Graham Greene là một tiểu
thuyết gia lớn của văn học thế giới của thế kỷ 20. Là một ký
giả, và có dính dáng nhiều đến các hoạt động tình báo, tiểu
thuyết của ông có sức sống động kỳ lạ bởi các diễn biến của bố
cục truỵên có những nét hiện thực của các biến cố nóng bỏng trên
thế giới. Ông thường chọn không gian thời gian cho tiểu thuyết
ở các nước nghèo, có nhiều biến cố, tạo những biến chuyển gây
sự kích thích lôi cuốn cảm quan người đọc. Thế giới của Greene
là các nước Mễ Tây Cơ, Tây Phi, Việt Nam, Cuba, Haiti,
Argentina, Phi Luật Tân, Malaysia,… mà các nhà phê bình văn học
đã mệnh danh là “Greeneland“, để mô tả về thế giới tiểu thuyết
của ông. Một điều đặc biệt, khi phác họa các nhân vật ông đã
dùng kỹ thuật điện ảnh để làm nổi bật lên những cá tính và biến
chuyển nội tâm. Ông chú mục vào những tính chất của bên trong
cuộc sống, phản ánh những điều gần như sâu thẳm của từng nhân
vật. Những trở ngại của cuộc sống để biểu hiện sức tranh đấu để
sống còn, trong bố cục truyện của Graham Greene đã thành những
nút thắt mở để biến chuyển tiểu thuyết có sức hấp dẫn và tạo
thành những cảm quan buộc người đọc phải theo dõi. Ông hầu như
còn là một tiểu thuyết gia người Anh của thế kỷ 20 đã có một
suy nghĩ và tâm linh tôn giáo nhất quán tương tự như tiểu
thuyết gia người Pháp Francois Mauriac. Ông là một người phê
phán và tấn công mạnh mẽ các loại tân tiểu thuyết không có
những cảm quan tôn giáo hay những suy tư tâm linh...
Viết hồi ký tự thuật,
Greene kể lại cuộc đời mình trong hai tác phẩm. Một là “A
Sort of Life”, viết từ lúc thơ ấu đến khi 27 tuổi. Và, “ Ways of
Escape”, khoảng thời gian về sau. Có lúc, ông đã viết khi mô tả
công việc sáng tác của mình : “Viết là một hình thức tập thể
dục, đôi khi tôi đã ngạc nhiên tại sao tất cả mọi sự kiện mà
người ta không viết, để pha trộn hòa hợp hoặc tô vẽ rồi có thể
chủ động vượt thoát qua những cơn điên cuồng, những niềm bi
thảm, những run rẩy hãi sợ mà cố nhiên phải có trong những sinh
hoạt của con người..” Và ông phụ chú thêm “Con người cần thiết
phải vượt thoát cũng như cần thiết thức ăn và những giấc ngủ
thoải mái..”.
Những chuyến đi đã tạo cảm
hứng và cung cấp những dữ kiện để tạo thành tiểu thuyết cho
Graham Greene. Như khi, ông cầm vé khứ hồi để trở lại Sài Gòn
sau một chuyến bay, ông biết mình phải viết “The Quiet
American“. Như, khi đến Haiti để viết “The Commedians”. Hay,
khi đến Paraguay để viết “Travels with My Aunt”….
“Ways of Escape” viết về
những trường hợp sáng tác những tiểu thuyết của Graham Greene,
một cuốn hồi ký khá lạ lùng. Với tác phẩm “The Quiet
American“, ông đã thổ lộ : ”Thật là một sự thay đổi đột ngột,
Tôi đã yêu đất nước Đông Dương, không có gì xa xôi hơn từ suy tư
của tôi trong cuộc viếng thăm lần đầu hơn là tôi đã có một ngày
để sửa soạn cho một tiểu thuyết ở đây.”
Một đoạn khác: ”… Tôi đã
đến Việt Nam và yêu tha thiết đất nước ấy ngay buổi đầu tiên.
