Sun Shuyun :
Những đứa con lạc loài của Mao
-
Phan Quân - 4.06.2006
Trích dịch từ nguyên tác :
"Cuộc
Trường chinh" (The Long March),
Sun Shuyun, Harper Collins, 2006.
Cuộc Trường
chinh (1934-1935) của Mao Trạch Đông là một chuyện truyền thuyết góp
phần tạo dựng chế độ, một bài thơ ca ngợi cộng sản chủ nghĩa, mà cũng
là một kỳ tích của cổ động tuyên truyền, đă làm cho cộng sản Trung Quốc
nổi tiếng. Bảy mươi năm sau, bà Sun Shuyun đă t́m lại dấu vết của cuộc
hành tŕnh vĩ đại đó để biết rơ thực tế của vấn đề. Bà gặp lại nhiều cựu
binh đă thực hiện chuyến đi hùng tráng kia để viết lại những thực tế
thương tâm đàng sau những ǵ được coi như là anh hùng, là dũng cảm, là
kiên tŕ. Sau đây là một trích đoạn nói lên nỗi khổ của người phụ nữ
trong cuộc vận hành đầy màu sắc hoành tráng của cộng sản Trung Quốc.
|
Một buổi sáng rực rỡ tháng
Năm, Wang Quanyuan thức
giấc,
tâm tư tràn đầy hạnh phúc. Nàng đă trải qua một đêm hiếm có với người sĩ
quan, chồng mới của nàng. Nh́n ra bên ngoài căn nhà gỗ, nơi đóng quân
tạm thời ở tỉnh Tứ Xuyên, nàng thấy một cái hồ nước trong xanh, bao
quanh là cánh đồng lúa mạch, nằm trên bối cảnh là một dải núi cao đầy
tuyết, trông như bọc đường. Nơi nàng ở không có tuyết bao giờ. Lúc bấy
giờ là vào năm 1935, năm thứ nh́ của cuộc Trường chinh. Khi cưới nhau,
Wang không tiên đoán được những khó khăn trước mặt. Giá mà nàng thấy
trước th́ nàng sẽ phải phân vân giữa một bên là khăn khít với chồng hơn
nữa để có con và bên kia là nỗi sợ mang thai, một mối ưu tư nặng nề nhất
đối với những người phụ nữ trong chuyến đi vĩ đại xuyên suốt và ngang
dọc đất nước Trung Hoa. Nàng thuật lại rằng, mấy tuần lễ sau kỳ hành
kinh, "Tôi cảm thấy như tháo được chiếc cùm ở cổ. Tôi lẹ làng leo lên
cây dâu tầm ăn và hái một nắm lá. Đứng trên cây, tôi muốn la to cho làng
nước biết:"Tôi không có thai! Tôi không có thai!" Bà nói "người phụ nữ
sợ mang thai c̣n hơn sợ bệnh dịch nữa" [trong khi đang di chuyển].
Nhắc lại thời kỳ đó, gương
mặt dễ thương của bà Wang, năm nay 91 tuổi, vẫn c̣n mang dáng dấp của
nỗi niềm đau khổ, lúc tôi t́m ra được bà trên hành tŕnh đi t́m lại dấu
vết của cuộc Trường chinh. Đây là một chuyến đi dài tám ngh́n dặm của
Đảng cộng sản non nớt cùng với lực lượng vũ trang, sau này trở thành
huyền thoại cơ bản của nước Trung Hoa cộng sản, một biểu tượng của tính
nhẫn nại và ḷng quả cảm.
Trong số 200.000 người tham
dự cuộc Trường chinh, bắt đầu từ 1934, khi các đội Hồng quân phải rời bỏ
căn cứ ở Hoa Nam - nơi mà Mao Trạch Đông cầm đầu một chính phủ ngắn ngày
- để khỏi bị lực lượng quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch triệt tiêu,
chỉ c̣n có khoảng một phần năm được sống sót. Trong số
40.000 người đi tới
cùng và đến được miền Tây-Bắc hoang dă và cằn cổi - địa điểm tập trung
của cộng sản - hai năm sau đó, người ta nghĩ rằng hôm nay không đầy 500
người c̣n sống sót và giờ th́ cũng đă tám chín mươi.
