Trần Đỗ Cung - Chứng nhân lịch sử cận đại |
Phạm
Ngọc Thảo, Ông là ai ?
Tôi quen Phạm Ngọc Thảo từ năm 1939. Lúc ấy tôi mới nhập học
Quốc Học Khải Định sau khi đậu bằng Thành Chung ở Thanh Hóa. Lớp có
cả thẩy 40 học sinh, 33 Nam và 7 nữ gồm đủ thành phần đến từ nhiều
nơi nhưng đều là người Trung chỉ trừ có Nguyễn Khắc Hoạch là cháu
họa sỹ Mai Trung Thứ dậy vẽ ở đây và anh chàng cù-không-cười Nguyễn
Khải Tạo, có nét mặt tưng tửng mỗi khi lên bảng làm cả lớp khúc
khích, là dân Bắc Kỳ rau muống. (Tiến Sỹ Văn Chương Nguyễn Khắc
Hoạch là Khoa Trưởng Văn Khoa Sài Gòn. Sau này ông trở thành Viện
Trưởng Viện Việt Học thay thế Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa).
Được ba ngày sau Censeur Giamachi dẫn vào lớp một học sinh
mới trông hơi khác lạ, có cái tên Tây Albert Phạm Ngọc Thuần, nước
da mai mái đậm đà và có cái mắt trái lác xệch. Anh là người độc nhất
Nam Kỳ, mặc quần short đến đầu gối để lộ cặp giò khẳng khiu. Anh
được xếp ngồi cạnh tôi, ăn nói nhỏ nhẹ vói một giọng miền Nam trầm
bổng và hay chêm tiếng Tây vào câu chuyện. Trong nội trú anh cũng
nằm giường cạnh tôi, luôn luôn tĩnh lặng củ mỉ cù mì giữa một đám ồn
ào nhất quỷ nhì ma. Những ngày cuối tuần anh thường rủ tôi đi thăm
Hồ Tĩnh Tâm ngồi trầm ngâm ngắm sen thơm ngát và nói toàn chuyện
cách mạng Pháp. Anh ta rất ghét cái dữ tợn của Robespierre và Marat
và yêu tư tưởng xã hội Rousseau và Voltaire. Anh cũng bàn về cái quá
khích và vô nhân bản của Marx-Lenin với chủ trương bạo lực quá độ và
duy trì chính quyền bằng bạo lực.
Cuối năm học không thấy Albert trở lại, nghe nói đã được gia
đình gửi qua Pháp du học. Mãi đến tháng Mười 1945 tôi mới tình cờ
gặp lại anh mà lại ở Hà Nội? Hôm ấy khoảng 10 giờ tối, đã có sương
mù giầy đặc và khí hậu bắt đầu xe lạnh, tôi đang đứng trước thềm nhà
A thì Albert hiện ra như trong phim trinh thám. Tôi không nhận ra vì
anh mặc bộ bà-ba đen, cổ quấn chiếc khăn rằn ri mầu hồng thẫm của
dân miệt vườn Nam Kỳ. Đầu anh đội chiếc mũ vải mềm mầu nâu mà vành
uốn lượn lên cụp xuống, chân anh đi đôi dép quai chéo, đế bằng vỏ
lốp xe hơi. Anh hấp tấp bắt tay tôi và nói thẳng một lèo, “Moi mới
ra vội vã lắm để dự khoá họp Quốc Hội đầu tiên trong phái đoàn Nam
Bộ; đêm nay người ta xếp cho cả bọn ở đây và mai phải đi rất sớm”!
Là một thanh niên chỉ biết yêu nước và ghét ngoại bang đô hộ, tôi
chả có chú ý gì đến chính trị và những khúc mắc về cơ cấu chính
quyền nên tôi đã không níu kéo anh vài phút để ít nhất biết phái
đoàn có những ai và làm công việc gì? Như vậy cuộc gặp gỡ sau sáu
năm chỉ có không đầy năm phút mà thôi.
