Khi Phạm Thiên Sahampati biết được đức
Phật đang phân vân lưỡng lự không muốn thuyết giảng giáo pháp mà
Ngài vừa chứng ngộ dưới gốc cây Bồ Đề cho thế gian đau khổ này
với lý do:
“Con người còn vấn vương trong tham ái và
sân hận, không dễ gì lãnh hội được giáo pháp mà Như Lai đã chứng
ngộ. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái
bao phủ, sẽ không thấy được giáo pháp, bởi giáo pháp đi ngượi
lại tham ái, giáo pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và tế
nhị”.
Khi đã nhận ra được sự miễn cưỡng lưỡng lự
của đức Phật như vậy, Phạm Thiên hoảng hốt lo sợ, nếu đức Phật
không truyền bá giáo pháp, và không được nghe giáo pháp thì thế
gian đau khổ này phải chịu sự diệt vong. Nên lập tức Phạm Thiên
Sahampati thưa với đức Phật:
“Cũng như người đứng trên đỉnh núi cao
nhất nhìn xuống, thấy rõ ràng từng người, ở vòng quanh phía
dưới, xin Đấng Thoát Khổ hãy nhìn xuống chúng sanh đang chìm đắm
trong biển khổ và đang bị lôi cuốn triền miên trong vòng sanh
tử”.
Lịch sử chép rằng, khi Phạm Thiên
Sahampati thỉnh đến lần thứ ba thì đức Phật mới dùng con mắt trí
tuệ của mình để quan sát thế gian và:
“Ngài đã nhận thấy rằng có cát bụi vướng
trong mắt, có kẻ thông minh sáng suốt, nhưng cũng có nhiều kẻ
ngu si tăm tối. Bẩm tính của người này tốt, người kia xấu, có
chúng sanh dễ uốn nắn nhưng cũng có nhiều kẻ khó dạy”.
Và đức Phật đã rút ra được một kết luận
quan trọng là con người cũng giống như một đầm sen. Dù có sen
trắng, vàng hay đỏ, có cọng đã vươn lên khỏi bùn nhưng chưa đến
được mặt nước, có cọng ngang mặt nước rồi mà vẫn chưa lên khỏi
mặt nước, có cái lên khỏi mặt nước rồi nhưng vẫn chưa nở. Nhưng
chúng cùng đều giống nhau là cũng đều ở dưới bùn mà vươn lên, và
khi đã vươn lên được rồi thì không hề dính bùn nhơ.
Sau khi đã rút ra được một kết luận như
vậy, đức Phật quyết định quay trở lại trần gian để giải thoát
trần gian đang chìm ngập trong đau khổ. Ngài lập tức công bố
thông điệp hy vọng đến cho thế gian đau khổ như thế này:
“Cửa vô sinh bất diệt đã được mở ra cho
mọi sinh linh đau khổ. Hãy để cho ai có tai muốn nghe được đặt
chọn vẹn niềm tin tưởng”.
Bởi vậy nếu các kinh như Lăng Già, Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma, Thắng Man, Viên Giác, Đại Niết Bàn…,
đặc biệt là Bát Nhã, một bộ kinh đã “y chỉ trên diệu nghĩa “tức
sắc tức không” của Tâm kinh Bát Nhã, đã lưu lại một di sản đồ
sộ, có thể nói là di sản văn học tư tưởng vĩ đại nhất trong toàn
bộ lịch sử nhân loại từ trước đến nay.
Bộ kinh vĩ đại đến nỗi mà, Osho, một nhà
tư tưởng của Ấn độ ở hậu bán thế kỷ 20, người mà Đức Đạt Lai Lạt
Ma đã nói là “Osho là bậc chân sư giác ngộ, ngài hoạt động trên
mọi lãnh vực để giúp nhân loại vượt qua giai đoạn khó khăn trong
việc trau dồi tâm thức”, khi giảng kinh Kim Cang Bát Nhã đã
phải thốt ra những lời tuyệt đối như thế này:
“…Tên tiếng Phạn của kinh này là
Vajrachedika Prajna-paramita Sutra. Nó có nghĩa là “Sự hoàn
hảo của minh triết sắt bén như cú sét đánh”. Nếu bạn cho phép,
Phật có thể chém đứt bạn tựa như cú sét đánh. Ngài có thể chặt
đầu bạn, Ngài có thể giết chết bạn và giúp bạn tái sinh”.
Và Osho đã giải thích vì sao Đức Phật lại
phải tàn nhẫn như vậy?
“Vì Phật là cả hai – vừa là “sát nhân” vừa
là người mẹ. Một mặt Ngài phải giết chết bạn và mặt khác Ngài
làm sinh thành con người mới trong bạn. Con người mới chỉ có thể
sinh ra được khi con người cũ đã bị phá hủy. Chỉ trừ tro tàn của
con người cũ mà con người mới mới được sinh ra. Con người là
loài Phượng hoàng. Loại Phượng hoàng thần thoại này không chỉ có
trong thần thoại, nó là biểu tượng. Nó đại diện cho con người,
chim Phượng hoàng đó không có ở đâu khác ngoại trừ trong con
người. Con người cũ sinh linh phải chết đi để được tái sinh”
.
Đúng là như vậy rồi, ta thấy kinh Kim Cang
Bát Nhã không phải chỉ làm tái sinh con “Phượng hoàng” trong
lãnh vực tâm linh của mỗi người trong chúng ta thôi, mà cả trên
phương diện quốc gia và xã hội nữa. Bất cứ một quốc gia nào, một
dân tộc nào được nuôi dưỡng, được “y chỉ trên diệu nghĩa “tức
sắc tức không” của kinh Kim Cang Bát Nhã thì lập tức dân tộc đó
nhất định cũng sẽ được tái sinh, nghĩa là cũng sẽ cất cánh bay
cao như con Phượng hoàng trong huyền thoại nữa.
Đó là trường hợp nhà Trần của nước Đại
Việt chẳng hạn?
Trong bài Cư Trần Lạc Đạo Phú, Trần
Nhân Tông, vị hoàng đế vĩ đại nhất của triều Trần đã viết:
Săn hỷ xã, nhuyến từ bi
Nội tự tại kinh lòng hằng đọc
Và trong bài Phú Vịnh Yên Tử thiền sư
Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời
Trần cũng cho biết:
Khuya sớm sáng chong đèn Bát Nhã
Hôm mai rữa sạch nước Ma Ha
Không còn nghi ngờ gì nữa, triều đại nhà
Trần đã dùng đạo lý Bát Nhã như ý thức hệ chỉ đường đi cho dân
tộc Đại Việt ở thế kỷ 13. Nếu không thì một quốc gia quá nhỏ bé
(Lúc đó chỉ có các những tỉnh miền Bắc bây giờ) lại có thể đánh
tan ba cuộc xâm lăng của cường quốc quân sự hùng mạnh nhất,
trong khi từ Đông sang Tây thời bấy giờ đều nằm trong cơn sốt
Tartar (Thát Đát).
Nhưng chắc chắn triều đại nhà Trần không
chỉ hùng mạnh về quân sự thôi, mà trên hơn 1 thế kỷ tồn tại lại
còn phát triển mạnh mẽ trên nhiều lãnh vực nữa, nhất là lãnh vực
văn học và tư tưởng.
Dưới ánh sáng của đạo lý Bát Nhã, nền văn
học trên một thế kỷ này chắc chắn đã củng cố và khẳng định mạnh
mẽ tinh thần độc lập của dân tộc Việt. Chính vì thấy được mối
nguy hiểm về lâu về dài cho chính sách bá quyền nước lớn này,
nên khi bắt đầu cuộc xâm lăng thì “Nhà Minh đã quyết tâm đập tan
những cơ sở văn hoá đã được xây dựng trong suốt gần 150 năm của
Phật giáo đời Trần. Trương Phụ lượm lặt hết sách cổ kim của ta,
đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418) Nhà Minh
còn sai hai cán bộ văn hoá của họ là tiến sĩ Hạ Thì và Hành Nhân
Hạ sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và
sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, Nhà Minh lại cho
người đem sách Khổng giáo, Lão giáo và Phất giáo của họ sang để
thay thế cho những sách trước kia đã bị họ lấy. Chính sách tiêu
diệt văn hoá thâm độc đó đã phá hoại gia tài tinh thần của triều
Trần để lại không phải là ít”.
