Thùng thùng cắc cắc…
“Thùng thùng cắc cắc thùng
thùng,
Thùng thùng cắc
cắc thùng thùng….”
Bà Đại tới rồi, bà Đại tới
rồi!!! Mọi người ở
thị xã Rạch Giá từ sau Tết đến giờ, ai ai cũng biết bà Đại. Đặc biệt
một điều là, già trẻ, lớn nhỏ, trai gái trong thị xã, đều có cùng
một cách xưng hô khi gọi hoặc nói đến nhân vật nầy: Bà Đại.
Mồng Hai Tết. Đoàn múa lân
trước rạp cải lương Đồng Thinh đang tưng bừng chào đón Tết. Con lân
đỏ trông thật oai vệ với hai mắt to, sáng quắc, lông mày và râu bạc
hếu. Thân và đuôi dài uốn lượn nhanh nhẹn tài tình, trông thật đẹp
mắt. Lân già mà bốn chân chuyển nhanh thoăn thoắt. Nó nhảy qua nhảy
lại, khi chồm lên cao, khi trụ xuống thật thấp. Mấy trăm người đứng
xem, chen chật ních chung quanh. Những cái đầu đồng lượt quay về bên
trái, bên phải đều trân như những hình nộm sống động. Đoàn trống và
chập chả vang rền nhanh chậm từng hồi tạo nên những âm thanh đầy
không khí Tết rất vui tai. Họ mặc đồng phục võ màu đen, thắt lưng
đỏ. Thêm ông Địa, nhân vật không thể thiếu trong các đoàn múa lân
vào các dịp lễ hội lớn. Ông Địa người thấp nhỏ, đầu trọc, miệng cười
toe toét, hai gò má đỏ hồng, áo lợt màu da trời, bụng chồm ra trước
được giữ lại bằng một thắt lưng lụa màu xanh đậm. Một tay ông vỗ vỗ
vào bụng, một tay cầm quạt phe phẩy. Ông Địa quạt cho lân, rồi quạt
cho mấy đứa con nít mặt mày hí hửng, đang quơ quơ tay về phía lân,
phía ông Địa. Bỗng từ đám đông khán giả, một người đàn bà trạc tuổi
ba mươi, tóc dài cột túm sau ót, áo bà ba trắng ngã màu, quần satin
đen cũ kỷ, đi chân đất. Bà sấn vào đám múa lân, miệng bắt chước âm
thanh “ thùng thùng cắc cắc thùng thùng” của đoàn trống, chân
nhảy lưng tưng trước mặt ông Địa. Hàm trên thiếu chiếc răng cửa, bà
chành miệng cười rất tự nhiên như một diễn viên hài hước lâu năm
trong nghề. Mọi người đều cười rộ lên thích thú, vỗ tay cổ võ, thêm
đôi ba tiếng huýt gió phát ra từ đám đông. Những người đứng hàng sau
cố chen tới trước. Có vài tiếng chưởi thề phát lên. Người đàn bà
nhảy theo lân, hai chân cũng bắt chước xuống tấn nhưng loạng choạng
như say rượu. Rồi xoay người qua đoàn trống, hai tay bà ra dấu đánh
trống, miệng vẫn lập lại tới lui “cắc cắc thùng thùng”. Ai đó
trong đám người đang bu xem múa lân quăng cho bà cây quạt. Thế là
đoàn lân năm nay có cả ông Địa và bà Địa. Đó là lần đầu tiên bà Đại
trình làng với người dân trong vùng đất đông dân cư và sầm uất nầy.
Một người đàn bà lạ, không bình thường cho lắm, cách trình diện rất
đặc biệt, lại xảy ra vào dịp Tết, là thời gian người người vui vẻ
đón mừng năm mới, rất khó ai có thể từ chối việc bà Đại đến tạm trú
vùng đất ruộng cò bay thẳng cánh, cá nhảy xoay xoáy sông sâu nầy, dù
người đó có khó tính đến đâu.