Rồi thời gian qua với trận Điện Biên Phủ đánh dấu sự chia cắt
đất nước Bắc Nam. Tôi vào làm việc tại Sài Gòn rồi nhập ngũ qua học
ở trường Không Quân Pháp Salon de Provence. Khi trở về thì miền Nam
đã có chính thể Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong khi trái
lại Bắc Kỳ đã thành Cộng Hòa Nhân Dân Mác Xít. Vào khoảng 1955 nghe
nói đến một cán bộ hồi chánh tên là Phạm Ngọc Thảo về làm việc tại
Viện Hối Đoái. Về sau y được Bộ Nội Vụ cho đeo lon Đại Úy và giao
làm với Bảo An Tỉnh Đoàn Vĩnh Long. Rồi được bổ Tỉnh Trưởng Bến Tre.
Bến Tre mà tên cũ là Thủ Đầu Một là một tỉnh trù phú và Việt Minh
dùng làm nơi dưỡng quân. Tỉnh Trưởng mới hết sức năng động, hay đứng
giữa công chúng diễn giảng và lập lại hoàn toàn an ninh địa phương.
Một thời gian sau tỉnh trưởng được thay thế vì đã hoàn tất nhiệm vụ.
Năm 1960 sau vu đảo chính nhẩy dù với Vương Văn Đông, Nguyễn
Triệu Hồng đã lắng thì một hôm tôi đang ngồi ngáp ruồi ở Bộ Tư Lệnh
Không Quân bỗng nhiên điện thoại reo. Uể oải nhấc máy lên thì đầu
giây bên kia một giọng Nam chay nói, “Tôi là Trung Tá Phạm Ngọc
Thảo, tôi muốn gặp Đại Úy Trần Đỗ Cung”. Tôi vội trả lời, “Vâng thưa
tôi đây nhưng Trung Tá cần gì và Trung Tá là ai”? Thì được trả lời
ngay, “Albert Phạm Ngọc Thuần bạn học anh ở Lycée Khải Định đây, còn
nhớ không”? “Nhớ chứ, nhưng anh đổi tên từ hồi nào và tôi nghe nói
anh làm Tỉnh Trưởng Bến Tre kia mà”? Thảo nói, “Xong việc rồi, giờ
moi ngồi tại văn phòng cố vấn chánh trị trên đường Hồng Thập Tự, xế
cửa Cercle Sportif. Có rảnh thì ghé lại chơi, chúng mình sẽ nói
nhiều kỷ niệm thời 1-S năm xưa Cung nhé”!
Một hôm nhân đi tập với Maitre Vatin tôi ghé lại. Cũng hơi
khớp vì nghĩ là mình sẽ vào hang hùm đây. Tôi dựa chiếc Velo Solex
vào giá và một lính gác mặt lạnh như tiền bước đến. Sau khi xem giấy
tờ hắn khám người tôi cẩn thận và hướng dẫn tôi đến bàn giấy Trung
Tá Thảo. Tôi thấy anh không khác xưa mấy, cũng nước da mai mái, cũng
cái mắt lác xệch, cũng dáng người mảnh khảnh, có chăng là bây giờ
anh không mặc quần short nữa mà đóng bộ quân phục gọn gàng với hai
đôi hoa mai bạc. Thảo bắt tay chặt chẽ và mời tôi ngồi, sai lính đem
cho tôi một ly soda. Chúng tôi chuyện trò cả nửa giờ, hết các thầy
rồi qua các chị, cảm động với bao nhiêu kỷ niệm hồi tuổi trẻ trong
trắng hồn nhiên. Tôi đứng dậy đi qua Cercle Sportif cho kịp lớp thể
dục tập thể. Thảo tiễn tôi ra đến cửa và nói bâng quơ, “không biết
còn bao nhiêu bạn cũ ở Sài Gòn, nếu gặp nhau một bữa thì chắc vui
lắm nhỉ”! Tôi chỉ gật gù qua loa đồng ý.
Trong lúc tập thể dục và nhất là khi đi tắm tôi nghĩ đi nghĩ
lại lời nói bâng quơ của bạn và chợt nghĩ đến bạn Phạm Qụy, một Luật
Sư nổi tiếng, có tư gia sang trọng ở số 132 Dường Công Lý. Có thể
nếu anh ta nhận lời đứng tổ chức một bữa ăn tối thì hay quá. Sáng
hôm sau tôi điện thoại cho Qụy và Qụy hết sức hoan nghênh ý kiến.