Như vậy, ta có thể tin chắc rằng những gì
mà nền văn học đời Trần còn để lai cho đến nay là quá ít so với
những gì Nhà Minh đã cướp về nước vậy.
Nhưng một tư tưởng vĩ đại, bên cạnh sự tác
động lớn lao và dữ dội đó, thì tất nhiên cũng gây ra sự ngộ nhận
lơn lao không phải là ít. Tư tưởng Bát Nhã (hay cả Thiền) nữa,
cũng không ra ngoài thông lệ đó.
Chỉ có những bậc đại trí hay nói theo Đức
Phật “chỉ những người ít vướng cát bụi trong mắt” thì mới chịu
đựng nổi Vajrachedika Prajnaparamita “sự hoàn hảo của minh triết
sắt bén như cú sét đánh” này.
Còn ngược lại, những người không chịu nổi
cú sét đánh này thì chỉ lợi dụng ngôn ngữ “sấm chẻ” của Bát Nhã
để bào chữa và che dấu cho tâm hồn yếu đuối và trống rổng của
tâm hồn mình mà thôi.
Trong tác phẩm Discourses on the
Prajnaparamita – Hridayam Sutra of Gautama the Buhdda, tập hợp
những bài giảng về thần chú Bát Nhã tâm kinh, Osho có kể lại một
người suốt đời chạy theo ngôn từ để rối cuối cùng phải ngã ngục
vì ngôn từ trống rỗng:
“Tôi biết một người theo J. Krishnamurti,
ông ấy là một học giả nổi tiếng, cả nước ai cũng biết và trong
ít nhất 40 năm ống ấy theo Krishnamurti, cho nên ông ấy không
tin Thượng đế, ông ấy không tin Thiền, ông ấy không tin cầu
nguyện.
Thế rồi một hôm, ông ấy lâm bệnh, bị đau
tim. Ngẫu nhiên tôi cũng đang ở tại thành phố ấy, con trai của
ông ấy gọi cho tôi và nói “cha con đang ở tình trạng nguy ngập.
Nếu Thầy có thể đến thì sẽ an ủi cho cha con nhiều lắm. Rất có
thể cha con không qua khỏi lần này”.
Thế là tôi tới ngay, khi tôi vào phòng thì
ông ấy đang nằm trên giường mắt nhắm nghiền và niệm “Rama, Rama,
Rama” (Danh hiệu Thượng đế của Ấn độ giáo).
Tôi không thể nào tin điều đó được! Suốt
40 năm ông ấy đã liên tục nói “không có Thượng đế, và tôi không
tin” và điều gì đã xảy ra cho ông già này? Tôi lay ông ấy dậy và
hỏi: “ông đang làm gì vậy?”.
Ông ấy nói “Đừng quấy rày tôi. Hãy để tôi
lam theo ý tôi muốn”. Nhưng tôi nói: “Thế này thì ngược lại
Krishnamurti”.
Ông ấy trả lời: “Hãy quên Krishnamurti đi!
Tôi sắp chết rồi mà ông lại nói về Krishnamurti sao?”.
Nhưng 40 năm qua thì sao, vứt đi à? Và ông
chưa bao giờ tin rằng niệm Phật là ích lợi, hay cầu nguyện là
ích lợi.
Ông ấy nói: “Vâng, điều đó đúng. Tôi chưa
bao giờ tin cả, nhưng tôi sắp chết rồi. Tôi sợ lắm…”
Osho nói với người bạn thân của mình rằng:
“vậy là bạn cầu nguyện cũng chỉ vì sợ hải mà ra.”
Và Osho đã lưu ý cho người bạn của mình
nhớ rằng Đức Phật đã từng dạy: “Trí tuệ không thể sanh ra từ sợ
hải được”.
Người viết còn nhớ vào khoảng đầu năm
1968, khi tác phẩm Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng (The
first and last freedom) của Krishnamurti được ra mắt tại Việt
Nam. Người viết đã thắc mắc hỏi dịch giả của tác phẩm là giáo sư
Phạm công Thiện rằng tại sao Krishnamurti là người Ấn độ, nhưng
chẳng bao giờ thấy Krishnamurti đi thuyết giảng ở các quốc gia
Châu Á cả, mà chỉ thuyết giảng ở các nước Tây phương? Thì người
viết được dịch giả trả lời rằng, mặc dù không bao giờ
Krishnamurti nhắc đến Phật giáo, nhưng thật ra tất cả những gì
Krishnamurti phát biểu là một thứ Tánh Không (Sùnyavàda) khác
của tư tưởng Bát Nhã của Phật giáo vậy. Bởi thế nên Krishnamurti
không đi thuyết giảng tại các nước ở Châu Á, nơi mà tư tưởng của
Phật giáo đã phát triển và tồn tại trên 20 thế kỷ rồi.
Ông học giả theo Krishnamurti trên có lẽ
cũng chẳng khác gì những người theo Thiền và Bát Nhã của Phật
giáo. Họ cũng hay sử dụng ngôn ngữ của Thiền và Bát Nhã, nhưng
tâm hồn lại chưa đủ sức để chịu đựng cú đánh “sấm sét” của đại
thần chú và đại minh chú này.
Osho cho là khi Đức Phật tuyên thuyết
rằng, “không có khổ, tập, diệt, đạo” thì “Đức Phật đã đạt tới
đỉnh cao nhất của cách mạng, những người khác đều bị loại bỏ
đằng sau”.
Nhưng không phải ngẩu nhiên mà Đức Phật đã
đạt tới đỉnh cao nhất của cuộc cách mạng đó, mà như Ngài đã nói
lên lới đầu tiên sau đêm Ngài chứng vô thượng chánh đẳng chánh
giác dưới gốc cây Bồ Đề:
Xuyên qua nhiều kiếp sống luân hồi,
Như Lai thênh thang mãi
Như Lai đi tìm mãi mà không gặp.
Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà
này.
Lập đi lập lại, đời sống quả thật là
phiền muộn.
Này hỡi người làm nhà Như Lai đã tìm
được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như
Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông
của ngươi dựng
lên cũng bị phá tan tành.
Chính trong những kiếp sống được lập đi
lập lại “quả thật là phiền muộn” này, mà Đức Phật mới khởi sự
cho cuộc hành trình dài như vô tận này để rồi cuối cùng mới hoàn
thành cuộc cách mạng cao nhất dước gốc cây Bồ Đề.
Và cũng chính đã trải qua “nhiều kiếp sống
phiền muộn” này mà Đức Phật mới đứng dậy được, nên Ngài cũng
muốn các đệ tử của Ngài cũng phải từ “kiếp sống phiền
muộn” đó mà đứng dậy và khởi sự cuộc hành trình như Ngài.
Có lẽ Khuddaka Nikàya (Tiểu bộ kinh) là bộ
kinh mà Đức Phật đã dạy đầy đủ và chi tiết nhất cho các đệ tử
của Ngài, đặc biệt là đệ tử xuất gia.
Làm cách nào để từ cuộc sống đầy bùn nhơ
này mà vươn lên được, cũng như hoa sen vươn lên được mà không
bị bùn nhơ vấy bẩn?
Đọc Khuddaka Nikàya ta bắt gặp một không
khí khác hẳn các kinh của Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Viên Giác,
Lăng Già, Bát Nhã vv... nghĩa là thay vì tư tưởng cao ngất như
Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ thì trong Khuddaka Nikàya ta ngạc nhiên
thấy xã hội cách đây hơn 20 thế kỷ rồi, mà vẫn chẳng khác gì ờ
đầu thế kỷ 21 này cho lắm. Nghĩa là Đức Phật và các đệ tử xuất
gia của Ngài cũng bị chửi bới, cũng bị lăng nhục, cũng cùng một
luận điệu như ngày nay.
Ví dụ, một lần Đức Phật cũng bị kết án là
“ăn không ngồi rồi” hay “hộ ăn theo” như kinh Bhàravàja (người
cày ruộng) chẳng hạn. Có khi vô cớ bị kêu la mắng chưởi giữa
đường “kẻ trọc đầu, sa môn ti tiện, bần tiện, hãy dừng lại” mà
kinh Vasalasuttam (Kẻ bần tiện) đã ghi lại đầy đủ.