Rạch Giá được chia thành ba
vùng bởi hai con sông, đổ vào biển ở Vịnh Rạch Giá. Nước vào ra theo
thủy triều lúc cạn lúc dâng, khi mặn khi ngọt. Xóm Nhà Máy Cháy từ
cổng Tam Quan đến cầu Đúc. Xóm Chợ nằm giữa hai con sông. Xóm Nhà
Thờ cách xóm Chợ bằng cái cầu Quây cũ kỷ nhưng chắc chắn, được xây
từ thời Pháp thuộc. Dân Rạch Giá đa số sống trên đất liền, buôn bán
hoặc làm ruộng. Trên sông, trên biển cũng có nhiều gia đình nối
nghiệp từ đời ông cố ông sơ. Đánh cá, chài lưới, chở hàng bằng đường
thủy hoặc chỉ bán hàng rong trên những chiếc ghe tam bản, xuồng ba
lá. Khá giả hơn là ghe bầu hoặc xuồng có gắn máy đuôi tôm. Dân Rạch
Giá, cũng như dân các tỉnh miền Tây lân cận: hiền hòa và hiếu khách
rất mực.
Mồng Ba Tết, chợ bắt đầu
nhóm. Sáng sớm đã có bà “Địa” lẩn quẩn đi tới đi lui trong chợ. Mỗi
khi được hỏi tên, bà trả lời : “tui tên Đại, vĩ đại như vầy nè”.
Vừa trả lời bà vừa đưa hai tay lên cao như ông Cha làm Lễ trong nhà
thờ Cứu Thế mỗi sáng Chủ Nhật. Được hỏi từ đâu tới, bà trả lời như
đọc vè:
- Tui từ đất nẻ chui lên,
từ trời rớt xuống, từ biển tấp vô, từ sông trôi tới …
Vậy là huề! Không ai biết gốc
gác của bà...
Chỉ có một điều bà có vẻ hiền lành, nên các chị em bạn hàng ở chợ
cũng không cảm thấy sợ bà điên nầy. Các dì hàng bún cơm chè xôi, rất
thân thiện. Người múc cho bà tô cháo
gà,
thêm nhúm hành, chút gừng, rắc thêm chút tiêu thơm lừng. Người tặng
ly nước đá đậu xanh, chế thêm sirô đỏ, trông rất bắt mắt. Ăn xong,
uống xong, bà Đại tỉnh bơ tiến tới thau nước rửa ly chén. Bà rửa
luôn đống ly, chồng dĩa cho các bạn hàng. Thế nên không bao lâu, bà
biến thành gương mặt thân thiện trong xóm Chợ. Bà giúp công việc lặt
vặt nhiều hơn ăn.
Người ta cho tiền để trả
công bà, bà lắc đầu lia lịa :
-
Để chi?
-
Làm thì phải được trả công
chớ!
-
Chơi mà!
Rồi bà bỏ đi một nước.
Buổi trưa, người ta thường
thấy bà đẩy phụ xe nước của ông Mười Móm, mặt mũi đầy mồ hôi. Có
người hỏi chọc ghẹo:
-
Bộ bà thích ông Mười lắm sao
mà làm lấy công dữ vậy?
-
Chơi mà.
Bà Đại vừa nghiêng nghiêng cái đầu ngoáy lại vừa trả lời.
Gẫm lại, đời sống cũng giống
một cuộc chơi, chỉ khác nhau về nội dung, hình thức và tinh thần của
những người nhập cuộc. Chơi đẹp, chơi ngon, chơi hay, chơi khăm,
chơi trội, chơi xấu, chơi xỏ, hay chơi hết chỗ nói…
Kiểu “chơi” của bà Đại
không làm phiền ai mà còn có lợi cho người trong cuộc là đàng khác.
Nhờ vậy mà ai cũng thương, cũng thích bà. Chỉ có mấy đứa nhỏ trong
xóm hay chọc phá nhân vật này. Có đứa gọi bà là bà Đại điên, đứa gọi
bà Đại khùng. Đứa lấy đá chọi vào bà, chọc bà rượt cả đám ù chạy,
vừa chạy vừa hò hét, vừa sợ vừa thích thú…
Bà cũng không vừa,
chưởi lại bằng những lời không được thanh tao, thứ chữ nghĩa đủ để
các cô con gái nhà lành đỏ mặt, để các bà hiểu đời tủm tỉm cười, các
ông có máu tếu khoái chí nhắc đi nhắc lại trong các buổi chén tạc
chén thù hỉ hả. Bà chỉ dữ lên khi bị mấy đứa nhỏ chọc riết quá.
Không giống như mấy người điên khác, xé quần xé áo, tấn công mấy
người thân và hàng xóm. Những người điên nầy bị nhốt ở nhà thương
lớn, sau cánh song sắt đen. Họ nói lảm nhảm liền miệng. Đập ầm ầm
vào vách phòng giam. Nhìn họ, giống như những con thú dữ bị nhốt
biệt lập.