Được vài hôm anh ấy liên lạc được vài bạn cũ và mời đến dùng cơm
tối. Tối hôm ấy có độ mười người như Hải Quân Trung Tá Võ Sum, chị
Ngọc Trâm tức ca sỹ Minh Trang, Phó Tổng Giám Đốc Điện Lực Tôn Thất
Uẩn, Phó Tổng Giám Đốc Quan Thuế Đoàn Hòa, Trần Ngọc Nhụy em Tổng
Giám Đốc Nông Tín Cuộc Trần Ngọc Liên, Hồ Tường, Trung Tá Phạm Ngọc
Thảo, tôi Đại Úy Không Quân và anh chị Phạm Quỵ.
Bữa cơm đặc Huế ngon miệng do bàn tay khéo léo của bà chủ
nhà kéo dài mấy tiếng đồng hồ, ai nấy tranh nhau kể lại các chuyện
vui thời học trò vô tư và vô sự. Nào là nét cá biệt của mỗi thầy,
những đặc tính của một vài bạn. Trên lầu nội trú, Trần Kế Tạo anh
ruột chị Qụy lẻn vào phòng thầy Quốc đổ đầy nước ướt sũng rương quần
áo của giám thị. Sự ẩu đả giữa Tôn Thất Uẩn và Hoàng Tuệ lăn cù xéo
nát mấy luống rau cải vì “hai con gà cồ” tức nhau tiếng gáy Ngọc
Trâm. Đến đây thì chị Trâm trố mắt nói tôi không biết chuyện ấy và
Tôn Thất Uẩn đỏ mặt bảo đâu có. Chuyển qua chuyện chị Trâm lấy thầy
Quả và được đích người đẹp nói là tuổi trẻ quá bồng bột mà Thầy Quả
thật có duyên. Những tiếng cười vang với những tràng vỗ tay bôm bốp
kéo dài cho đến mười một giờ đêm thì chia tay, tiếc một đêm họp mặt
mau tàn.
Sau khi hai phi công Quốc và Cử dội bom dinh Độc Lập vị Tư
Lệnh đương nhiệm dẫn toàn thể sỹ quan tham mưu lên trình diện Tổng
Thống tại Dinh Gia Long để nghe ông Ngô Đình Diệm đơn ca hiểu thị
với giọng Huế đặc xệt mà không nhìn thẳng vào mặt cử tọa đứng cứng
ngắc. Về đến Tân Sơn Nhất thì Tư Lệnh “mặt đỏ xần mũ đội lệch” cho
gọi tôi vào hất hàm nói, “Đại Tá Đỗ Mậu gọi, anh đi trình diện lập
tức”! Lên an ninh quân đội có nghĩa là nhìn thấy cơ nguy tra khảo
đánh đập nên tôi hết sức rét. Nhưng không ngờ tôi lại được vị Đại Tá
“mặt sắt đen xì” tiếp một cách rất thân tình và thông báo sẽ ký giấy
thuận cho lên Thiếu Tá. Trở về bàn giấy ngáp ruồi văt để được Tư
Lệnh dằn mặt, “Anh tưởng anh được ông Đỗ Mậu che chở mà xong hả?”
thì điện thoại lại reo vang. Đầu giây bên kia Phạm Ngọc Thảo nói
“moi đang theo học Anh Ngữ bên này để sửa soạn đi học tham mưu Fort
Leavenworth; Cung có rảnh thì sang đây ăn cơm trưa và mình sẽ ghé
qua đón”?
Đúng 12 giờ trưa Thảo lái xe Jeep qua và tôi theo anh ta qua
Tổng Tham Mưu, định tâm sẽ cùng anh ghé ăn trưa tại Câu Lạc Bộ Sỹ
Quan. Nhưng Thảo quẹo trái ngay khi qua cổng, đậu xe trước giẫy nhà
hai từng của các Tướng. Tôi đi theo anh lên lầu, quẹo phải đến căn
áp chót của Đại Tá Đỗ Mậu , kế cận căn của Trần Thiện Khiêm và anh
thản nhiên mở cửa cho tôi cùng vào. Tôi gặp một Trung Tá lục quân lạ
mặt thì được Thảo giới thiệu là Trung Tá Phạm Đăng Tấn, phụ tá của
Đại Tá Đỗ Mậu. Trung Tá Tấn mở tủ lạnh đem ra bàn ăn các đồ nguội
jambon-saucisse, bánh mì và xếp đặt bàn cho ba người cùng ngồi ăn.