Hai hoặc ba mùa rét liền tôi thường bay tới và ghé lại nơi chốn
đó. Và rồi, bỗng nhiên tôi nghĩ mình có thể viết được một cuốn
tiểu thuyết.”
Khi tạo dựng ra nhân vật
Pyle của The Quiet American, Graham Greene đã mượn từ đời sống
thực một người có tính chất tương tự như thế : ”Môt lúc, tôi đến
thăm một người bạn thân là đại tá của Quân Đội Liên Hiệp Pháp
tại một ngôi biệt thự thanh lịch ở mạn phía nam thành phố Sài
Gòn. Và ở đó, tôi đã gặp một người Hoa Kỳ và chúng tôi đã chuyện
trò tương đắc với nhau suốt cả buổi chiều. Anh ta tự nhận là đại
diện cho một phái bộ rất đặc biệt có nhiệm vụ cung cấp thực phẩm
viện trợ. Anh ta nói chuyện với lập luận rằng tình hình hiện nay
cần phải có sự hiện diện của một lực lượng thứ ba, không phải
Cộng Sản, cũng không phải người Pháp mà là những người quốc gia.
Dù gặp lần đầu tiên nhưng anh ta đã tạo cho tôi ấn tượng mạnh
đến nỗi đẩy sự suy nghĩ tới phải đem nhân vật này vào trong tiểu
thuyết. Người Mỹ trẻ tuổi này, có một chút gì hơi ngây thơ và
luôn tâm niệm về một “ lực lượng thứ ba” “Nhân vật Pyle đã thành
hình với những cuốn sách của York Hardling làm lý thuyết nồng
cốt. Nhân vật này là những người tiền tiêu mở đầu cho một chương
trình can thiệp vào Việt Nam của Hoa Kỳ.
Tác giả đến Hà Nội, thăm
một người bạn cũ làm lãnh sự Anh, Trevor Wilson, sau khi ở
Malaysia, chứng kiến một thời kỳ hòa bình ở đây và một cuộc
chiến đang bắt đầu và có cơ phát triển ở Đông Dương.
Ở đất nước này, ông đã có
dịp cạn chén với những sĩ quan về hưu Lê Dương và hiểu biết
được nhiều chuyện từ những cuộc gặp gỡ tại Sài Gòn và Hà Nội.
Những người lính đánh thuê chuyên nghiệp đã mở ra những kho tàng
sự kiện, của những biến cố hấp dẫn lạ thường.
Cảm giác đầu tiên với
Greene từ xứ sở ụ này là những tà áo dài tha thướt của các cô
gái, hay hình ảnh những con trâu nằm dưới bùn ở đồng bằng,
hay mùi hương đặc sệt kiểu Pháp ở đại lộ Catinat, hoặc sòng
bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn.. Nhưng vẫn lẫn lộn vào cảm giác ấy,
là sự bất an. Những rào kẽm gai, những trạm gác khắp nơi,
chiến tranh vẫn khốc liệt. Bên cạnh những nét thơ mộng hào
nhoáng, vẫn còn những thô nhám của thực tế của chiến cuộc.
Trong hồi ký, Greene kể
lại những cuộc gặp gỡ với các nhân vật từng một thời gây bão
lửa ở Việt Nam. Đại tá Leroy, một người Pháp lai, lãnh chúa ở
Bến Tre, tự xưng là General, một nhân vật của thời thế xuất thân
từ hàng dân dả nghèo khó nhưng lại trở thành một ông vua không
ngai ở lãnh địa của mình. Với Greene, ông tướng này có vẻ như
một con cọp dữ giấu mặt đằng sau nụ cười. Leroy điện thoại mời
Greene đến văn phòng của ông ta ở Sài Gòn và ở đó một người
Pháp tự giới thiệu là phụ tá liên lạc dân sự chuyển lời mời của
ông tướng dự một bữa ăn trưa tại hành dinh của ông ta ở Bến
Tre. Ở đây, mới thấy được uy quyền tuyệt đối của nhân vật này.