Buổi trưa tháng Ba trời bắt
đầu oi bức. Bà Đại mặc áo dài đỏ, quần trắng, mang dép cao su Nhật
Bản quai màu xanh dương đậm. Thêm cái nón lá, trông cũng xinh xắn,
rất quê hương dân tộc. Không biết của ai cho, hoặc ai thảy ra bỏ mà
bà lượm mặc. Ngày hôm sau, bà mặc áo the đen dài tới gối, không mặc
áo xú cheng, bộ ngực nhúng nhẩy theo nhịp đi nhanh chậm, bà đội khăn
đóng trên đầu y hệt một đàn ông đầy quốc hồn quốc túy. Nếu không
điên điên khùng khùng, chắc không ai dám mặc vậy đi tới lui trong
chợ. Bà mặc thay đổi qua lại cả mấy tuần chỉ hai bộ đồ nầy. Có khi
đi chân không, đầu trần. Vòng vòng xóm chợ cá, qua xóm trái cây. Tà
áo dài bửa đỏ, bửa đen bay phất phới trông cũng hay hay. Dáng bà cao
và gầy, thích hợp với áo dài, trông thanh tao hơn cả áo bà ba. Người
trong chợ, trong phố nhìn bà cười cười, bà cũng cười cười lại. Có
người khen, không biết vì muốn chọc bà hay khen thật:
-
Bà Đại ơi, bà mặc bộ đồ nầy
coi đẹp lắm đó nghen.
Nghe vậy, bà xoay vòng vòng
cho hai tà áo dang rộng trong gió rồi lẩm bẩm :
-
Đẹp, tui đẹp, đồ đẹp lắm, tui
đẹp lắm…
Bà Đại vui ra mặt, bà đưa tay
vuốt vuốt mấy cọng tóc đang bay lòa xoà trên trán một cách rất là
đàn bà. Dù quê hay chợ, già hay trẻ, giàu hay nghèo, phái nữ vẫn
thích làm đẹp, làm dáng làm duyên theo phong cách riêng của họ. Điên
cũng biết làm duyên theo cách của người điên.
Sáng nay bà Đại ngồi chồm hổm
bó rau muống, rau dền cho dì
ba
Phì Lủ cũng với bộ đồ “cổ” đỏ rực màu hoa Phượng. Cổ áo cao, thân áo
ôm tròn chiếc lưng thon. Dì Ba đưa mắt ngắm bà Đại một chặp, rồi
chợt lên tiếng với mấy chị em bạn hàng cạnh bên:
-
Quốc phục của mình cũng đẹp
quá chớ, lâu quá không ai mặc, tui cũng quên mất tiêu. Hay là để tui
kêu con Thu nhà tui và chồng sắp cưới của nó mặc loại quốc phục nầy
trong ngày cưới của tụi nó. May vải gấm xanh đỏ chắc nổi lắm à.
Tưởng nói chơi thôi, không
ngờ dì Ba nói thiệt. Vợ chồng con Thu thằng Hải cũng làm thiệt luôn.
Hôm cô dâu chú rể bước ra trình diện, ai cũng ồ lên và trầm trồ
không ngớt lời khen. Nhất là lúc rước dâu. Cô dâu áo gấm đỏ, chú rễ
áo dài khăn đóng đen đi song song, trước và sau là các cô cậu bưng
mâm quảy cũng mặc áo lụa áo the, áo gấm vàng trông vô cùng đẹp mắt.
Vậy là cái mốt cũ từ
mấy chục năm về trước trở nên thịnh hành sau đám cưới của con dì
ba
Phì Lủ. Cả quận bàn tán, cả chợ có đề tài để nói. Các đám cưới sau
đó, áo cưới cô dâu chú rễ, áo gấm thêu hoa, khăn đóng áo dài, ngày
càng thêm thắt kiểu cọ hơn, màu sắc hơn để quay phim lại cho bà con
coi cho đẹp, được phê bình tốt hơn. Và cứ thế, mốt Rạch Giá lan ra
Rạch Sỏi, Tân Hiệp, Giòng Riềng, Hà
Tiên…
Ở xóm Nhà Máy Cháy có chú Năm
Tạng tánh nóng như Trương Phi, đánh vợ nổi tiếng. Lối xóm qua can
không được riết rồi họ cũng phát chán. Bà Đại ngồi bó trầu thành bó
giúp bà Hai Trầu. Vừa bó vừa đưa mắt nhìn chị Sáu Đẹt đang lui cui
sứt muối lên đầu thiếm Tạng, vừa lầm bầm:
- Đàn ông, đàn bà, đàn
ông, đàn bà…
Bà Hai Trầu xoay người qua
hỏi bà Đại:
-
Bà lầm bầm gì đó Bà
Đại?