Thảo mở đầu ngay, nói về tình hình chính trị rối ren nguy hiểm và
cần thay đổi để cứu vãn vì ta đang đương đầu với bọn cộng sản mưu mô
và xảo quyền với tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của chúng.
Một cuộc đảo chính đang được hình thành hầu xoay lại tình thế
trước đe dọa gia tăng của cộng sản. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như ông bên
cạnh Trần Thiện Khiêm đã đồng ý và đã có nhiều đơn vị cùng các Tướng
Lãnh sẵn sàng tham gia. Tôi ngồi nghe chăm chú, suy nghĩ cho bản
thân đang bị trù dập bởi cánh Cần Lao. Bỗng Thảo nhìn thẳng mặt tôi
hỏi, “Cung, toi phải nắm lấy Không Quân. Chỉ cần toi cho vài chiếc
máy bay lên bay vè vè và đưa ra một số ít binh sỹ đứng các ngả đường
huy trương thanh thế, không cần biết bắn cũng được. Đã có kế hoạch
đối với Hải Quân, có thêm Không Quân thì hoàn toàn”.
Tôi nói ngay, theo tập quán trong quân chủng người chỉ huy
cần phải là phi hành mà tôi chỉ là dân kỹ thuật bò sát nên không làm
được. Tấn hỏi ngay, “anh có thể đề nghị một tên không”? Tấn nắm vững
tình hình các sỹ quan nên đã cùng tôi duyệt đủ tên chỉ huy trong
Không Quân. Nhìn đi nhìn lại, nào Võ Dinh, nào Nguyễn Ngọc Oánh, Võ
Xuân Lành rồi Nguyễn Huy Ánh, Võ Công Thống, thấy chẳng ai có thể
thích hợp nên tôi nẩy ý kiến đề nghị Nguyễn Cao Kỳ đang bị thất sủng
mất chức chỉ huy Liên Phi Đoàn Vận Tải và có lệnh đổi ra Nha Trang
làm huấn luyện viên bay. Tấn nói hay lắm và anh có thể móc nối Kỳ
được không?
Tôi nói ngay sẽ cố gắng tuy nhiên sự giao hảo giửa tôi với Kỳ
không tốt đẹp lắm. Tôi kể lại hồi làm với Trần Văn Hổ tôi hay mò
sang đơn vị của Kỳ mỗi buổi trưa, leo lên phi cơ và rút túi chiếc
mouchoir trắng tinh ra tuốt các giây cable điều khiển đuôi và bánh
lái. Khi tôi thấy hầu hết các cables có các sợi nhỏ bị tưa đứt vướng
các sợi chỉ trắng nên tôi đề nghị ông Hổ cho ngưng bay tất cả các
C-47 chờ thay cables mới. Trong buổi họp trên bộ Tư Lệnh Kỳ nổi sùng
chỉ mặt tôi nói, “kể từ nay tôi không muốn ông Đại Úy Cung leo lên
phi cơ của tôi mà không có phép của tôi”. Trung Tá Hổ liền ôn tồn
nói, “Ông Đại Úy Cung làm là thay mặt cho tôi”. Và Kỳ im bặt rồi từ
đó chúng tôi rất lạnh nhạt với nhau. Cả Tấn và Thảo đều đồng thanh
nói, “chuyện vặt mà, anh Cung cứ cố gắng”! Tôi thêm “Kỳ là một thứ
Don Quichote, hùng hổ nhưng trí đoản và liều mạng. Và anh ta đang
bất mãn lắm”!
Về đến nhà tôi mở tủ lấy ra một chai Johnny Walker Black
Label trong số rượu quý mà học trò ngoại quốc biếu tôi và bỏ vào túi
giấy. Sáng hôm sau tôi qua bàn giấy Kỳ thì thấy anh ta đang lúi húi
dọn dẹp các ngăn kéo ý chừng để bàn giao cho chỉ huy trưởng mới. Tôi
để túi đựng chai rượu lên bàn và nói, “Tôi có nhiều rượu quý học trò
ngoại quốc biếu mà không biết uống; nay thấy anh sắp đổi nhiệm sở
tôi đem sang làm quà để anh thưởng thức”. Kỳ rút chai rượu ra ngắm
nghía, xiết chặt tay tôi và cám ơn.