Không phải chỉ chữi bới lăng nhục bằng lời
lẽ thô tục thôi mà còn dùng thủ đoạn độc ác để vu khống và chụp
mũ chúng đệ tử của Ngài nữa.
Kinh Udana (ud.43) cho biết rằng, vì Đức
Phật và chúng đệ tử của Ngài được “tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường, tôn kính, cùng nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất
thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh”, nhưng các du sĩ ngoại đạo
khác không được như vậy nên đã giết một nữ du sĩ có tên là
Sundari, rồi đem chôn nàng vào cái hố trong cái mương tại
Jetavana trong khu vườn của trưởng giả Anàthapindika. Sau khi đã
thực hiện xong thủ đoạn, họ đến thưa với vua Pasenadi của nước
Kosala. Nhà vua lập tức hỏi họ xác của Sundari chôn ở đâu? Họ
liền dẫn đến chỗ đã chôn xác Sundari, đào lên rồi khiêng xác đặt
lên giường đi vào thành Savatthi từ đường này đến đường khác,
chúng làm cho dân chúng tức giận nói rằng: “các người hãy xem
công việc của các Thích tử! Vô liêm sĩ, là sa môn Thích tử này,
theo ác giới, theo ác pháp, nói láo (….) sa môn hạnh của chúng
đã đi đâu mất”.
Nhưng Đức Phật không hề ngạc nhiên trước
tâm địa xấu xa của con người, vì Ngài đã tiên đoán được điều
này. Kinh Kandaraka thuộc Trung bộ kinh (Majjhima Nikaya), khi
Pessa, con trai người huấn luyện voi đến bạch với Đức Phật rằng:
“Thật hi hữu thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn
hiểu được hạnh phúc và bất hạnh của chúng sanh, trong khi loài
người sống trong sự rối ren như vậy, trong sự căn bã như vậy,
trong sự xảo quyệt như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay như loài
người, Bạch Thế Tôn, cởi mở thay, như loài thú vật”.
Và Đức Phật đã xác nhận lời nhận xét trên
của Pessa, con của người huấn luyện voi là đúng:
“Thật vậy, này Pessa! Này Pessa, rối ren
thay, như loài người, và cởi mở thay như loài thú vật!”.
Trong tác phẩm Zarathustra đã
nói như thế của Nietzsche, một triết gia Đức ở thế kỷ 19
cũng có câu tương tự: “ước gì những con thú của ta sẽ dẫn đường
ta đi! Ta thấy rằng sống giữa loài người lại còn nguy hiểm sống
giữa loài thú vật”.
Phải chăng khi viết câu trên Nietzsche đã
lấy cảm hứng từ kinh Kandaraka của Phật giáo?
Điều đó gần như chắc chắn vì trong tác
phẩm cuối cùng của đời mình, Nietzsch đã công nhận sự thán phục
của mình đối với Đức Phật:
“ Đức Phật, nhà sinh lý học sâu thẳm, đã
liễu ngộ hết mọi sự ấy, ‘tôn giáo’ của Ngài đáng lẽ phải được
gọi là một loại ‘vệ sinh pháp’ để cho người ta đừng lầm lẫn với
những hiện tượng đáng thương hại như Ky tô giáo: Sự công hiệu
của Phật pháp được thể hiện trong việc chiến thắng lòng phẫn hận
di oán.
Giải thoát tâm hồn khỏi sự di oán phẫn hận
là bước đầu hướng về sự lạnh bệnh” không phải sự oán thù cừu
địch được chấm dứt bằng sự oán thù cừu địch; sự oán thù cừu địch
chỉ có thể chấm dứt bằng tình thương huynh đệ”.
“Những lời này được phát ra ngay từ sự
chuyển pháp luân đầu tiên của Đức Phật”.
Đọc câu “tôn giáo” của Ngài đáng lẽ phải
được gọi là một loại “vệ sinh pháp”, khiến ta có thể liên tưởng
đến hai câu kệ vô cùng giản dị trong kinh Pháp cú:
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Giữa tâm ý cho trong sạch
Đó là lời dạy của chư Phật
Ta có thể xem toàn bộ giáo pháp của Đức
Phật không gì khác hơn là làm sao cho ta có thể dọn dẹp sạch sẽ
tất cả những rác rưới nhơ bẩn trong tâm của mỗi người chúng ta.
Khi Tì Kheo Ittiya, theo Đức Phật đã nhiều
năm mà vẫn không đạt được thánh quả. Cuối cùng Ittiya đến xin
Đức Phật chỉ bày cho một bài học tóm tắt dễ hiểu nhất. Đức Phật
bảo Tì Kheo Ittiya rằng, phải làm cho thanh tịnh nếp sống căn
bản hằng ngày, Tvam adim eva visodha ti.
Vậy cho nên ta có thể coi toàn bộ Khuddaka
Nikaya là bộ kinh mà Đức Phật đã chỉ bày cặn kẻ nhất cho “một
nếp sống thanh tịnh căn bản” như vậy.
Sở dĩ những người xuất gia chúng ta không
giữa được nếp sống thanh tịnh căn bản như trường hợp Tì Kheo
Ittiya chẳng hạn, vì chúng ta đã tự đánh mất định hướng lý tưởng
xuất gia của chính mình.
Lý tưởng của người xuất gia là gì?
Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương
Người xuất gia cất bước là muốn vượt
tới phương trời cao rộng
( HT Trí
Quang dịch)
Có lẽ không có câu nào ngắn gọn hơn câu
trên để tóm tắt định hướng cho người xuất gia như câu
trên trong Cảnh Sách.
Đây là một trường hợp điển hình cho sự
đánh mất định hướng ấy chăng?
“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở
Savatthi tại Jetavana trong ngôi vườn của trưởng giả
Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều Tì Kheo sau bữa ăn trưa, sau
khi đi khất thực về, ngồi hội hợp tại rạp tròn có cây Kareri, và
câu truyên sau đây được khởi lên: “Này chư hiền, ai biết nghề
gì? Ai học tập nghề gì? Nghề gì là nghề tối thượng? Ở đây, một
số người nói như sau: Huấn luyện voi là nghề tối thượng! Một số
người nói như sau: Làm xe là nghề tối thượng! Một số người lại
nói như sau: Nghề bắn cung là nghề tối thượng! một số người nói
như sau: Nghề đao kiếm là nghề tối thượng. Mốt số người nữa lại
nói như sau: Nghề ấn hiệu là nghề tối thượng. (theo HT Minh Châu
thì ấn hiệu, Muddà, có nơi giải thích là dấu hiệu ra bằng tay
giữa người mua và bán châu báu, che dưới một cái khăn, để người
chung quanh không biết giá cả). Một số người nói như sau: Nghề
tính toán là nghề tối thượng! một số nguời nữa lại nói như sau:
Nghề ước lượng là nghề tối thượng! một số người nói như sau:
Nghề viết văn là nghề tối thượng. Một số người nói như sau: Nghề
làm thơ là nghề tối thượng! một số người lại nói như sau: Nghề
phỏng đoán các nguyên nhân tự nhiên là nghề tối thượng! một số
người khác lại cho rằng: Nghề điều khiển bộ máy quốc gia là nghề
tối thượng! … Rồi Đức Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền định độc
cư đứng dậy, đi đến rạp tròn có cây Kareri. Sau khi đã ngồi
xuống chỗ đã soạn sẵn, Đức Thế Tôn hỏi các Tì Kheo đang bàn
chuyện gì? Sau khi nghe thuật lại câu chuyện mà các thầy Tì Kheo
đã bàn vừa rồi. Đức Phật đã rầy la họ:
“Này các Tì Kheo, chuyện này thật không
xứng đáng cho các người, là những thiện nam tử, vì lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình mà lại đi nói những câu
chuyện như vậy”.
Và sau đó Đức Phật đã lưu ý các thầy Tì
Kheo là, khi nào hội họp với nhau, có hai điều cần phải làm là:
Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh
Rồi Đức Phật đọc lên lời cảm khái của
Ngài sau đây cho các Tì Kheo nghe:
“Ai sống không nghề nghiệp
Nhẹ nhàng, muốn lợi ít
Các căn được chế ngự
Toàn diện được giải thoát
Không nhà, không ngã sở
Không dục, giết ác ma
Vị Tì Kheo như vậy
Sống cô độc một mình”
Chính vì đánh mất định hướng xuất gia của
chính mình như vậy nên mới ngồi lê đôi mách để bàn nghề này là
nghề tối thượng, nghề kia không tối thượng, để mong tìm kiếm một
chút hư danh phù phiếm giữa những người thế tục. Những người
xuất gia như vậy đã bị Đức Phật cho là vẫn “bị mù bởi các dục”,
“bị lưới dục bao phủ”, “bị ái dục bao trùm”, và tất nhiến họ
hiện đang giống “như cá mắc mạng lưới” không gì mong thoát thân
được nữa.