- Đàn ông, đàn bà, đàn
ông, đàn bà…
Bà Hai Trầu thả một câu trỏng
không:
- Đúng là đồ khùng!
Buổi chiều, bà Đại đi ngang
nhà chú Năm. Chú Năm đang ngồi chòm hỏm xỉa răng hóng gió trước nhà.
Mấy đứa con nít trong xóm đang bu quanh bà . Tụi nó cũng đồng thanh
hát lên chọc bà:
- Thùng
thùng cắc cắc thùng thùng, có bà Đại khùng kìa tụi bây ơi!.
Lần nầy bà không rượt tụi
nhỏ, bà cười cười và cất giọng hát một câu giọng cổ: “Ông Năm ơi!
Bà Năm có tội tình chi mà ông đánh bả tới…u…đầu…” Mấy đứa nhỏ
thấy bà Đại xuống hò. Chúng vỗ tay dòn rang. Mấy người lớn đang ngồi
đứng gần đó cũng vỗ tay rân. Không phải vì họ muốn chọc quê ông Năm,
mà vì thói quen, khi đào kép cải lương xuống hò là khán giả đều vỗ
tay thật to để ủng hộ. Ông Năm mặt mày sượng ngắt bỏ đi te te vô
nhà. Sau nầy, mỗi lần đi ngang nhà ông Năm, bà Đại cứ xuống câu hò
đó, mấy đứa nhỏ quen thói cứ vổ tay lốp bốp. Không những chỉ vỗ tay,
khi nghe bà Đại bắt đầu vô câu vọng cổ, tụi nhỏ thuộc lòng nên hùa
theo hát, cả đám xuống hò một lượt, tự hát tự vỗ tay. Lúc trước ai
khuyên can gì ông Năm cũng không nghe, vậy mà khoảng thời gian sau,
thiếm Tạng đi chợ, thiếm tâm sự với xóm chợ là : “ Cở nầy tui hết
bị ăn đòn rồi”.
Hôm nay, hai mươi bảy tháng
tám âm lịch, ở Thị xã có đám cúng Đình thờ Thượng Đẳng Đại Thần
Nguyễn Trung Trực. Ông Từ, ban trị sự Đình và người trong làng đã
lo dọn dẹp trang hoàng cho Đình tươm tất từ tuần nay. Mấy ngày
trước, đi ngang qua Đình, người ta cũng thấy bà Đại giúp quét sân
Đình, trông xôn xáo như một người cư dân bình thường đầy lòng tín
ngưỡng.
Đoàn Tế trong tư thế chờ Lễ. Dân trong thị xã đã tề tụ đông như
kiến. Khi tiếng trống báo hiệu giờ khai lễ vang lên, những âm thanh
lao nhao ồn ào bỗng im bặt. Mười hai người trong ban Tế với y phục
gấm xanh, đầu đội mủ, chân mang hia, từng người bước ra, họ đi từng
bước chậm dài, vẹt ra thành hai hàng, mỗi hàng sáu người. Một người
trong ban Tế là Chủ Tế đọc lời khấn nguyện. Tiếng ông lớn rổn rảng,
thêm không khí trang nghiêm trong sảnh đường, càng tăng thêm vẻ linh
thiêng của ngày Lễ Hội. Phần dâng lễ trái cây xôi rượu.. Kế đến là
phần chúc văn. Đọc xong, chúc văn được trân trọng đốt dâng lên các
đấng thiêng liêng.. Lời cầu như được theo nhang khói đưa đến tận
thiên đình.
Xong phần nghi lễ, đến phiên
người dân cúng vái. Mọi người lần lượt thỉnh nhang và van vái. Trong
đám đông đó có bà Đại, tay cũng cầm nhang, miệng cũng rì rầm như
giống hệt một người tỉnh táo đang cầu nguyện. Kế bên bà Đại, là
thằng Quang con ông Sáu hảng nước mắm cá cơm. Thằng Quang lúc nhỏ
khù khờ, chậm nói, càng lớn càng có vẻ ngô nghê. Mấy tuần nay người
trong quận đồn rùm là thằng Quang bị khùng nhiều giống bà Đại. Có
người miệng không được hiền nói rằng:
- Ông Sáu “ăn mặn” nên
thằng con “khát nước”.