Trưa tôi về nhà vừa sửa soạn ngồi vào bàn ăn thì xe Jeep Kỳ
xịch tới. Anh ta chậm rãi bước lên thềm và ngồi vào sofa. Tôi chạy
đến ngồi cạnh thì Kỳ nói, “Moa cám ơn toa cho moa chai rượu ngon.
Nhưng moa thắc mắc mãi, phải đến hỏi toa có cái gì đằng sau vậy”?
Kể ra thì cũng tinh khôn thật. Tôi liền nói chuyện này rất nguy hiểm
anh phải giữ kín như bưng. Kỳ gật gù và tôi kể buổi họp với Tấn và
Thảo trong căn nhà của Đỗ Mậu. “Nếu anh đồng ý thì họ sẽ liên lạc
phối hợp thẳng với anh. Nhưng phải hết sức kín nếu không cả anh và
tôi sẽ toi mạng”! Kỳ không nói đi nói lại, chỉ xiết tay tôi thật
chặt và thêm vắn tắt, “OK”!
Tôi thông báo cho Tấn và Thảo thì họ mừng lắm và Thảo bảo tôi
liên lạc thường xuyên với anh tại tư gia số 51 Đường Tự Đức, căn dặn
nên cẩn thận, dùng Taxi trả tiền trước đề phòng con mắt của Mật Vụ.
Một lần tôi đến nhà Thảo trong một biệt thự công có lính gác. Hôm ấy
vào khoảng đầu tháng Mười 1962 tôi ngồi với Thảo ở chiếc bàn gỗ dưới
dàn cây leo. Thảo cho tôi biết qua loa kế hoạch, khi nổ súng thì hai
chúng tôi đều mỗi người ngồi trên một xe thiết giáp của Dương Hiếu
Nghĩa tiến về dinh Gia Long. Vậy tôi phải liên lạc mật thiết với
Thảo để biết ngày N, giờ G và địa điểm thiết giáp. Lúc đầu dự trù
vào ngày 26 tháng Mười nhưng vì kế hoạch Bravo và Anti Bravo của ông
Nhu nên phải hủy bỏ.
Một hai lần khác đến tôi mới biết là Thảo đã cho vợ con qua
Mỹ trước và tôi được gặp một hai cấp chỉ huy quan trọng mà tôi không
nhớ tên, ăn mặc thường phục. Lần cuối cùng tôi đến nhà Thảo là sáng
ngày 29 tháng Mười. Tôi mới mua một chiếc xe Morris 1100 mới toanh,
đậu bãi trước Sở Thú và trả tiền bao thuê taxi đến 51 Tự Đức. Khi
Taxi vừa đậu trước cổng và tôi nhận chuông thì anh lính gác mở hé lỗ
vuông cổng sắt rồi nói vắn tắt “có mật vụ”. Liếc mắt qua bên kia
đường thì thấy hai nhân viên nhà đèn mặc áo liền quần xanh đang lúi
húi ghi chép. Tôi nhẩy phắt lên taxi về Sở Thú. Khi đi ngang một nhà
có bảng SỞ XÃ HỘI PHỦ TỔNG THỐNG thì thấy bóng một xe Jeep phóng ra.
Tôi vội vã lái xe mình trực chỉ Tân Sơn Nhất, vượt qua cả đèn đỏ
nhưng qua kính chiếu hậu không thấy xe đuổi theo. Về đến nhà tôi lo
lắng nghĩ rằng chỉ nội đêm nay hay mai chúng sẽ đến tìm mình và
không dám ra khỏi cổng Phi Long, vợ con chẳng biết mô tê gì hết!