Trong các dục vọng, mà người xuất gia
chúng ta phải cảnh giác, có thể nói nguy hiểm nhất vẫn là lòng
khát khao quyền hành thế tục. Nếu một người xuất gia bị sắc dục
quyến rũ, thì có thể vị xuất gia đó chỉ tự làm hại chính bản
thân mình thôi, còn say mê quyền lực thế tục thì nhất định sẽ
kéo theo sự sụp đổ không chỉ cá nhân họ, mà còn cho tập thể của
tăng đoàn nữa.
Điều này chúng ta khỏi cần phải tìm kiếm ở
đâu trong quá khứ lịch sử, mà chỉ nhìn ngay vào hiện tại thì có
thể thấy ngay.
Trong kinh xuất gia (sn.72), khi vua Bình
Sa Vương nước Ma Kiệt Đà đứng trên lầu thượng của hoàng cung
nhìn xuống thì thấy Đức Phật đang ôm bình bát đi khất thực, với
“các tướng tốt quang minh” nhà vua liền đem lòng ngưỡng mộ, ngỏ
ý muốn trao tặng quốc gia mà nhà vua đang trị vì cho Đức Phật,
Đức Phật đã trả lời
Trên sườn núi Tuyết sơn
Sống dân tộc đoan trực
Tài sản nghị lực đủ
Ở xứ kô sa la
Dòng họ thuộc mặt trời
Sanh tộc là Thích Ca
Từ bỏ gia tộc ấy
Thưa vua, Ta xuất gia!
Ta không có tha thiết
Đối với các loại dục
Thấy nguy hiểm trong dục
Bỏ chúng, là an ổn.
Đức Phật đã vứt bỏ ngôi vua mà ra đi, bởi
vậy cho nên không có thứ quyền nào được có quyền tồn tại trong
đạo Phật cả.
Chắc chắn không phải là một sự ngẫu nhiên
khi trong phẩm Ngu của kinh Pháp Cú (cũng thuộc Khuddaka nikaya)
có đến hai lần Đức Phật nói đến những kẻ đã đi xuất gia rồi mà
vẫn mang tâm niệm thế tục vào chốn Già Lam, xem những trách
nhiệm được giao phó có tính cách tinh thần giống như lợi danh
của thế gian:
Câu thứ 73, Đức Phật chỉ trích những người
luôn luôn thấy mình là một nhân vật quan trọng trong Tăng chúng:
“Hãy để cho người Tăng kẻ tục nghĩ rằng: ‘sự này do ta làm, mọi
việc lớn nhỏ đều phải theo lệnh ta’, kẻ Ngu cứ tưởng lầm như thế
nên lòng tham lam ngạo mạng tăng hoài”.
Và câu thứ 74, Đức Phật đề cập đến những
người xem những trách nhiệm tinh thần đó như một phương tiện để
đạt mục tiêu là lợi dưỡng cho bản thân mình:
“Kẻ ngu thường muốn hư danh: chỗ ngồi cao
trong tăng chúng, viện chủ trong tăng viện, mọi người đều đến để
cúng dường” (HT Trí Đức dịch).
Không phải chỉ gạt bỏ mọi ý nghĩ về quyền
hành thôi, mà ngay cả mọi luận bàn về quyền hành của người thế
tục cũng bị Đức Phật ngăn cấm trong giáo hội thanh tịnh của
Ngài:
“Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi, tại
Zetavana, khu vườn trưởng giả Anàthapindika, lúc bấy giờ, nhiều
vị Tì Kheo sau bữa ăn, đi khất thực về, ngồi họp tại hội trường,
và câu chuyện này được khởi lên.
“Này chư Hiền, giữa hai vị vua này, vua
Seniya Bimbisara ở Ma Kiệt Đà và vua Pesenadi xứ Kosala, ai giàu
có hơn, ai tài sản lớn hơn, ai kho tàng lớn hơn, ai quốc độ lớn
hơn, ai xe cộ lớn hơn, ai sức mạnh lớn hơn, ai thần lực lớn hơn,
ai uy lực lớn hơn?” rồi câu chuyện đang xảy ra giữa các Tì Kheo
ấy chưa chấm dứt, thì Đức Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền định
độc cư đứng dậy đi đến hội trường. Sau khi đến ngồi xuống trên
chỗ đã soạn sẵn, Thế Tôn hỏi các thầy Tì Kheo: “này các thầy Tì
Kheo, ở đây, nay các người ngồi hội họp bàn với nhau chuyện gì?
Và câu chuyện gì giữa chừng chưa chấm dứt giữa các người?”
Sau khi nghe thuật lại, Đức Phật cũng đã
rầy la họ như thường lệ, nghĩa là đã xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình, thì không nên đi nói những chuyện có tính
chất thế gian như vậy. Rồi Đức Phật đọc lên lời cảm khái này cho
các thầy Tì Kheo.
Dục lạc gì ở đời
Không bằng phần mười sáu
Kể cả thiện lạc này
Lạc do ái đoạn diệt
(ud.10)
Chỉ có ngồi tạp thoại về quyền lực thế
gian mà còn bị Đức Phật ngăn cấm như vậy, huống chi những người
đã xuất gia mà lại đi bắt tay với quyền lực thế gian, rồi lợi
dụng quyền lực đó để củng cố địa vị, tạo “chỗ ngồi cao trong
tăng chúng” thì tất nhiên những người đó không còn là người xuất
gia chân chính nữa rồi, mà họ mới chính là những kẻ “mượn đạo
tạo đời” như nhóm từ mà ngày nay chúng ta thường nghe nhắc đến
gần như suốt ngày.
Nhưng chung cục của những người chạy theo
quyền lực thế gian là gì? Là nỗii bất an, lo sợ luôn luôn đè
nặng trong tâm hồn của họ chăng?
“Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở
Anupiya tại rừng xoài. Lúc bấy giờ tôn giả Bhaddiya, con của vua
Kàligodha, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà
trống rồi nói lên lời cảm hứng:
“Ôi an lạc thay! ôi an lạc thay! một số
đông Tì Kheo nghe Tôn Giả Bhaddiya con của Kàligodha đi đến khu
rừng (…). Nghe vậy, các Tì kheo ấy suy nghĩ: không nghi ngờ gì,
chư Hiền, Tôn Giả Bhaddiya con của Kàligodha sống phạm hạnh
không có hoan hỷ, vì trước khi còn ở gia đình được hưởng an lạc
của nhà vua, vì Tôn Giả nhớ đến an lạc ấy, cho nên mỗi khi đi
đến khu rừng (…).
“Rồi một số đông Tì Kheo đến Thế Tôn, sau
khi đến Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, các Tì Kheo ấy Bạch Thế
Tôn:
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bhaddiya con của
Kàligodha mỗi khi đi đến khu rừng (…).
“Sau khi nghe các Tì Kheo trình bày xong,
Đức Thế Tôn bảo các Tì Kheo, này các Tì Kheo, hãy đi và nhân
danh ta nói với Bhaddiya, con của Kàligodha: thưa Hiền giả, Bậc
Đạo Sư gọi Hiền Giả. Thưa vâng, Bạch thế Tôn. Các vị Tì Kheo ấy
đến và nói với Tôn Giả Bhaddiya: Đấng Đạo Sư gọi Hiền Giả.
“Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên. Thế Tôn hỏi Tôn Giả Bhaddiya:
“Có thật chăng, này Bhaddiya, mỗi khi
người đi đến khu rừng (…).
Do mục đích gì khi đi đến những nơi ấy
ngươi lại nói lên những lời cảm hứng như vậy?
