấm lòng tải đạo cứu đời, Thầy xuống núi:

      “Đến đi vó ngựa mơ hồ

      Dấu rêu còn đọng trên bờ mi xanh”

      Nghìn năm trước lên núi

      Nghìn năm sau xuống lầu

      Hạt cải tròn con mắt

      Dấu chân người ở đâu?”

      Giòng nhạc quyện vào lời thơ, từ nhịp ¾, chuyển sang 2/4 rồi bất ngờ trở lại ¾, không theo luật lệ gì cả, nhưng nhạc như đã ôm lấy thơ; tiếng harp rơi trên từng sợi tây-ban-cầm, rưng rưng niềm thương cảm “Dấu rêu còn đọng trên bờ mi xanh”. Tơ rung đó, thật nhẹ thôi, giòng vĩ cầm đã mời gọi:

      “Nghìn năm trước lên núi

      Nghìn năm sau xuống lầu”

      Bồ Tát hóa thân nên buồn nỗi buồn thế nhân, bước vào cõi ta-bà phiền não giăng tơ:

      “Ta không buồn

      Có ai buồn hơn nữa?

      Người không đi,

      Sông núi có buồn đi?

      Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa

      Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi”

      Bồ Tát nhiếp tâm. Tiếng sáo, hay ca-lăng-tần-già cùng tưới mưa cam lộ mát lạnh giòng suối ngợi ca Cánh-Cửa-Không hé mở:

      “Ta lên bờ,

      Nắng vỗ bờ róc rách

      Gió ở đâu mà sông núi thì thầm?

      Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát

      Ráng chiều xa, ai thấy mộ sương dầm?”

      Đây rồi! Sáo và O’boe, hai âm thanh cao và trầm quyện vào nhau bật lên hình ảnh động mà tĩnh, nhu mà cương, lặng lẽ mà quyết liệt. Sông núi tuy chỉ thì thầm nhưng là tiếng gọi ngàn năm khẩn thiết. Khi sông núi lên tiếng gọi, thuyền sẽ ra khơi:

      “Thuyền ra khơi, có mấy tầng tâm sự?

      Nắng long lanh, bóng nước vọt đầu ghềnh”

      Rồi Bồ Tát hòa nhập vào khổ lụy chúng sinh:

      “Lời rao trong ngõ hẻm:

      Đồng hồ điện! Cầu giao! Công tắc!

      Những lời rao chợt đến, chợt đi

      Một trăm năm mưa nắng ra gì

      Cánh phượng đỏ đầu hè, ai nhặt?”

      Tôi dừng lại bên vách núi. Mây xuống thấp, rừng cây mờ trong sương, nhòa nhạt bóng hình bao triệu sinh linh quay cuồng trong khổ nạn. Áo nhật bình biến mất trong giòng cuồng lưu; không nhìn thấy nữa, nhưng tôi biết Thầy còn đó vì trong tôi, niệm Quán Âm vừa khởi “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn, phụ nữ, thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp ….” nên Bồ Tát lại hóa thân:

      “Lão già trên góc phố

      Quằn quại chiều mưa giông

      Áo lụa gầy hoa đỏ

      Phù du rụng xuống giòng …

     

      Tiếng muỗi vo ve

      Người giật mình tỉnh giấc

      Ngoài xa kia

      Ai đang đi?

      Nước lũ tràn

      Em nhỏ chết đuối

      Tôi ngồi trên bờ

      Vuốt ngọn cỏ mơ!”

 

       Chư Phật thị hiện thế gian chỉ vì một mục đích duy nhất là Khai, Thị, Ngộ, Nhập, Phật tri kiến; Bồ Tát thị hiện ta-bà chỉ để cứu vớt chúng sanh, nên mây vừa tan, tôi thấy lại ngay vạt áo nhật bình. Thầy vẫn đó, cùng chúng sanh, tay áo rộng phất phơ loang ánh thép lằn gươm Bát-nhã:

      “Anh đi để trống cụm rừng

      Có con suối nhỏ canh chừng sao Mai

      Bóng anh dẫm nát điện đài

      Ôi nỗi buồn

      Thần tiên vĩnh cửu

      Nhớ luân hồi

      Cát bụi đỏ mắt ai”

      Cát bụi ta-bà mù mịt lúc Bồ Tát vào đời, như lửa địa ngục rực sôi khi Địa Tạng Vương phát đại nguyện. Bồ Tát đói khi chúng sinh đói, Bồ Tát đau khi chúng sinh bị xích xiềng, Bồ Tát nguyện chết khi chúng sinh không còn đường sống ….