Bởi vậy khi nổ súng tôi đã không có mặt trên xe thiết giáp chỉ
định mà tôi ngồi ở bàn giấy thường lệ, hai chân gác lên mặt bàn
thoải mái, với một cái radio nhỏ vặn vừa nghe. Mấy sỹ quan Không
Quân có lẽ cho rằng tôi là người biết chuyện, luôn ghé lại hỏi thăm
tình hình. Độ bốn giờ sáng thì Nguyễn Cao Kỳ ghé qua với bốn năm thủ
túc súng ống đầy mình. Họ đều mặc quần áo bay xám, riêng Kỳ trưng
một bộ màu cam của Hải Quân Mỹ. Kỳ nói với tôi bằng một dọng khẩn
cấp, “Cung, toa ở đây lo Không Quân để moa đi bắt thằng Hiền rồi
thằng Sang”. Huỳnh Hữu Hiền mới được bổ nhiệm thay Nguyễn Xuân
Vinh đi Mỹ còn Phạm Ngọc Sang thì luôn luôn lái máy bay cho Tổng
Thống. Cả hai đều là người Nam, tính tình hiền lành vô sự. Tôi tự
nghĩ mình lo Không Quân thế quái nào được, chẳng có đàn em thân tín
nào mà cũng chưa bao giờ đụng đến súng.
Hơn nữa tên Tham Mưu Trưởng Đỗ Khắc Mai, Cần Lao Gộc sờ sờ
ra đấy mà Kỳ đã vô tâm không cô lập. Bởi vậy trong lúc nhốn nháo Mai
điện thoại cho các Tướng phúc trình, “Thưa Không Quân yên tĩnh,
em chu toàn mọi viêc ở đây”. Do đó các Tướng làm lệnh cử Mai Tư
Lệnh Không Quân và Kỳ bị hất cẳng. Ngay hôm sau có giấy Đỗ Mậu gửi
sang thăng cấp Đại Tá cho tôi vì có công với cách mạng. Mai đưa tôi
xem rồi xin để Không Quân đề nghị lên hầu giữ hệ thống chỉ huy. Ngay
hôm sau có lệnh cho Mai đi Tùy Viên Quân Sự ở Bonn, Kỳ nắm lấy Tư
Lệnh Không Quân và sự việc bị chôn vùi. Tôi chẳng để ý gì cái vặt ấy
vì trong thâm tâm chỉ muốn xuất ngũ. Hơn nữa mình đâu có nghĩ là có
công cán gì với cách mạng? Khi Tướng Đỗ Mậu được chỉ định chức Ủy
Viên Văn Hóa cho gọi tôi và Thảo lên làm việc với ông ta, tôi cũng
lờ như không biết.
Tình hinh chính trị Sài Gòn trở nên lộn xộn khi các Tướng
trong Hội Đồng Quân Lực chia chác quyền hành và thi nhau gắn lon gắn
sao cho đồng bọn. Cái bát nháo này làm cho Mỹ điên đầu và Hà Nội
thấy cơ hội ngàn năm một thuở đã đến. Trong thời kỳ này Nguyễn Khánh
đã bứng Trần Thiện Khiêm đi làm Đại Sứ tại Washington đem theo tùy
viên báo chí Phạm Ngọc Thảo. Nguyễn Khánh cho lệnh gọi Thảo về nhưng
Khiêm đã lo giấy tờ cho Thảo đi Hồng Kông rồi bí mật quay về Sài Gòn
qua ngã Nam Vang liên lạc với Lâm Văn Phát tổ chức đảo chính.
Nguyễn Khánh đã thoát nạn nhờ Nguyễn Cao Kỳ lái C-47 bốc đi
Vũng Tầu trước khi Kỳ bay về Biên Hoà trong căn cứ không quăn cấm
trại nghiêm ngặt. Tại đây một phòng Hành Quân Đặc Biệt được thiết
lập và trên không phận một phi tuần AD-6 bao vùng ầm ì trên không
trung. Rồi Phạm Văn Liễu đi với Tướng cố vấn Không Quân Roland chở
Lâm Văn Phát trên một chiếc C-123 của Mỹ đáp xuống Biên Hòa để điều
đình. Anh hề Nguyễn Khánh bị Hội Đồng Quân Lực chỉnh lý cho làm Đại
Sứ Lưu Động đi không biết ngày về mang theo một túi plastic đựng bụi
đất Việt Nam.