“Bạch Thế Tôn, thuở trước khi con còn ở
trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt
người khéo bảo vệ, ngoài nội cung có đặt người khéo bảo vệ;
Trong thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt
người khéo bảo vệ. Trong nước cũng có đặt người khéo bảo vệ,
ngoài nước cũng có đặt người khéo bảo vệ. Bạch Thế Tôn, con được
bảo vệ, phòng vệ chặt chẽ như vậy, nhưng con vẫn sống trong sợ
hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ (bhito, ubbiggo, ussanki,
utrato). Nhưng nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến
ngôi nhà trống, chỉ sống có một mình, mà con vẫn không sợ hãi,
không hồi hộp, không run sợ, không hoảng sợ, không rộn ràng,
không hốt hoảng, chỉ có lắng dịu (pannaloma), nhẹ nhàng
(paradavutto) tâm hồn con tự do như con thú rừng. Bạch Thế Tôn,
do thấy được mục đích như vậy, nên khi con đến khu rừng, đến
gốc cây hay đến ngôi nhà trống, con thường nói lên lời cảm hứng:
Ôi! An lạc thay! Ôi! An lạc thay!
Rồi Đức Thế Tôn đọc lời cảm này để khuyến
khích, nâng đỡ cho tâm hồn của Tôn Giả Bhaddiya:
Với ai trong nội tâm
Không có lòng phẫn nộ
Vượt qua hữu phi hữu
Vị ấy thoát sợ hãi
An lạc không sầu muộn …
(ud.18)
Kể từ lời bộc bạch chân thành của Tôn Giả
Bhaddiya, một người được sống trong sự bảo vệ và che chở của
giới thống trị cao nhất thời bấy giờ, với Đức Phật, đến nay đã
hơn 20 thế kỷ, thế giới đã đổi thay toàn triệt, nhưng nỗi sợ
hãi, bất an, run sợ của những người đang sống trong quyền lực
dường như đã không thay đổi chút nào mà lại càng khốc liệt hơn?
Vì nỗi bất an đó ngày nay không còn giới hạn trong giới quyền
lực nữa mà đã tràn lan trên khắp thế giới. Những người dân vô
tội bỗng nhiên thấy mình là nạn nhân của những thế lực đang
giành giật quyền lực với nhau.
Vậy đoạn kinh ngắn trên có thể được dùng
như kinh nhật tụng, để những người đang khát khao quyền lực thế
gian đọc tụng mỗi ngày để mong tìm một chút thanh thản cho tâm
hồn bất an của họ chăng?
Ngoài vấn đề khuyên dạy các Tì Kheo không
nên tham dự trực tiếp hoặc gián tiếp ngay cả tạp thoại về quyền
lực thế tục ra, thì trong Khuddaka Nikàya, Đức Phật còn ngăn cấm
các đệ tử xuất gia ba điều quan trọng này nữa.
“Này các Tì Kheo, Phạm Hạnh được sống,
không vì mục đích lừa dối quần chúng, không vì mục đích nịnh hót
quần chúng, không vì mục đích được lợi ích, lợi dưỡng, cung
kính, danh vọng, nghĩ rằng: “mong quần chúng biết đến ta”, mà
này các Tì Kheo Phạm Hạnh được sống vì mục đích thắng tri
(abhinnattham) vì mục đích liễu tri (parinn-atthamca) (it-28).
Hình thức bên ngoài tất nhiên cũng rất cần
thiết cho người xuất gia, nhưng nguy hiểm hơn là một số người đã
lợi dụng hình thức đó để lừa dối những người ngây thơ chỉ biết
tin vào hình thức. Đức Phật đã nhìn thấy điều tai hại này:
“Này các Tì Kheo, nếu một Tì Kheo nắm lấy
viền áo Tăng Già Lê (Sanghàtikanne) đi theo sau lưng ta, chân
bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng
sắc sảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không
tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại,
vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa hẳn vị ấy. Vì sao? Này các Tì Kheo, Tì
Kheo ấy không thấy Pháp. Do không thấy Pháp nên không thấy Ta.
Này các Tì Kheo, nếu Tì Kheo nào sống xa Ta đến 100 do tuần và
vị ấy không tham ái trong các dục, với lòng tham không sắc sảo,
tâm không sân hận, ý tư duy không nhiễm ác, chánh niệm, tỉnh
giác, định tĩnh nhất tâm, các căn được chế ngự, thì vị ấy gần Ta
và ta gần vị ấy. Vì sao? Này các Tì Kheo, Tì Kheo ấy thấy Pháp.
Do thấy Pháp nên thấy Ta” (it.90).
Chính vì thế nên khi vua Pasenadi của nước
Kosala thấy những tu sĩ dòng Ni Kiền Tử tu khổ hạnh, dầu bện
tóc, không mặt quần áo, bảy người dùng chung một cái y, thì vua
mới đến thưa với Đức Phật những người Ni Kiền Tử ấy có phải là
những vị đang đi trên con đường đến thánh quả hay không? Thì
được Đức Phật trả lời rằng, những cư sĩ đang sống trong gia
đình, hưởng thụ mọi thứ dục lạc như nhà vua thì khó mà phân biệt
được vị nào đang đi đúng trên con đường đưa đến các bậc thánh.
Sau đó Đức Phật đã lưu ý với nhà vua rằng:
“Thưa đại vương chính phải cộng trú
(samvàsena) mới biết được giới đức của một người, và như vậy
phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác
ý không phải không có tác ý, phải có trí tuệ không phải với ác
tuệ. Thưa Đại Vương, chính phải có liên hệ mới biết được sự
thanh liêm của một người, phải trong một thời gian dài không thể
ít ngày được, phải có tác ý, không phải không có tác ý, phải có
trí tuệ không phải với ác tuệ. Thưa Đại vương, chính trong thời
gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một người”.
Nếu chỉ nhìn bề ngoài của xã hội hiện nay
thì ta sẽ thấy đạo Phật đang ở trong thời kỳ cực thịnh, vì màu
vàng đang hiện diện khắp nơi. Không chỉ tại nơi các chùa, tự
viện, Thiền viện mà tại các lễ đài, các buổi họp, hội thảo,
meeting v.v… nhưng nếu chúng ta y theo lời Đức Phật, nghĩa là
“phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được” thì chúng
ta sẽ nhận ra ngay đó không phải là màu vàng của từ bi, trí tuệ
và kham nhẫn của đạo Phật, mà sau màu vàng ấy là nơi chứa đầy ác
tuệ của những tâm thức tán loạn, không định tỉnh.
Vậy là dù họ đang “níu áo Tăng Già Lê” của
Đức Phật, nhưng họ “xa hẳn Đức Phật” Vì sao? Vì như Đức Phật đã
dạy “họ không thấy Pháp. Do không thấy Pháp nên không thấy Ta”.
Mặc dù họ có thể thao thao bất tuyệt trước đám đông về giáo
Pháp của Đức Phật nhưng đúng như Đức Phật đã nói trong kinh
Kokàliya: “cái gì trống thì cái ấy kêu to” và “cái gì đầy thì
cái ấy im lặng” vậy.
Đức Phật (và có lẽ chúng xuất gia của Ngài
nữa) thường được người đời ca tụng với một hình ảnh đầy thi ca
như thế này:
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hoá độ xuân thu
Bình bát xin ăn ngàn nhà
Một thân cô độc bước đi khắp nẻo đường
của trần gian
Chỉ vì một lý do duy nhất là sống và
chết
Giáo hóa đưa con người vượt khỏi ngục
tù của thời gian
Giáo hóa thì càng khó khăn bao nhiêu Ngài
lại càng quyết tâm bấy nhiêu, như trường hợp Ngài đã giáo hoá
tên sát nhân khét tiếng nhất thời bấy giờ là Angulìmala. Nhưng
bình bát xin cơm ngàn nhà, thì không hẳn như vậy, nghĩa là có
những trường hợp Đức Phật đã từ chối, như trường hợp sau đây:
“Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng
Magadha, tại núi Dakkhinàgini, trong một làng Bà la môn tên là
Ekanàlà. Lúc bấy giờ Bà la môn Kasibhàradvàja có khoảng 500 lưỡi
cày sẳn sàng, vì là thời gieo mạ. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp
y, cầm bát đi đến chỗ Bà la môn Kasibhàradvàja đang làm việc.
Lúc bấy giờ, Bà la môn Kasibhàradvàja đang phân phát đồ ăn. Đức
Thế Tôn di đến chỗ phân phát đồ ăn, sau khi đến, Ngài đứng một
bên. Bà la môn Kasibhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để
khất thực, liền nói với Thế Tôn: ‘Này sa môn, Ta cày và Ta gieo,
sau khi cày, sau khi gieo, ta ăn. Và sa môn, hãy cày và gieo.