 

      Khi tôi leo tới đỉnh Trường Sơn, Thầy không còn đó nữa! Bồ Tát đã ngồi tù vì chúng sinh bị tước đoạt tự do. Thầy không còn đó nhưng Trường Sơn bỗng nhiệm mầu như ngày nào pháp hội Linh Thứu chưa tan. Tôi nghẹn ngào mà hoan lạc, tôi tức tưởi mà vững tin. Bóng áo nhật bình trong chấn song tù vẫn tự tại như cánh hạc trong sương mênh mông:

      “Lặng lẽ nằm im dưới đáy mồ

      Không trăng không sao mộng vẩn vơ

      Tại sao người chết, tình không chết?

      Quay mấy vòng đời, môi vẫn khô”

      Khi người chết mà tình không chết thì:

      “Nghìn năm sau

      Trong lòng đất sâu

      Thắm hạt mưa rào

      Giọt máu đổi mầu”

      Tôi thẫn thờ xuống núi. Qua gió rừng, giòng nhạc réo rắt âm hưởng symphony thiết tha cung bực ¾ quyện sáo chiều, sương rơi, lời Bồ Tát nhắn nhủ người phương xa:

      “Người đi đâu bóng hình mòn mỏi

       Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ

      Đường lịch sử

      Bốn nghìn năm dợn sóng

      Để người đi không hẹn bến bờ”

 

      Mười lăm năm Bồ Tát trong ngục tối là mười lăm năm ánh sáng tỏa năm châu, không chỉ với dân tộc Việt Nam trên đỉnh Trường Sơn. Ánh sáng đó đã gõ cửa tam thiên đại thiên thế giới, mở ra chân trời của muôn bàn tay búp sen chắp lại, hướng về trời Nam, ngưỡng phục và đảnh lễ vị thiền sư gầy gò khắc khổ trong bộ áo nhật bình bạc phếch, CHƯA TỪNG NGƯNG THUYẾT PHÁP BẰNG CHÍNH BẢN THÂN MÌNH.

      Chính ánh sáng nhiệm mầu đó đã mở tung cửa ngục. Thầy bước ra, thanh thản như khi bước vào, nhưng giòng nhạc thì không kìm giữ được niềm hân hoan khi đón Thầy trở về am thất. Âm thanh vút lên như muốn vượt rừng, băng suối, lên núi, qua sông, báo tin:

      “Ơ kìa, nắng đỏ hiên chùa

      Trăng non rỏ máu qua mùa mãn tang

      Áo thầy bạc thếch bụi đường

      Khói rêu ố nhạt vách tường dựng kinh”

      Bồ Tát tụng Bát Nhã “…. Không có không không, không thêm không bớt, không sạch không dơ, không lớn không nhỏ, không trong không ngoài …..”, thế nên, Bồ Tát vẫn an nhiên hành Bồ-tát-đạo, dù tang thương biến đổi, tiếng chuông-tâm không dứt, tiếng mõ-hồn không lơi:

      “Ơi người cắt cỏ ở bên sông

      Nước cuộn ngoài khơi có bận lòng

      Phấn liễu một thời run khóe mọng

      Hương rừng mờ nhạt rải từng không”

      Trên sườn đồi mờ sương, vạt áo nhật bình lại bay bay trong gió, như chưa từng rời xa chúng sinh đau khổ. Thầy cúi xuống, đôi tay gầy mở rộng, lại sẵn sàng hứng hết cuồng phong. Nhạc thiết tha theo làn khói, chở mênh mang diệu âm của cả đất trời mà đảnh lễ Người vào đời bằng từ tâm Bồ Tát

      “Khói ơi, bay thấp xuống đi

      Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân

      Ta đi trong cõi Vĩnh hằng

      Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa”

 

       

Diệu Trân
Tháng 7 Mùa sen, 2005

(Theo bước chân Thiền-sư Tuệ Sỹ qua bài thơ “Tĩnh-thất”, nhạc sỹ Trần Quan Long viết thành ca khúc)    


 

DIỆU TRÂN

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
BỞI NHÀ XUẤT BẢN GIÓ ĐÔNG


Vô Tự Thị Chân Kinh


Đường thiên lý
A thousand-mile road
Une route interminable
 


Tâm Hương Tải Đạo

Website Gió Đông

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.