Đêm hôm ấy căn cứ không quân Tân Sơn Nhất lại cấm trại trăm
phần trăm. Tôi với Nguyễn Tấn Hồng mặc quân phục lái xe Jeep ra phố
vắng tanh qua các chốt gác đến nhà Bùi Diễm trên đường Charner thì
biết cả Diễm lẫn Đặng Văn Sung và Nguyễn Đình Tú đã ẩn trốn trên
trần nhà. Lâm Văn Phát đi trốn bị Tòa Án Quân Sự xử tử hình khiếm
diện và Phạm Ngọc Thảo bị tâm nã gắt. Tuy nhiên có một sự điều đình
để Tòa bỏ vụ án Lâm Văn Phát.
Khi ấy tôi đang làm Đổng Lý Văn Phòng cho Tổng Trưởng Thanh
Niên Nguyễn Cao Kỳ trong chính phủ Trần Văn Hương. Tổng Trưởng Kỳ
chì đến bộ đúng một lần bằng trực thăng đáp xuống sân cỏ bộ dưới sự
vỗ tay thán phục của công chức nam nữ. Tổng Trưởng cũng không thèm
đi họp hội đồng nội các và Đổng Lý thay thế để nhìn thấy Thủ Tướng
lẩm cẩm trong khi Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh ngồi dũa móng tay
lơ đãng.
Môt buổi sáng vào khoảng 9 giờ, có một em bé độ mười lăm đến
bộ xin gặp tôi. Khi được đưa vào bàn giấy tôi, cô bé ấy đưa cho tôi
một bức thư nhỏ viết tay nói là của ông Phạm Ngọc Thảo, “Nhờ Cung
liên lạc với ông chủ giúp đỡ và em bé có thể cho biết số điện thoại
và chỗ của tôi”. Tôi biết danh từ ông chủ ám chỉ Nguyễn Cao Kỳ.
Tôi hỏi cô bé thì biết là Thảo hiện ẩn trốn trên trần tiệm bán đồ
thể thao Émile Bodin ở đường Bonard. Tôi quay số điện thoại mà cô bé
cho tôi thì Thảo trả lời bóng gió, “Tôi ở miệt vườn lên đây. Độ
này thất bát quá, gạo khan hiếm nên nhà máy chỉ chạy cầm chừng. Tôi
bị đau mắt chói lắm, đầu tóc lo nghĩ bạc phơ nên trông kỳ lắm. Ông
có rảnh thì chở tôi lên ông chủ xin giúp đỡ cho qua lúc nầy. Nếu
được thì xin ông đón tôi lúc 1 giờ hôm nay ở Givral”!
Tôi hiểu ra là Thảo ngụy trang đeo kính đen đàu đội mũ tùm
hụp. Tuy nhiên vừa lúc ấy có tin là chính phủ dân sự Phan Huy Quát
đã thành hình mà ông Quát là chỗ đàn anh thân tình và đứng đắn nên
tôi đắn đo suy nghĩ mình có nên tiếp tay phá thối nữa không? Bởi vậy
tôi đã không đến điểm hẹn Givral. Về sau có tin là Thảo đã mò về khu
vực họ đạo Hố Nai rồi bị an ninh mai phục bắn vỡ hàm tưởng chết bỏ
nằm trên bờ suối. Thảo tỉnh lại viết lên cát “xin gọi Phan Xi Cô
cứu” và được một linh mục đem về chăm nom. Rồi an ninh đến chở
bằng trực thăng về cơ quan, tra tấn tàn nhẫn. Nghe nói Thiếu Tá
Nguyễn Mộng Hùng tức Hùng Xùi, một Biệt Động Quân được Nguyễn Ngọc
Loan xin biệt phái qua Cảnh Sát, không ưa cái mắt lác của Thảo mà
tra khảo và bóp dái đến chết tuốt.