Sau khi cày và gieo, hãy ăn!’. – ‘Này bà la môn Kasibhàradvàja
Ta cũng cày và cũng gieo. Sau khi cày và sau khi gieo, Ta ăn!’
‘Nhưng chúng tôi có thấy cái ách, hay cái
cày hay lưỡi cày, hay thúc (trâu bò), hay các con bò đực của Tôn
Giả Gotama. Vậy mà Tôn Giả Gotama nói: ‘Này Bà la môn
Kasibhàradvàja, ta có cày và ta có gieo. Sau khi cày và sau khi
gieo, ta ăn!’
Lúc bấy giờ Đức Phật mới giải thích cho Bà
la môn Kasibhàradvàja biết rằng, Ngài đã cày và bừa như thế nào
bằng các câu kệ.
Lòng tin là hạt giống
Khổ hạnh là cơn mưa
Trí tuệ đối với Ta
Là ách và lưỡi cày
Xấu hổ là cán cày
Ý là sợi dây buộc
Và niệm đối với Ta
Là lưỡi cày, gậy thúc
(…)
Với tinh cần tinh tấn
Ta gánh chịu trách nhiệm
Ta tự mình đem lại
An ổn khỏi khổ ách
Như vậy, ta đi tới
Không trở ngại thối lui
Chỗ nào ta đi tới
Chỗ ấy không sầu muộn
Và cuối cùng Đức Phật kết luận:
Cày bừa là như vậy
Được quả là bất tử
Sau cày bừa như vậy
Mọi khổ được giải thoát
Lúc đó Bà la môn Kasibhàradvàja mới lấy
một cái bát bằng đồng lớn, cho đổ đầy cháo với sữa, dâng Đức
Phật và thưa:
‘Thưa Tôn Giả Gotama, hãy dùng cháo và
sữa, Tôn Giả là người đi cày! Tôn Giả Gotama đi cày quả bất tử!’
Đức Phật đã từ chối và đưa ra lý do:
Ta không hưởng vật dụng
Do tụng kệ đem lại
Đây không phải là Pháp
Của bậc có chánh kiến
Chư Phật đều bác bỏ
Tụng hát các bài kệ
Khi Pháp có hiện hữu
Truyền thống là như vậy
Ta có thể suy luận rằng, nếu Bà la môn
Kasibhàradvàja cúng dường Đức Phật ngay từ đầu, nghĩa là không
đợi đến khi Đức Phật giải thích rằng Ngài cũng là một người cày
bừa nhưng là một người cày bừa không phải để đem được lúa gạo về
nhà, mà cày bừa để giải thoát mọi khổ đau sầu muộn của kiếp
người. Mặc dù đoạn kinh sau đó Ngài đã nói là ăn món cháo sữa
này rất nguy hiểm, Vì “trừ Như Lai hay đệ tử của Như lai ăn vào
mới tiêu hoá được, còn lại tất cả kể cả các Phạm Thiên ăn vào
đều không thể tiêu hoá”. Nhưng Ta còn nhớ trong bữa ăn cuối cùng
do người thợ sắt Cunda cúng dường, trong đó có món ăn có tên là
mộc nhĩ món ăn mà Đức Phật cũng bảo cho Cunda biết là rất nguy
hiểm, vì ăn vào không thể tiêu hóa.
Như vậy Ta có thể tự hỏi, vì sao Đức Phật
lại từ chối sự cúng dường của bà la môn Kasibhàradvàja mà lại
nhận sự cúng dường của người thợ sắt Cunda. Dù biết trước rằng
món ăn của Cunda có thể sẽ đem đến nguy hiểm cho bản thân mình?
Sở dĩ Đức Phật nhận sự cúng dường của
người thợ sắt Cunda bởi vì sự cúng dường đó phát xuất từ lòng
thành kính đối với Đức Phật và giáo Pháp của Ngài. Sự cúng dường
chỉ có ý nghĩa khi sự cúng dường đó phải được phát xuất từ sự tự
nguyện, nghĩa là mọi “gợi ý” , “gài thế” hoặc “thuyết phục” để
được cúng dường đều trái với giáo Pháp của Đức Phật.
Và sở dĩ Đức Phật từ chối sự cúng dường
của Bà la môn Kasibhàradvàja vì Kasibhàradvàja chỉ chịu cúng
dường sau khi đã bị chinh phục và phải công nhận rằng đức Phật
cũng là người đang đi cày bừa, chứ không phải là kẻ “ăn không
ngồi rồi” như lúc đầu ông đã có ý nghĩ như vậy.
Trong kinh Ẩn Sĩ (sn.35) Đức Phật còn nói
rằng, một trong những đức tánh của một ẩn sĩ đi khất thực, không
được phân biệt giàu nghèo, nhưng quan trọng hơn nữa là khi nhận
đồ cúng dường không được ca tụng cũng như không nói lời hạ mình
để được lòng người cúng dường:
Ai sống nhờ người cho
Nhận lãnh đồ khất thực
Nhận từ trên, từ giữa
Hãy từ chổ còn lại
Không đủ để tán thán
Không nói lời hạ mình
Các bậc trí nhận thức
Vị ấy thật ẩn sĩ
Tôn Giả Mahakassapa là người được Đức Phật
ca ngợi là người thể hiện trọn vẹn sự không phân biệt ấy trong
khi đi khất thực:
“Như vầy tôi nghe, Một thời Thế Tôn trú ở
thành Vương Xá tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy
giờ Tôn Giả Mahakassapa trú ở hang pipphali, đau bệnh khổ đau,
bệnh trầm trọng. Rồi Tôn Giả Mahakassapa sau một thời gian thoát
khỏi bệnh ấy liền suy nghĩ như sau: ‘Ta hãy đi vào vương xá để
khất thực’. Lúc bấy giờ khoảng 500 thiên nhân, đang cố gắng sữa
soạn để Tôn Giả Mahakassapa nhận được đồ ăn khất thực. Nhưng Tôn
Giả Mahakassapa gạt bỏ 500 thiên nhân ấy, vào buổi sáng, đắp y,
cầm bát, đi vào thành Vương xá để khất thực, đi ngang những con
đường của người nghèo, con đường những người ăn xin, con đường
những người thợ dệt. Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết được ý nghĩa
này, trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
Ai sống không nhờ người
Không được người biết đến
Sống tự mình chế ngự
An trú trên lõi cây
Các lậu hoặc đã đoạn
Sân hận được trừ diệt
Vị ấy được ta gọi
Là vị Bà La Môn
Vì thấy được sự nguy hiểm trong việc chạy
theo đám đông để được tôn xưng cũng như hưởng thụ nên cũng chính
Tôn Giả Mahakassapa đã khuyến cáo các Tì Kheo
Chớ du hành đi đầu
Do quần chúng tôn xưng
Tâm ý bị loạn động
Thiền định khó tu chứng
Quần chúng tụ là khổ
Thấy vậy, tránh quần chúng
Mặc dù Tôn Giả cũng thừa biết rằng những
Tì Kheo thiếu nội lực thì việc từ bỏ sự cung kính bề ngoài này
thực là khó khăn, vì theo Tôn Giả “như mũi tên tế nhị, rất khó
rút ra khỏi”:
Đảnh lễ cúng dường này
Xuất phát từ gia đình
Nên biết chúng thật sự
Là đám bùn sa lầy
Như mũi tên tế nhị
Rất khó rút ra khỏi
Kẻ xấu rất khó lòng
Từ bỏ sự cung kính
Nhưng nếu từ bỏ tất cả, quyền thế, quần
chúng đám đông, tiếng tăm, lợi danh vv... vậy thì thông điệp mà
Khuddaka Nikaya gửi đến cho tất cả những người xuất gia là gì?
Có lẽ chưa có bộ kinh nào mà lại đề cập
nhiều đến núi rừng, đến hạnh viễn ly, đến thiền định độc cư,
nghĩa là những đức tính của một bậc ẩn sĩ nhiều như là Khuddaka
Nikaya đã đề cập.