Greene cũng kể đã đến khu
tự trị Phát Diệm vào năm 1951 là một trong hai giáo khu chống
Cộng sản dữ dội nhất. Ở đây, ông đã gặp hai vị giám mục và đội
quân tự vệ võ trang nhỏ bé ở lãnh địa này. Có vẻ, ở Việt Nam,
có nhiều cuộc chiến nhỏ và tình hình quân sự cũng như chính trị
rối ren và phức tạp.
Greene cũng đã gặp đại
tướng De Lattre. Ông tiếp đón khách danh dự này với huy hiệu
trên cánh tay của Đệ Nhất Lộ Quân Pháp, đơn vị mà ông chỉ huy
khi thành phố Strasbourg thất thủ và ông cũng giới thiệu Greene
như một chiến hữu lâu đời của ông. Vài tháng trước đây, tất cả
các gia đình Pháp kiều di tản khỏi Hà Nội với một viễn ảnh gần
là sẽ bị quân Cộng Sản tràn ngập. Nhưng Tướng De Lattre đã làm
thay đổi tình thế. Ông đã tuyên bố với các chiến hữu của ông
“Tôi sẽ vào Sài Gòn làm việc nhưng vợ tôi sẽ ở lại Hà Nội và đó
là một dấu hiệu Pháp Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ nơi chốn này.
Đó là một mùa hạ cao điểm nhất của những nỗ lực riêng ông. Và
cũng thật khó tưởng tượng chỉ hơn một năm sau, ông đã chết vì
ung thư trong nỗi buồn bại trận. Cũng như, một điều bất ngờ khác
là Greene đã gặp Hồ Chí Minh và uống trà với ông ta ở Hà Nội
gần bốn năm sau.
Greene là đặc phái viên
của báo Times ở Malaysia nhưng lại thích làm việc ở Việt Nam.
Tám tháng sau, tháng tám năm 1951, tình hình thay đổi. Tướng De
Lattre bị mất người con trai là trung úy Bernard ở mặt trân Hòa
Bình và tình hình suy sụp. Ông phải chịu đựng nỗi đau đớn vừa
thể xác lẫn tinh thần nên suy sup mau chóng.
Trong bữa tiệc tiễn biệt
tướng De Lattre trở về Pháp, Graham Greene đã tham dự và kể
lại. Ông tướng đã thay đổi thật nhiều. Từ một người phong độ hào
hùng năm trước ông đã thành một ông già mệt mỏi, nói nhiều nhưng
rời rạc mệt mỏi. Bữa tiệc cũng có những khúc quân hành, và những
lời chúc tụng, ông tướng ngồi trên ghế sofa và nắm tay người
vợ trong sự chia sẻ tột cùng. Vẻ mặt xanh xao mà các đại tá
thuộc cấp đã mô tả là như có làn khói quyện vào. Ông tướng hỏi
Greene : “Và bây giờ, Graham Greene, tại sao anh ở đây?” Tiếng
Anh nhát gừng đột nhiên biểu lộ tính kẻ cả mà ông không cố tình.
Greene trả lời : “Tôi đã nói với Ngài nhiều lần. Tôi đến để
viết bài cho báo Life” ông tướng nói “Tôi hiểu điều đó“ trong
khi các vị tướng như Linares, Saln, Cogny ngồi ở đầu bàn kia như
không nghe thấy “– Nhưng anh là nhân viên của Đặc Vụ Anh?”