Tôi vừa được Yung Krall tức Đặng Mỹ Dung cho biết là khi cô ta
lên Sài Gòn có đến thăm ông Thảo tại nhà gần Sở Thú. Rồi khi bà Thảo
và các con đi Mỹ thì cô Kim chị của Dung cũng được đi Mỹ và đã lần
hồi tới gặp bà Thảo xin một chỗ dậy tiếng Việt tại Fort Bliss ở El
Paso Texas. Lúc ấy ông Thảo đã bị giết rồi. Năm 1997 Yung Krall có
đến thăm bà Thảo cùng gia đình ở Escondido và bà còn giữ mối hận thù
nói rằng, “Thằng giết chồng tôi, tôi và con cái sẽ tìm để giết
nó”! Mỹ Dung cố khuyên giải, “Nên để cho các em sống bình an;
bác trai làm chính trị mà chính trị thì tàn ác mưu mô nhiều lắm”,
nhưng bác gái một mực vẫn căm thù không đội trời chung.
Theo tôi suy nghĩ thì câu chuyện xẩy ra đã lâu quá rồi. Đống
tro tàn nguội lạnh từ lâu có lẽ cũng lần hồi cuốn theo chiều gió. Vả
lại bà Thảo nay cũng lớn tuổi mà lại vừa trải qua một trường hợp
giải phẫu thập tử nhất sinh. Thôi thì ân chưa trả, oán chưa báo cũng
nên phú cho số mệnh!
Bây giờ nghĩ lại tôi thấy hối hận. Nếu tôi đến đón Thảo tại
Givral chở gặp Nguyễn Cao Kỳ thì chắc là Thảo chưa chết thảm. Tuy
nhiên con người ta thay đổi vì hoàn cảnh, Kỳ đang say sưa trong vị
trí mới chắc đâu sẽ làm gì cho Thảo. Mà tôi lại bị mắc kẹt vào một
hoàn cảnh khó khăn không lường đuợc, trong thời kỳ Sài Gòn bát nháo
với các Tướng Tá kèn cựa, tiêm nhiễm ích kỷ và tham vọng. Thì hãy đổ
cho số phận vậy!
Tôi vẫn không cho Thảo là cộng sản nằm vùng mặc dầu sau khi
chúng chiếm được Sài Gòn chúng đã dàn dựng tuyên dương anh là anh
hùng nhân dân như chúng đã từng dàn cảnh mọi việc có lợi cho bài bản
tuyên truyền của chúng, theo đúng sách vở của Marx, “la fin
justifie le moyen và mentez mentez toujours et les
gens finiront par le croire”. Tuy nhiên có lẽ ý kiến của tôi
là do những cảm nhận chủ quan riêng mà tôi dành cho anh trong những
tiếp xúc lúc còn trẻ. Và theo lời kể lại của Nguyễn Trung Trinh hiện
ở Paris thì vào cuối năm 1946 Trinh gặp Thảo ở Thị Nghè lúc anh đang
chỉ huy một tiểu đội phục kích Pháp. Thảo dụ Trinh nhập bọn đánh Tây
nhưng khi thấy bạn do dự thì anh nói ngay, “Moa biết toa có nhiều
quen biết phía bên kia; vậy toa cứ đi công chuyện của toa và chúng
mình vẫn là anh em bạn thân nhé”! Thật là trung hậu và quảng
đại!
Hơn nữa nếu anh là một điệp viên nhị trùng quý báu của Hà Nội
thì tại sao họ không cứu anh ra bưng để khai thác thêm tin tức. Ngay
khi anh về trú ẩn tại Hố Nai thì con đường về mật khu thật là gần
xịt, tại sao anh không dọt lẹ để bị bắn và bắt giết. Một yếu tố nữa
là anh đã cho vợ và sáu con nhỏ qua Hoa Kỳ trước? Bảo vệ gia đình
mình tại một nơi chốn tự do xa lánh hẳn môi trường xã hội chủ nghĩa
mà anh đã cho là không thích hợp? Hoặc giả vì anh đã bỏ bên kia hồi
chánh nên không dám trở về bưng để bị các đồng chí cũ xử giảo thảm
khốc? Hơn nữa ngay cả Bác Sỹ Trần Kim Tuyến sau này cũng nói ông
không tin là Thảo trá hàng. Tất cả chỉ là những suy nghĩ vẩn vơ
không có một dữ kiện xác thực chứng minh. Nhưng trong cõi đời này có
cái gì là hoàn toàn thực chất đâu, Đức Phật đã chẳng giảng là
“sắc sắc không không” hay sao?
Prunedale, 15 December 2006
Trần Đỗ Cung
|