Lên đường đi t́m lại dấu vết
người xưa trên hành tŕnh Tường chinh, tôi muốn làm cho ra lẽ những thực
tế đàng sau các truyền thuyết, gặp gỡ những người c̣n sống sót và yêu
cầu họ kể lại những chuyện đă qua. Sinh ra và lớn lên ở Trung Quốc vào
những năm sáu mươi, tôi được nuôi dạy với những câu chuyện oai hùng của
chuyến đi vĩ đại đó, cũng như hàng triệu thanh niên nam nữ Trung Hoa
khác. Chúng tôi được khuyên bảo nên làm rơ những khó khăn và hăy "nghĩ
đến những người của cuộc Trường chinh".
Trong ṿng mười tháng, chủ
yếu di chuyển bằng xe đ̣ và xe lửa, xuyên qua những địa điểm mang dấu ấn
Trường chinh - nay cũng như xưa chẳng có nhiều thay đổi - tôi t́m được
bốn mươi thành viên cũ của cuộc Trường chinh. Trao đổi câu chuyện với
họ, tôi nhận thấy rằng nay những nỗi khổ đau, những ǵ họ đă vượt qua
c̣n trầm trọng hơn những ǵ người ta đă kể, nhất là đối với phụ nữ. Một
vài thực tế được kể lại không nhằm nḥ ǵ với những chuyện hoang đường
của hành tŕnh lịch sử kia, và càng không thấm vào đâu so với thân phận
của trẻ con trong cuộc Trường chinh, trẻ con bị bỏ lại, trẻ con được gấp
rút giao cho người khác chăm nuôi sau khi chào đời trong khi đang di
chưyển và những người trẻ tuổi được tuyển mộ rồi lại bị bỏ rơi giữa
đường, nếu không theo nổi.
|
Chuyến
đi đó gồm có nhiều cánh quân vũ trang khác nhau, đi theo những con đường
khác nhau. Bà Wang là một trong số ba mươi người phụ nữ được chọn để
tháp tùng tám mươi sáu ngh́n người trong Đệ nhất Lục quân của Mao. Có
sáu bà bụng mang dạ chửa khi bắt đầu khởi hành và phải di chuyển bằng
cáng. Bà Wang kể lại:"Hăy tưởng tượng bụng to bằng quả dưa hấu th́ làm
sao mà đánh nhau với kẻ thù được? Thật buồn cười." Những bà bầu này
không thể bỏ lại được v́ đều là mệnh phụ phu nhân, toàn là vợ của cấp
lănh đạo trong Đảng, kể cả bà He Zizhen, vợ của Mao. Sở dĩ những người
phụ nữ chưa chồng khác, như bà Wang và một vài nữ đồng chí của bà, được
đi cùng là để khỏi bị chỉ trích là có ưu tiên dành cho các bà vợ của cấp
lănh đạo, trong khi quy luật của quân đội không chấp nhận mang phụ nữ
theo.
Bà Wang nh́n thấy một người
phụ nữ vừa đi vừa sinh con, cái đầu đứa bé lủng la lủng lẳng ra ngoài.
Một bà khác th́ gặp trở ngại khi sổ ḷng v́ bị quân Tưởng rượt đuổi nà
quá và bom đạn bay như mưa. Như chừng khiếp sợ cái thế giới thô bạo, đứa
bé không chịu chào đời. Toàn bộ trung đoàn hậu tập được lệnh chiến đấu
ác liệt trên hai tiếng đồng hồ và bị thiệt mất mười hai người. Ấy thế
mà, sau cơn đau đẻ khốn đốn đó, những người đàn bà kia đâu có giữ được
những đứa con của ḿnh. V́ quy định của Đệ nhất Lục quân có ghi rằng
tiếng khóc trẻ con có thể nguy hại cho quân sĩ. Hài nhi bé bỏng, khi ra
đời làm thiệt mười hai mạng sống của chiến sĩ, đă bị bỏ lại trên cái
giường rơm trong căn nhà bỏ hoang, chứng kiến giây phút chào đời của nó.