Greene cười “ Tôi biết anh ở trong cơ quan tình báo Anh trong ba
năm khi chiến tranh” Ông tướng căn vặn. Greene cười và giải
thích rằng chỉ hoạt động khi chiến tranh thôi và chấm dứt khi
hòa bình. Nhưng ông tướng vẫn hỏi “Tôi biết không một ai có thể
rời khỏi công việc của Đặc Vụ Anh” greene trả lời “Điều ấy chỉ
đúng với Deuxième Bureau của Pháp. Với chúng tôi thì không“
Greene ngồi kế bên tướng
De Lattre và nói chuyện khá lịch sự nhỏ nhẹ. Bà tướng nhìn Grene
một thoáng và Greene cảm thấy trong ánh mắt sự phân vân về nỗi
ỉ an bình của một người bệnh mà bà yêu thương trong buổi tối
cuối cùng ở Hà Nội. Đó có phải là khung cảnh của chiến thắng và
lầm lỗi chen lẫn nhau. Graham Greene đã sửa soạn sẵn trong óc
về câu chuyện có một chứng cớ rõ ràng là số tiền mà báo Times đã
trả cho ông về những bài được viết. Ông tướng lắng nghe và biểu
hiện sự thích thú khi cao giọng nói ”Tôi đã nói với các nhân
viên an ninh rằng Graham Greene là bạn tôi. Tôi không tưởng
tượng được những gì mà họ nói về anh. Rồi họ lại cứ đến nói hoài
về điều này điều nọ. Tôi đã nói. Tôi không tin. Graham Greene là
bạn tôi. Thế mà họ cứ đến nói mãi nói hoài chuyện ấy..” Thế mà,
hôm sau, trước khi lên phi cơ về Paris, Tướng De Lattre lại nói
với một người trong ban tham mưu ”Tôi biết hắn là gián điệp. Làm
sao mà một người đi vào chiến tranh với cái giá chỉ có bốn trăm
đô la ?”
Graham Greene không viết
: “Voilà, Monsieur Dupont” nữa và thay và là “The Quiet
American” từ đêm trở về Sài Gòn sau khi gặp đại tá Leroy. Cũng
như, sau khi gặp một viên chức Mỹ trong phái đoàn viện trợ kinh
tế, Greene đã có nhiều hình ảnh để tạo dựng thành nhân vật Pyle
trong “The Quiet American”. Pyle, một người trẻ tuổi tin tưởng
vào việc làm của mình và luôn nhắc đến lực lượng thứ ba “The
Third Force”.
Mà người của lực lượng
thứ ba là tướng Trình Minh Thế, thủ lãnh của quân đội Cao Đài
gồm hai chục ngàn tay súng ở cứ địa chung quanh Thánh Thất Tây
Ninh. Quân của tướng Thế chống cả Pháp lẫn Việt minh và có một
căn cứ hiểm yếu ở trên núi Bà Đen với nhiều công binh xưởng chế
tạo vũ khí. Graham Greene đã gặp tướng Thế nhiều lần và gọi
ông là bạn thân. Greene đã bị thóa mạ là có người bạn thân là kẻ
sát nhân vì tướng Thế đã chịu trách nhiệm về những vụ nổ bom tự
tạo ở Sài Gòn và giết hại nhiều người. Greene nghĩ là có sự
liên lạc giữa tướng thế và tình bào Hoa Kỳ. Một xe jeep có hai
tử thi của hai phụ nữ Hoa Kỳ được tìm thấy ở một đồn điền cao
su trên đường lộ tới núi Bà Đen. Thủ phạm có thể là Việt minh
nhưng một câu hỏi là tại sao hai phụ nữ Hoa Kỳ trong đó có một
người là nhân viên sứ quán Hoa Kỳ đến nơi chốn đó làm gì. Sau
đó, mọi chuyện được ỉm đi coi như không có gì xảy ra. Cũng như,
một nhân viên lãnh sự Mỹ bị bắt ở cầu Đa Kao (nơi mà nhân vật
Pyle bị giết trong tiểu thuyết) trong xe có chở bom plastic. Và,
rồi mọi sự cũng bị chìm xuồng như lần trước.
Như thế chủ đề của “The
Quiet American” khởi đầu từ lúc từ lúc Graham Greene nói
chuyện với đại tá Leroy trên những con thuyền bọc sắt võ trang
tại lãnh địa của ông ta cũng như khi tiếp cúc với tướng Trình
Minh Thế ở cứ địa núi Bà Đen Tây ninh.