Thời gian sau đó bà Đại có
thêm thằng Quang làm bạn. Hai người, một sồn sồn, một trẻ, thường
đứng trước tiệm bán băng cải lương tân nhạc Quê Hương ở gần chợ cá,
nhảy múa theo những bài hát được phát ra khá lớn từ trong tiệm cho
bà con qua lại thấy hay mua về nhà nghe. Khi bà Đại ra chợ làm tiếp
cho các bạn hàng thì thằng Quang đứng gần đó chấp hai tay sau lưng
lắc người qua lại, hoặc quơ hai cánh tay lên không rồi cười ha hả
một mình. Bà Đại ăn hàng không bị tính tiền, vì bà Đại giúp bạn hàng
việc nọ việc kia. Còn thằng Quang ăn hàng thì được ghi sổ nợ để ông
bà Sáu trả tiền hoặc trả bằng nước mắm… Khi bà Đại không có gì làm
thì bà đánh trống miệng “thùng thùng cắc cắc thùng thùng” và
thằng Quang thì nhảy lưng tưng trông rất vui mắt. Có khi cả hai cùng
nhảy, vui đùa hồn nhiên như thế giới chỉ có hai người. Không
khí và tính nết của các bạn hàng trong chợ cũng có vẻ êm dịu hơn.
Thỉnh thoảng bà Đại hát nguyên bài:
“Thùng thùng cắc cắc thùng
thùng,
Thùng thùng cắc
cắc thùng thùng,
Tay nào anh nâng mặt ngọc
Tay nào tát đỏ má non
Chân nào chạy lủi vào em
Chân nào chạy theo con đỉ chó ngực gò đít vêu.
Hận anh ít, nhớ anh nhiều
Bạc tình lang hỡi bạc tình lang!!!
Thùng thùng cắc cắc thùng thùng,
Thùng thùng cắc cắc thùng thùng….”
Có người buột miệng hỏi:
- Chồng bà đâu rồi?
Bà chợt nổi giận thình lình:
- Đã nói nó bỏ tao chạy
theo con đỉ ngựa kia rồi. Bộ điếc sao còn hỏi?
Nghe qua bài hát vè. Ai cũng
đoán bà Đại đã có một thời xuân sắc với tình yêu lứa đôi vun vít. Và
một thời đau khổ vì tình, héo hon vì tình phụ. Đau khổ đến hoá điên
chăng? Chắc vậy! Đàn bà có một cuộc đời để cho, một thần tượng để
tôn sùng. Họ sống bằng trái tim nhạy cảm. Tình cảm đối với họ được
đặt lên hàng đầu. Danh vọng và tiền bạc lủi thủi theo sau trái tim
đầy ắp tình yêu, chịu lép vế làm hàng thứ yếu, khác hẳn đàn ông. Do
đó khi thần tượng sụp đổ, khi bị thần tượng chối từ, khi tình không
xong là họ ngã quỵ, là hồn tan vía tán, là quay cuồng với bão tình,
là khùng khùng điên điên, là giống như bà Đại?!
Chị Hai bánh khọt, người ít
nói nhất trong mấy bạn hàng, một hôm tò mò hỏi bà Đại:
- Vậy
bà có đi tìm bạc tình lang của bà hông?
Đột nhiên bà Đại bật khóc như
mưa, khóc hù hụ giữa chợ. Đâu cần phải trả lời. Khóc, chỉ khóc thôi,
đã nói lên tất cả! Chị Hai rơm rớm nước mắt, chị có vẻ bối rối, hối
hận vì câu hỏi đơn giản của mình lại tác dụng như một con dao chém
vào vết thương còn toèn hoẹt của bà Đại. Chị chỉ muốn mở ra cái ray
rức, dày vò riêng của chị. Hoàn cảnh bà Đại cũng na ná giống bi cảnh
của chị mà thôi. May mà chị chưa bị khùng, bị cà tửng như bà Đại.
Duyên phận đàn bà! Mấy người may, bao người rủi! Điều gì đem đến
phước may cho người nầy, vận rủi cho người kia. Người được chồng
giàu, chồng cưng, chồng đãi;
người thì lấy chồng xong là đời tàn trong ngỏ hẹp, là biến thành đứa
đầy tớ không công mà còn bị dập vùi. Rốt cuộc, người ta chỉ biết đổ
thừa số phận, đổ thừa ông Trời, như một số kiếp được an bày riêng
cho mỗi người khi được sanh ra. Sanh ra dưới một ngôi sao xấu hay
ngôi sao sáng…
Lần khác bà lại hát nguyên
bài vè cũ. Có người đùa dai hỏi tiếp:
- Đít vêu là đít làm sao?