Khi bà He Zizhen, vợ của Mao
Trạch Đông, sinh con hồi đầu xuân năm 1935 cũng thế. Đây là lần thứ ba,
bà bị bắt buộc phải bỏ rơi con. Đứa con gái đầu ḷng của bà với Mao được
đem cho một bà nông dân khi bà và Mao phải tháo chạy, trốn khỏi một căn
cứ du kích. Kế đến là "Mao con", đứa bé giống hệt Mao nên mới có biệt
danh như thế. Thằng bé lên hai th́ Đệ
nhất
Lục quân bắt đầu cuộc Trường chinh. Không một ai được đem trẻ con theo,
kể cả Mao.
Bà He Zizhen khóc hết nước
mắt khi phải để "Mao con" lại cho người em bà chăm nuôi, cô em mà chồng
là em của Mao. Mao không có lấy một lời từ giả đứa con trai của ḿnh.
Mao đâu có biết được rằng sáu tháng sau đó em ông phải hy sinh v́ chiến
cuộc, mang theo xuống tuyền đài nơi ẩn trú của đứa bé, và Mao cũng không
buồn cho bà vợ biết chuyện đó. Bà He Zizhen không thể nghĩ là lại làm
thêm điều phi lư một lần nữa, chỉ có bốn tháng sau khi vừa bị đau thương
dằn vặt khi phải xa ĺa "Mao con".
Được hỏi muốn đặt con tên ǵ,
bà He Zizhen lắc đầu v́ nghĩ rằng sẽ không bao giờ
gặp lại con nữa. Bảo bọc bằng một chiếc áo, đứa bé được trao cho một bà
cụ, người duy nhất không bỏ chạy khi hay tin Hồng quân kéo đến. Ban đầu,
bà từ chối v́ không có sữa nên không thể nuôi dưỡng đứa bé. Nhưng khi
nh́n thấy một mớ tiền và vài chén thuốc phiện th́ bà thay đổi ư kiến.
Mấy năm sau, He Zizhen c̣n ân hận v́ đă quyết định như thế:"Thậm chí tôi
cũng không nh́n kỷ đứa bé. Tôi không rơ là nó ra đời ở đâu nữa."
Tháng Sáu 1935, Đệ nhất Lục
quân bắt liên lạc được với một cánh quân khác, Đệ tứ Lục quân, ở Tứ
Xuyên. Một nhúm phụ nữ của Đệ nhất Lục quân, kể cả bà Wang Quanyuan, hết
sức ngạc nhiên khi nh́n thấy hàng ngh́n phụ nử của Đệ tứ Lục quân, thậm
chí có cả một trung đoàn nữ quân nhân, về sau thuộc quyền chỉ huy của bà
Wang. Lư do chính là thuốc phiện. Ở Tứ Xuyên, gia đ́nh nào cũng trồng
cây thuốc phiện và phần đông những người đàn ông đều nghiện thuốc phiện.
Thường khi trẻ con cũng nghiện v́ khi trẻ khóc hoặc đau ốm th́ cha mẹ
cho trẻ hít thuốc phiện để vỗ về. Đàn bà cũng hút, nhưng không nhiều
bằng đàn ông, nên Đệ tứ Lục quân chẳng c̣n cách nào khác hơn là tuyển mộ
phụ nữ.
Những quy luật nghiêm nghặt
ngăn cấm những người lính trà trộn vào các đơn vị nữ quân nhân đă bảo vệ
được những phụ nữ này, nhưng làm ǵ ngăn cấm được quân thù. Về sau,
nhiều người thuộc trung đoàn nữ quân nhân này đă bị lực lượng của bọn
cường hào ác bá Hồi giáo ở miền Tây-Bắc bắt giữ và hăm hiếp. Lúc tôi
tiếp xúc, bà Wu Qingxiang đă 82 tuổi rồi mà vẫn c̣n rùng ḿnh khi nhớ
lại năm 12 tuổi - đang làm diễn viên văn công - bị chúng làm nhục. Bà kể
lại:"Sau khi hăm hiếp rồi, họ c̣n kháo nhau là bọn phỉ đỏ chăm sóc con
gái của chúng cẩn thận quá. Cô nào cũng c̣n trinh." Một cựu binh của
trung đoàn và cũng là nạn nhân của bọn hăm hiếp, bà Feng Yuxiang, cư ngụ
gần làng của bà Wu, cũng kể y như thế. Cứ tưởng tượng họ run rẩy trốn
trong một xó âm u nào đó, sau khi bị làm nhục lại c̣n nghe được những
điều đó mà năo ḷng!