Nhân vật của The Quiet
American là bộ ba : Fowler, ký giả người Anh, người kể chuyện ;
Pyle, người Mỹ có những hành tung kỳ bí ; và Phượng, người con
gái Việt Nam, cùng được cả hai người yêu.Mối tình tay ba xen
lẫn trong một thời thế phức tạp của một cuộc chiến đang có mòi
chấm dứt với người P háp nhưng lại chớm có dấu hiệu của sự can
thiệp của người Mỹ. Pyle đặt bom nổ ở khu phố trung tâm Sài
Gòn và bị hạ sát bởi một nhóm người nửa Tàu nửa Việt qua sự chỉ
điểm của Fowler.
Trong “The Quiet
American”, Graham Greene đã lấy khung cảnh của hai vùng đất
mà chiến tranh có nét thật đặc biệt. Vùng tự trị Thiên Chúa giáo
ở Phát Diệm và vùng ảnh hưởng của đạo Cao Đài ở núi Bà Đen
Tây ninh. Ở
đó, hai nhân vật chính, Fowler và Pyle gặp nhau với tất cả
những hành tung bí mật. Fowler đến Phát Diệm để viết tin tức cho
báo chí, nhưng Pyle cũng xuất hiện ở đó với lý do mù mờ , có vẻ
như thi hành một công tác tình báo nào đó. Và ở Tây ninh, trên
đường trở về Sìa Gòn xe hơi bị hết xăng và cả hai nhân vật
chính đã phải chạy trốn sự săn đuổi của lực lượng Việt minh.
Và, Pyle đã cứu sống Fowler trong lần chạy trốn ấy.
The Quiet American đã được
viết từ năm 1955, nhưng tới nay, khi đọc lại vẫn có chất thời
sự hấp dẫn. Và chính vì thế mà được dựng thành phim và chiếm
được nhiều giải thưởng giá trị. Với người Việt Nam, qua những
trang sách, lại thấy cả một thời kỳ sống lại. Dù, ở chủ quan của
một người ngoại quốc nhìn vào thực tế tình hình nên có nhiều
nét biểu kiến không phản ánh trung thực. Với Hà Nội, với Sài
Gòn, với cuộc chiến ờ Phát Diệm, ở Điện Biên Phủ, ở núi Bà Đen,
những nhân vật như Pyle, như Fowler, như Phượng, đã trở thành
những bóng dáng nhân vật tiểu thuyết làm người đọc khó có thể
lãnh đạm khi đọc tới…
Henry Graham Greene sinh
ngày 2 tháng 10 năm 1904 tại Berkhamsted, Hertfordshire. Là con
thứ tư trong sáu người, thuở nhỏ ông rất nhút nhát và nhạy cảm.
Ông không thích thể thao và dồn hầu như tất cả thời giờ vào việc
đọc sách nhất là những tiểu thuyết phiêu lư của Rider Haggard và
R.M. Ballantyne. Những tiểu thuyết này đã ảnh hưởng sâu đậm đến
đời sống ông và giúp ông tạo được một phong cách viết nhạy
bén và lôi cuốn.
Thuở nhỏ, ông là một dứa
trẻ không ngoan ngoãn trong học đường. Sau nhiều lần dự tính tự
tử, Greene bỏ học và viết thư cho cha mẹ rằng ông sẽ không
trở lại nữa. Ở tuổi 15, ông bị gửi lên Luân Đôn để chữa bệnh
bằng trị liệu pháp. Người chữa bệnh, Kenneth Richmond đã khuyến
khích ông viết văn và giới thiệu ông vào hôi văn học thân hữu
trong đó có cả nhà thơ Walter de la Mare
Ở Balliol College, ông học
lịch sử cận đại. Cũng như viết một thiên hồi ký tự thuật về
những ngày học ở đây. Ông đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm khi
làm biên tập viên cho tờ báo The Oxford Outlook.
Ông
cũng tỏ ra thích thú với chính trị sau khi liên lạc với đảng
Cộng sản (chỉ vui chơi thôi chứ không phải là sinh hoạt chính).
Ông đã viết tiểu thuyết Anthony Sant trước khi ra trường. Sau
khi tốt nghiệp cử nhân, ông vào làm việc tại Nottingham Journal
và hoàn tất tiểu thuyết Brighton Rock. Sau ông đổi job và làm
việc biên tệp trong The Times.