Bà Đại đứng lên đưa cái mông
cong về phía sau, lắc qua lắc lại giống như con vịt lắc mình cho khô
sau khi lội từ ao lên bờ. Cả một khúm chợ cười ầm lên. Thằng Quang
không biết có hiểu gì không, cũng ngước mặt cười khoái chí.
Từ mấy tháng nay, bà Đại rất
“kết” dì ba Phì Lủ, nên bà có mặt thường trực ở sạp rau nầy hơn các
nơi khác. Xế trưa ế hàng, bà Đại ngồi nhổ tóc ngứa cho dì Ba. Dì Ba
có khi cũng thắt bím tóc cho bà Đại. Từ sau nhìn tới, ai cũng tưởng
bà độ hai mươi với cái bím tóc đó. Dì Ba cũng soạn cho bà Đại mấy
cái áo cũ. Bà Đại ốm hơn dì Ba rất nhiều, nên khi bà mặc mấy cái áo
nầy, lòng thòng lễnh thểnh như hình nộm biết đi, trông ngồ ngộ. Chỉ
gần một năm thôi, bà Đại, một người nửa điên nửa khờ, đã chiếm được
cảm tình của nhiều người đầu trên xóm dưới, đặc biệt là các bạn hàng
xóm Chợ. Nếu ai không có cảm tình lắm thì cũng chấp nhận bà Đại như
một người dân địa phương quen thuộc. Cả chú năm Tạng, khi gặp bà Đại
cũng chọc bà vài câu vô thưởng vô phạt. Chú Năm tánh nóng nhưng thật
thà dễ dãi, bản tánh của dân quê miền Nam.
Hôm nay hai mươi tám Tết. Còn
hai ngày nữa là qua năm mới. Chợ được họp sớm hơn và đông đảo hẳn
lên. Người người chuẩn bị ăn Tết. Có điều, mấy ngày nay chợ như buồn
hơn vì không ai thấy bóng dáng bà Đại đâu nữa. Bà đi đâu không ai
biết. Bà đến đột ngột. Đi cũng đột ngột như đến. Khi đến ồn ào bao
nhiêu thì khi đi lại âm thầm lặng lẽ bấy nhiêu, lặng lẽ mà đi! Vì
sao bà đến nơi nầy? Lý do bà bỏ nơi nầy? Ai biết được người điên
nghĩ gì? Ai biết được lý lẻ của người điên?
Thằng Quang đi tới đi lui
lửng thửng một mình như con lạc mẹ, trông cô đơn đến tội nghiệp.
Miệng nó lầm bầm điều gì không ai nghe được. Sáng nay sông động hơn
vì có nhiều ghe đuôi tôm giao hàng và chở hàng tấp nập, tạo trăm
ngàn đợt sóng lăn tăn. Thêm gió từ cửa biển thổi vào làm sóng dậy.
Gió đưa sóng vào bờ. Bờ trả sóng lại cho biển. Sóng đời sẽ đưa bà
Đại về đâu? Về đâu!
Không biết người điên có biết
nhớ hay không, chớ dì ba
Phì Lũ có vẻ nhớ bà Đại rất nhiều . Mặt dì buồn hiu, hai tay bó rau
mà mắt dì cứ dáo dát tìm kiếm hướng nầy hướng kia. Dì nhìn về hướng
rạp Đồng Thinh, nơi bà Đại lần đầu xuất hiện, lần đầu tiên đến với
thị xã nầy. Dì nhớ lại đám muá lân hồi đầu năm, nhớ ông Địa và nhớ
nhất là bà Địa. Đột nhiên dì Ba cất cao giọng:
- Thùng thùng cắc cắc
thùng thùng,
Bà Hai Trầu nghe vậy, cũng
tiếp hơi cho dì Ba Phì Lủ:
- Thùng thùng cắc cắc
thùng thùng,
Thằng Quang mắt lơ láo nhìn
bà Hai, nhìn dì Ba rồi bắt đầu nhảy múa vô tư, như bà Đại đang hiện
diện qua làn sóng âm thanh đó. Nó bắt đầu nhảy lưng tưng, giống hệt
lúc nó nhảy múa chung với bà Đại.
Thùng thùng cắc cắc thùng
thùng,
thùng thùng cắc cắc thùng thùng…
Thằng Quang vẫn tiếp tục nhảy
lưng tưng, lưng tưng một mình….
Tháng Năm 2007
Lâm Kim Loan
|