|
Bên Đệ tứ Lục quân, nữ quân
nhân có thể đem chồng con theo trong lúc đầu, nếu không th́ họ sẽ bị lạc
mất. Một vài người đàn ông có cả gia đ́nh đi theo v́ nếu ở lại th́ họ sẽ
bị quân của Tưởng giết. Trẻ em nhiều tuổi hơn được giao nhiệm vụ giao
liên, đưa tin, hộ lư và thổi kèn. Bà Ma Haidiche, một trung đoàn trưởng
nữ quân nhân, nay đă vào tuổi chín mươi và sinh sống tại một thành phố
Hồi giáo thuộc tỉnh Cam Túc, nằm về miệt Tây-Bắc xa xôi của Trung Quốc,
tâm sự:"Trông thấy đàn ông cơng trẻ con hoặc những em bé nhô đầu ra khỏi
mấy cái sọt trên ḿnh ngựa th́ ai mà nghĩ rằng đó là một đạo quân bao
giờ."
Bà c̣n nhớ một bà mẹ đi trước
bà, tay dắt một đứa bé, tay kia một chiếc chiếu, đàng sau bà là một bé
gái cơng em trên lưng. Mấy ngày sau, bà gặp lại bà mẹ đó nữa, nhưng
không thấy mấy đứa nhỏ đâu hết. Bà Ma trầm tĩnh nói:"Có lẽ bà ta đă trao
mấy đứa nhỏ cho người nào rồi. Thế là mấy đứa nhỏ gặp hên." V́ sau đó
cánh quân sẽ tiến vào thảo nguyên miền viễn Tây của Tứ Xuyên, chẳng có
thức ăn mà cũng không có làng mạc ǵ th́ làm thế nào có người để rước
những đứa bé bị bỏ lại dọc đường. Có chút lương thực thực phẩm ǵ là
phải để dành cho quân lính. Vậy mà, nhiều nữ quân nhân trong đơn vị của
bà Ma cũng bị chết v́ đói ăn. Bà cho biết:"Nhiều lúc đói quá đứng không
vững nữa. Chết đi c̣n dễ hơn là sống ở đời. Muốn chết đi cho rồi, chẳng
biết tại sao nữa." Ngày nay, bà c̣n cảm thấy khủng khiếp khi hồi tưởng
lại cảnh một người phụ nữ nhận ch́m con ḿnh xuống đầm lầy v́ không chịu
nỗi tiếng khóc của đứa bé đói ăn.
Cháu gái, He Jiesheng, con
mới sinh của bà He Long, chỉ huy trưởng Đệ nhị Lục quân, gặp nhiều may
mắn hơn. Bố cháu bế cháu theo v́ không t́m được một gia đ́nh nào chịu
lănh một đứa bé vừa ra đời có ba tuần lễ. Bồng ẵm cháu khó khăn không
ít. Bà mẹ của cháu nói rằng:"Con bé nhà tôi c̣n nặng hơn khẩu súng máy!
Nếu là đàn ông, thà tôi vác súng máy c̣n hơn. Ít ra, tôi c̣n có thể đánh
nhau nếu gặp địch." Bà He Long thử giúp chồng ẵm bé, nhưng v́ đói quá
nên cháu cứ chui vào ngực bà để t́m vú mẹ. May mắn thay, bà He Long t́m
thấy được nhiều cá v́ người Tây Tạng, sinh sống trên đồng cỏ Tứ Xuyên
không ăn cá. Thế là em bé sống sót. Đó là một con người ít tuổi nhất đă
hoàn thành được hai năm Trường chinh. Nay, đă bảy mươi tuổi và sinh sống
ở Bắc Kinh, bà bùi ngùi nh́n lại quăng đời đă qua, một khoảng thời gian
đă đưa bà đến cấp tướng hiếm hoi trong quân đội Trung Quốc.