Tại sao vậy? Vì Đức Phật đã nói rằng một
Tì Kheo thì nhất định phải “ưa muốn ẩn dật Thiền tịnh
(patisallanàmà), thích thú ẩn dật Thiền tịnh, chuyên chú nội tâm
tịnh chỉ (ceto samatham), không gián đoạn thiền tịnh
(Aniràkata-jjhànà), thành tựu quán trí (vipassanàla samanagata),
hành trì hạnh đi đến các ngôi nhà trống (brùheta sunàgàrànam),
thì ngay trong hiện tại đạt được chánh trí, có nghĩa là lời
tuyên bố về giác ngộ, mà giác ngộ chính là mục tiêu cuối cùng
của hành giả đi tìm chân lý vậy.
Khi có người hỏi Tôn Giả Mahakassapa vì
sao Tôn Giả đã già rồi mà ngày nào cũng phải leo núi cao, thì
được Tôn Giả trả lời:
Khi chúng leo núi đá
Một số bị mạng chung
Thừa tự bậc Giác ngộ
Tỉnh giác và chánh niệm
Dựa trên sức thần lực
Kassapa này leo núi
Và trong một đoạn khác Tôn Giả Mahakassapa
nói:
Đi khất thực trở về
Ca Diếp leo tảng đá
Ngồi Thiền, không chấp thủ
Đoạn sợ hãi khinh hoàng
Như vậy núi non hùng vĩ luôn luôn là sự
thử thách cho những ai đi tìm sự thanh bình cho nội tâm.
Trong cách trả lời của Tôn Giả Ca Diếp ta
có thể hiểu rằng, Tôn Giả muốn ví sự chinh phục cái tâm của
chúng ta cũng đầy thử thách như khi ta leo lên núi cao. Nguy
hiểm và cheo leo có thể làm cho ta mất mạng, nhưng một khi đã
lên đến tận đỉnh cao rồi thì người leo sẽ thấy được sự hùng vĩ
bao la của đất trời. Cũng vậy, kẻ đã chinh phục được cái tâm của
mình rồi thì tất cả những bất an, hay nói theo Tôn Giả Ca Diếp
thì “sợ hãi khinh hoàng” của con người đều lập tức được chấm
dứt.
Vậy là, núi cao rừng thẳm chỉ là biểu
tượng cho cái tâm đã được giải thoát chứ không nhất định phải ở
trên núi cao thì mới có thể làm chủ cái tâm của mình.
Đối với Phật giáo, có lẽ nuôi dưỡng đỉnh
núi cao trong chính mình mới quan trong hơn là sống trên núi cao
chăng?
Trong Trưởng Lão Tăng Kệ có kể lại một cậu
bé có tên là Sivaka, khi mẹ Sivaka được tin em trai mình là
Vanavaccha xuất gia, thọ đại giới, nguyện sống trong rừng suốt
đời. Mẹ Sivaka nói với con: ‘này Sivaka, con hãy xuất gia dưới
sự chỉ dẫn của Vanavaccha và phục vụ cho Ngài, vì nay Ngài đã
già!’ Sivaka nghe lời mẹ, xuất gia ở trong rừng hầu hạ săn sóc
cho Vanavaccha. Một hôm đi đến gần làng thì Sivaka bị đau nặng,
khi thuốc không chữa được, Sivaka không thể trở về rừng, và
trưởng lão Vanavaccha đi tìm thì thấy Sivaka đang bị đau nằm ở
gần làng. Sau khi được uống thuốc và săn sóc, vết thương đã lành
thì trưởng lão Vanavaccha liền nói với Sivaka: ‘này Sivaka, từ
khi ta xuất gia đến nay, ta không sống ở trong làng. Vậy ta hãy
cùng nhau vào rừng trở lại’.
Sivaka trả lời: ‘Dù thân con đang ở trong
làng nhưng tâm con thì bao giờ cũng hướng về nứi rừng’.
Câu nói trên của Sivaka khiến ta nhớ đến
câu của Trần Nhân Tông trong Cư Trần Lạc Đạo Phú:
Mình ngồi thành thị
Nết dùng sơn lâm
Nếu một Thiền Sư hay một nhà ẩn dật đang
sống trên núi cao thì họ chỉ cần buông bỏ những khát vọng trong
tâm tưởng về dục vọng, nhưng một người như vua Trần Nhân Tông
thì sư buông bỏ để ra đi một mình phải khó khăn gấp bội, vì vừa
phải buông bỏ trong tâm tưởng vưa lại phải buông bỏ những cám dỗ
trong thực tế nữa, vì những lạc thú của trần gian thì đã có sẳn
đó rồi chỉ hưởng thụ hay không mà thôi.
Vậy ta có thể nói rằng toàn thể Khuddaka
Nikaya là kêu gọi người xuất gia hãy buông bỏ, từ bỏ và ra đi…
Thí dụ kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
chẳng hạn. Kinh có cả thảy là 368 câu, nhưng có 2 câu được lập
đi lặp lại đến những 41 lần. Hai câu đó là:
Hay sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng
Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng kêu gọi
người xuất gia hãy buông bỏ những gì?
Truớc hết, Đức Phật khuyên những người
xuất gia, hãy buông bỏ những thói hư tật xấu mà tưởng chừng
không có gì quan trọng, nhưng cái tưởng chừng không quan trọng
này lại đánh mất tư cách của người xuất gia, theo kinh thì đó
là:
Có một số người xuất gia
Chung sống thật khó khăn
Cũng như các gia chủ
Ở tại các cửa nhà
Sống vô tư vô lự
Giữa con cháu người khác
Không chạy theo thời thượng, tức là những
hình thức phù phiếm bề ngoài:
Không trang điểm bày biện
Không ước vọng mong cầu
Từ bỏ mọi hào nhoáng
Nói lên lời chân thật
Và đặc biệt nhất là kinh nhắc đi nhắc lại
nhiều lần người xuất gia không được giao du với bạn xấu, những
người bạn “ không thấy được mục đích tối thượng của người xuất
gia”:
Với bạn bè độc ác
Hãy từ bỏ lánh xa
Bạn không thấy mục đích
Quen nếp sống quanh co
Cũng là dễ hiểu khi Đức Phật nhắc đi nhắc
lại nhiều lần người xuất gia phải tránh giao du với bạn bè xấu
ác, vì bạn bè đóng một vai trò rất quan trọng chẳng những trong
việc đi lên hay đi xuống (nghĩa là tốt hoặc xấu) của một cá nhân
mà cho cả tập thể Tăng đoàn nữa:
Nếu tìm được bạn lành
Thận trọng và sáng suốt
Bạn đồng hành chung sống
Bạn thiện trú hiền trí
Cùng nhau đồng nhiếp phục
Tất cả mọi hiểm nạn
Hãy sống với bạn ấy
Hoan hỷ giữ chánh niệm
Phải chăng nếu người xuất gia nào cũng
luôn luôn thích chung sống với “bạn thiện trú hiền trí” thì tập
thể tăng đoàn sẽ không gặp thách thức và hiểm nạn như hiện nay.
Cuối cùng và quan trọng nhất của người
xuất gia là:
Từ bỏ để một bên
Mọi biểu tượng gia đình
Như loại cây san hô
Tước bỏ mọi lá cây
Bậc anh hùng cắt đứt
Mọi trói buộc gia đình
Sau khi đã từ bỏ, buông bỏ để ra đi trong
cô độc như con tê giác một sừng, thì cuối cùng sẽ là gì? Một đời
sống mới sẽ xuất hiện chăng?
Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng đã đưa ra
nhiều hình ảnh sự tự do giải thoát của người đã can đảm từ bỏ ấy
như “gió không vướng mắt” khi thổi qua màn lưới “như con nai
trong núi rừng, không gì bị trói buộc, từ nơi chỗ nó muốn, để
tìm kiếm thức ăn” hay như “Hoa sen không bị nước thấm ướt”.
Nhưng hình ảnh quyến rũ nhất, trầm hùng
nhất là khi Đức Phật đã ví sức mạnh của một người đã từ bỏ mọi
sự ra đi một mình như sau:
Giống như con sư tử
Với quai hàm hùng mạnh
Bậc chúa của loài thú
Sống chinh phục chế ngự
Hãy sống các trú xứ
Nhàn tịnh và xa vắng
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng
Nhưng giữa một xã hội mà lúc nào sức mạnh
của tập thể cũng được đề cao, thì hình ảnh con sư tử cô độc rống
lên tiếng rống oai hùng làm các loài thú nhỏ bé trong rừng sâu
đều phải khiếp sợ có vẻ tiêu cực quá chăng?