Ông
lập gia đình năm 1927 với Vivien và có 2 con một trai một
gái.Thời gian này ông viết tiểu thuyết chính trị The Episode
nhưng bị từ chối in. ông cố gắng gượng lại và hoàn tất tiểu
thuyết The Man Within. Vì cố gắng viết tiểu thuyết nên ông
phải rời bỏ công việc ở The Times mà ông ưa thích để trở thành
một người cầm bút tự do. Tác phẩm thứ hai là Stamboul Train và
một loạt sau là những tiểu thuyết được chuyển đổi thành điện
ảnh.
Greene viết bài điểm sách
và điểm phim cho báo The Spectator và làm phụ tá chủ bút cho
tạp chí Night and Day. Dù ông đã tự phân loại tiểu thuyết của
mình có loại văn chương có loại giải trí nhưng tác phẩm của ông
phần đông có nhiều độc giả và có tiếng vang khá lớn trên thế
giới. Sách của ông đã được chuyển ngữ với trên hai chục loại
ngôn ngữ khác nhau và có số lượng phát hamh lên tới hàng triệu
bản.
Ông
là người đi rất nhiều, ghé thăm nhiều nước trên thế giới vì bản
tính thích phiêu lưu cũng có nhưng có sự cố tình tìm kiếm chất
liệu và đề tài cho tiểu thuyết của mình. Là người viết truyện
ngắn, là tiểu thuyết gia, là người viết kịch, là người viết
báo, và cũng là người mang xu hướng chính trị vào văn chương.
Từ năm 1950, ông chuyển đổi đề tài từ tôn giáo sang thời sự
chính trị. Ông ở khách sạn Majestic ở Sài Gòn và thường hay du
hành sang Hồng Kông và Singapore. Năm 1953 ông qua Kenya, tường
thuật những biến cố của bô lạc MauMau và năm 1956 ông đã trải
qua nhiều tuần lễ ờ Poland và đã cố sức giúp dỡ một nhạc sĩ đào
thoát sang các nước tây phương.. Trong hồi ký Ways of Escape,
Greene đã kể chuyện về ‘ The Other “, nhưng chính thị là chân
dung của ông, mà tính danh thực có thể là John Skinner hoặc
Meredith de Varg. Năm 1950, The Other đánh mất hộ chiếu tại Aán
Độ, và đã bị hai năm ngồi tù. Ở thập niên sau, ông ta có hình
chụp chung với “ Missus Drink”, một người đàn bà hấp dẫn trên
báo chí ở xứ Jamaica. Vài năm sau ở Chile, sau khi tôi dùng bữa
trưa vơi 1tổng thống Allende, thì một tờ báo cực hữu ở Santiago
loan tin rằng tổng thống bị lường gạt bởi tay bợm quốc tế. Tô
đã tự tìm kiếm mình trong những ảo giác ngờ vực. Có phải là
người lường gạt bợm bãi trong thời gian ấy? Vậy ai là The
Other? Tôi có phải là Skinner? Hay có thể tôi là Meredith de
Varg?
Tiểu thuyết của Graham
Greene có hai tính chất chính. Một là chất của đ ạo Thiên Chúa
Giáo, ông đã được mô tả là “ Catholic novelist” với các tiểu
thuyết như Brighton Rock, The Heart of the Matter, The End of
the Affair, Monsignor Quixote, A Burnt out Case và tác phẩm nổi
danh The Power and the Glory. Hai là những tác phẩm về thời sự
chính trị mà The Quiet American là tiêu biểu. Cả hai tính chất
chính này, dù là tôn giáo hay chính trị, cũng đều mang chất
sống động, với một chút chua chát, với một văn phong sắc bén,
với một bố cục truyên chặt chẽ nhưng nhiều bất ngờ. Cho nên dù
ông không đoạt giải Nobel văn chương dù được đề cử nhiều lần,
ông vẫn là một khuôn dáng tác giả lớn của văn học toàn cầu thế
kỷ 20
|