Hồng quân cũng có đông đảo
tân binh trẻ tuổi, được gọi là bọn "Tiểu yêu đỏ", phần lớn ở tuổi mới
lên mười. Không ai biết chắc được quân số này. Bà Wang cho rằng chừng
khoảng năm, sáu ngh́n trên quân số một trăm ngh́n của Đệ tứ Lục quân và
cũng ngần ấy ở Đệ nhất Lục quân. Li Wenying được mười bốn tuổi trong
thời kỳ Trường chinh. Cô bị đem đi bán để làm dâu và gặp phải một bà mẹ
chồng độc ác. Cũng như những "Tiểu yêu đỏ" khác, nàng nhập bọn để ăn
uống đẫy bụng và thỉnh thoảng ăn cả thịt lợn nữa. Bà nói thêm:"Hồi c̣n
bé, thấy lợn chạy đầy nhưng có bao giờ biết thịt lợn ăn ra làm sao. Chỉ
có địa chủ mới được ăn."
Trong quá tŕnh t́m theo dấu
vết Trường chinh, tôi bắt gặp một bản báo cáo trong hồ sơ lưu trử ở Tứ
Xuyên. Tài liệu đó do các viên chức Quốc dân Đảng thảo ra, nói rơ những
người lính lạc lơng của Hồng quân bị bỏ rơi lại trên xứ sở của họ. Ḷng
tôi đau nhói khi ḍ xem qua các danh sách, thấy họ c̣n trẻ quá, một nửa
vừa lên mười và trẻ nhất chỉ có chín tuổi. Ở thảo nguyên xa xôi hẻo lánh
tỉnh Tứ Xuyên, tôi t́m gặp được một người trong bọn tên Sangluo, nay đă
ngoài tám mươi. Ông ta gia nhập đội quân của bà He Long năm 13 tuổi ở
miền Đông xa xôi của tỉnh Hồ Nam. Nhưng, khi đến vùng thảo nguyên th́
ông ta không theo kịp đà của bước đi Trường chinh. Một buổi sáng, khi
ông ta thức giấc th́ đoàn quân đă đi mất. Cánh quân đă bỏ lại trên một
ngh́n người ốm đau, thương tích và lũ trẻ. Ông ấy kể lại:"Thế là tôi
khóc sướt mướt. Hồng quân chẳng khác nào bố mẹ tôi. Sao họ lại đành đoạn
bỏ rơi tôi như thế?"
|
Tuổi
trẻ đă cứu ông v́ những gia đ́nh người Tây Tạng vùng thảo nguyên muốn có
một đứa con trai, hoặc giả họ thấy thương t́nh một đứa bé. Một thày Lama
đă đem ông về cho mẹ của thày chăm nuôi. Gần như suốt cuộc đời sinh sống
cô lập ở vùng đồng cỏ, không có một người Hoa gốc Hán nào, ông không c̣n
nói tiếng Trung Quốc được nữa mà cũng chẳng c̣n nhớ đến sinh quán. Con
người đứng trước mặt tôi trông hoàn toàn là dân Tây Tạng, da mặt nhăn
nheo, đỏ sậm như màu áo của ông, những ngón tay cong queo v́ thấp khớp,
một tai họa của những người dân du cư. Ông tỏ vẻ biết ơn Trời Phật đă
cho ông c̣n sống được tới ngày hôm nay v́ phần đông những đứa trẻ bị bỏ
lại cùng với ông đă chết v́ đói hoặc bị dân địa phương giết chết. Khi
cáo biệt, tôi hỏi vậy chớ ông cảm thấy ḿnh là người Hoa hay người Tây
Tạng. Ông trả lời:"
Đâu thành vấn đề, cô."