Chúng ta nên nhớ rằng, tất cả những cuộc
cách mạng, hay những cuộc cải cách xã hội vĩ đại (kể cả cuộc
cách mạng vô sản 1917) trên thế giới đều không phải bắt đầu từ
những người gọi là tích cực, nghĩa là những người đang giữa
những địa vị quan trọng trong xã hội mà thường bắt đầu từ
những nhà tư tưởng, những triết gia, tức là những kẻ sống trầm
lặng ngoài đám đông xã hội, nhưng họ mới là những kẻ rống lên
tiếng rống của con sư tử, làm lay động giữa một xã hội đang ngủ
say.
Như cuộc các mạng Pháp (1789) chẳng hạn,
mà sau đó tinh thần của cuộc cách mạng này đã tràn lan khắp thế
giới và ảnh hưởng cho đến tận ngày nay nữa. Chẳng phải nhờ những
chữ in nằm im lìm bất động trong những tác phẩm Contrat Social
(dân ước), Emile của Rousseau, L’esprit Des Lois (vạn pháp tinh
lý), Lettres persanes (thư Ba Tư) của Montesquieu hoặc Lettres
Philosophiques (thư triết lý) của Voltaile đã thổi một sức mạnh
vào xã hội Pháp đang bị giai cấp tu sĩ và quý tộc chà đạp bị bắt
buộc phải đứng dậy phá tan ngục Bastille vào ngày 14 tháng 7 năm
1789 đó sao?
Nhưng với Phật giáo có một cuộc cách mạng
còn quan trọng hơn, đó là cuộc cách mạng tự thắng những đam mê
dục vọng phát xuất từ bản ngã vị kỷ ở chính nơi mỗi người trong
chúng ta. Cuộc cách mạng này còn quan trọng hơn là mọi cuộc cách
mạng cải tạo xã hội khác đến từ những điều kiện bên ngoài.
Bởi vậy, kinh đã nói rằng, trong đêm thái
tử Tất Đạt Đa đánh phá nội ma ngoại chướng hoàn thành tuệ giác
vô thượng dưới gốc cây Bồ Đề thì quả đất đã rung động đến 7
lần.
Quả đất có rung động hay không?
Điều đó không quan trọng, nhưng điều quan
trọng với chúng ta, những con người đang ngụ cư trên mặt đất
khổ đau này là từ cái đêm mà Đức Phật đã tự chiến thắng mình một
cách oanh liệt đó, đến nay đã hơn 20 thế kỷ rồi vầy mà vẫn còn
tiếp tục làm rung động trong trầm lặng biết bao nhiêu tâm hồn
đang khát khao vươn lên khỏi thân phận bi thảm của kiếp người
trên hành tinh đầy bất an và hiểm nguy này.
Lời kết:
Kể từ khi có mặt trên mặt đất này thì điều
mà con người lúc nào gần như cũng bị ám ảnh, phải chăng đó chính
là thời gian?
Vì thời gian đưa mọi sự đi đến hủy diệt và
cuối cùng là cái chết với mỗi người trong chúng ta.
Tất cả những gì con người cố tích lũy, xây
dựng đều trở thành vô nghĩa trước sự tàn phá hủy diệt cũng như
cái chết này. Đúng như một văn hào Mỹ, William Faulkner, đã viết
trong tác phẩm The Sound And The Fury (Âm thanh và cuồng nộ):
“Này Quentin ạ, cha cho con cái đồng hồ
này, cha cho con nấm mồ chôn hết tất cả hy vọng và tất cả ham
muốn… con sẽ dùng đồng hồ này để quy hết tất cả kinh nghiệm của
loài người vào chỗ phi lý Reductio ad absurdum…Tất cả nhu cầu
của đời con sẽ không bao giờ được thỏa mãn, cũng như tất cả nhu
cầu của những người xung quanh con cũng thế.
Cha cho con cái đồng hồ này không phải để
con nhớ đến thời giờ, mà để con có thể quên nó trong một khoảnh
khắc, để con đừng hì hụt mệt nhọc cố gắng chinh phục nó nữa. Bởi
vì con ạ, người ta không bao giờ thắng trận, và chiến thắng chỉ
là ảo tưởng của những thằng khờ…” (bản dịch của Phạm Công
Thiện).
Cũng cùng một tiếng nói đầy u uất như vậy,
nhưng trầm lặng hơn của một thi sĩ phương Đông, Nguyễn Du của
Việt Nam cũng nói qua hai câu thơ;
Xuân lan thu cúc thành hư sự
Hạ thư đông hàn đoạt thiếu niên
Lan mùa xuân, cúc mùa thu đã trở thành
chuyện hão
Mùa đông rét, mùa hè nóng đã cướp đoạt
tuổi xanh mất rồi
Trong Khuddaka Nikaya, Đức Phật đã chỉ cho
con người thấy có một nơi mà con người không bị ám ảnh bởi bóng
ma của sự hủy diệt đó nữa, nơi chốn đó được Đức Phật diễn tả như
thế này:
“Này các Tì Kheo, có một xứ (Ayatana) tại
đấy không có đất, không có nước, không có lửa, không có gió,
không có hư không vô biên xứ; không có thức vô biên xứ; không có
vô sở hữu xứ; không có phi tưởng phi phi tưởng xứ; không có đời
này, không có đời sau, không có mặt trăng, không có mặt trời.
Do vậy, này các Tì Kheo, Ta tuyên bố không
có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh,
không có an trú, không có vận chuyển, không có sở duyên... Đây
là sự đoạn tận khổ đau.”
Và đây là một câu nói khác nữa của Đức
Phật cũng về nơi chốn không có khổ đau ấy :
“Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động,
cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao
động thời có khinh an, có khinh an thì không có thiên về. Không
có thiên về, thì không có đến và đi. Không có đến và đi, thời
không có diệt và sanh, thời không có đời này, không có đời sau,
không có đời giữa. Đây là sự đoạn diệt khổ đau”
Mặc dù những lời trên của Đức Phật không
nhắc đến Niết Bàn nhưng HT Minh Châu cũng như hầu hết các nhà
nghiên cứu Phật học đều đồng ý rằng đấy là những đoạn Đức Phật
mô tả về Niết Bàn, tức là trạng thái của một người đã đạt được
tự do và giải thoát hoàn toàn.
Nhưng ta phải đi tìm cái nơi không có đất,
không có nước, không có lữa, không có gió, không có đi, không có
đến, không có nơi nương tựa… ấy ở đâu?
Tìm ngay trong cái tâm phân biệt của chúng
ta chăng?
Khi tâm sanh hề sanh tử sanh
Khi tâm diệt hề sanh tử diệt
Như Tuệ Trung Thượng Sỹ một tư tưởng gia
của Thiền học đời Trần đã phát biểu như vậy chăng?
Nhưng dù chúng ta có đi tìm ở bên trong
hay bên ngoài, ở trên hay ở dưới hay bất cứ nơi nào đi nữa thì
một khi Niết Bàn thường được định nghĩa là: “sở dĩ gọi là Niết
Bàn vì Niết Bàn là sự dứt bỏ, sự tách rời (Ni) ra khỏi ái dục
(vàna) sự thèm khát nhục dục” thì nhất định chúng ta phải buông
bỏ, dứt bỏ mọi ràng buộc để ra đi như con tê giác một sừng bước
đi một mình trong rừng sâu thì mới hy vọng tìm được cái chốn
không còn đau khổ ấy, nếu không thì suốt đời ta vẫn là kẻ:
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn, gia hương vạn lý trình
Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết quê xa vạn dặm đường
(Nguyễn
Lang dịch)
Một người như Trần Thái Tông, đang có
trong tay tất cả những gì mà con người khao khát thèm muốn như
quyền lực, mọi lạc thú của trần gian… Vậy mà vẫn cảm thấy mình
là kẻ đang bị lưu đày nơi chân trời gốc bể, vẫn mong tìm về trở
lại mái nhà xưa mà mình đã tự đánh mất trên bước đường lang
thang phiêu bạt.
Thật đáng để cho chúng ta, những con người
xuất gia, suy ngẫm vậy thay!
T.P.A
|