C̣n những trẻ em chẳng bao
giờ được đem theo trong hành tŕnh Trường chinh, bị bỏ lại khi cha mẹ
chúng ra đi th́ sao? T́nh h́nh của chúng chẳng có ǵ khả quan hơn. Khi
chiếm được các căn cứ địa cộng sản th́ quân của Tưởng Giới Thạch tàn sát
những người thân cộng và thường th́ cắt xén hay banh da xẻ thịt những
đứa trẻ được giao cho những người này chăm nuôi. Một khi những gia đ́nh
chăm nuôi những đứa trẻ bị bỏ lại biết được những ǵ sẽ xảy đến th́ họ
đem bán đi hay đưa đi trốn. Thế nhưng, có những người yêu mến những đứa
trẻ mà họ chăm nuôi và không chịu được cảnh cha mẹ chúng trở về mà không
thấy mặt con nên họ đă dọn nhà đi nơi khác. Hậu quả là rất ít có người
Hồng quân nào đi theo cuộc Trường chinh mà nh́n lại được mặt con bao
giờ.
Ngay khi cộng sản nắm quyền
hồi 1949, He Zizhen, lúc bấy giờ không c̣n là vợ của Mao nữa, đă cùng cô
em và cậu em đi t́m ba người con lạc loài của Mao. Cô em chết v́ tai nạn
xe hơi cùng với một cậu bé được cho là "Mao con", cũng được một cựu binh
khác nh́n là con của ḿnh. C̣n em trai của bà nghĩ rằng đă t́m được đứa
con gái lớn và một "Mao con" khác. Bà He Zizhen lập tức đi Nam Kinh để
nh́n đứa bé và quả quyết rằng đó là con của bà, căn cứ ở chỗ lổ tai nhờn
và mùi hôi nách của nó mà bà cho rằng cả năm đứa con của bà với Mao đều
y như thế. Nhưng đứa bé này cũng có một người khác nhận, với sự bao che
của Đảng. Thay v́ để mất đứa bé, bà He Zizhen quyết định chia sẻ với hai
ông bà đă nhận đứa bé là con ḿnh rồi tiếp tục gắn bó với nó và dành cho
nó nhiều t́nh thương và quà tặng. Nhưng, bà không làm sao quên được đứa
bé là con trai duy nhất của bà với Mao c̣n sống sót dù cho Mao đă từ bỏ
cả hai người từ lâu. Mối bận tâm v́ đau khổ và mất mát làm cho bà phải
vào ra bệnh viện tâm thần suốt quăng đời c̣n lại.
Mấy mươi năm sau, cuộc t́m
kiếm vẫn tiếp tục. Tháng Mười Một năm 2003, hai thanh niên người Anh đă
làm cho báo chí phải xôn xao khi họ loan báo cho thế giới là có lẽ họ đă
t́m ra được người con gái của Mao, bị thất lạc từ lâu qua cuộc Trường
chinh. Cách duy nhất để chứng minh lai lịch của cô gái là đối chiếu với
ADN của người con gái của Mao đă được biết là c̣n sống sót. Nhưng cô này
lại không chịu hợp tác. Có nhiều người nhận dạng quá có thể nỗi đau mất
mát của gia đ́nh Mao và của tất cả những người tham dự cuộc Trường chinh
không bao giờ tan biến
được.
C̣n bà Wang th́ sao? Chuyện
con cái cứ ám ảnh bà suốt đời. Nhưng cũng giống như hai phần ba những
người phụ nữ sống sót mà tôi đă gặp th́ điều kiện sinh sống trong hành
tŕnh Trường chinh như, đói ăn triền miên, cái lạnh thấu xương của miền
núi, cuộc đi liên tục không ngừng nghỉ xuyên qua đường đất chập chùng,
đă làm cho họ tuyệt đường sinh sản. Bà đă nhận nuôi bảy trẻ mồ côi,
nhưng kẻ trước người sau họ đều bỏ bà ra đi, cho rằng bà không phải là
mẹ của họ. Niềm an ủi duy nhất là có hai người con nuôi của bà cưới
nhau, tiếp tục sinh sống với bà và săn sóc bà trong buổi chiều tà xế
bóng. Bà tiếc là không thể tự ḿnh sinh con đẻ cái. Nhưng lời nói cuối
cùng của bà với tôi là:"Đó là cái giá bé nhỏ phải trả cho cuộc cách
mạng."
Phan Quân
Trích "Cuộc
Trường chinh" (The Long March),
Sun Shuyun, Harper Collins, 2006.
|