Nhưng Toàn Nhật là ai?
Thật
là khó khăn khi chúng ta muốn đi tìm lại dấu vết của vị Thiền sư
đã bị quên lãng gần hai thế kỷ này.
Có
lẽ, Toàn Nhật cũng giống như bao nhiêu người khác trên cuộc đời
này, nghĩa là cũng đã đến trên mặt đất hoang vu này rồi lặng lẽ
ra đi như bao nhiêu tỷ người khác. Nhưng Toàn Nhật thì khác
chúng ta ở chỗ, đã đi rồi, nhưng nói theo hai câu thơ của Nguyễn
Du:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã
mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Tác
giả Lê Mạnh Thát trong lời giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp
của Toàn Nhật cũng phải công nhận sự khó khăn này:
“Tài liệu cho ta
nghiên cứu về cuộc đời Toàn Nhật hiện nay tương đối hiếm. Chúng
gồm: thứ nhất là long vị của Toàn Nhật thờ tại Chùa Phổ Quang,
thôn Phổ Trạch, xã Phước Thuận huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định.
Đây là một long vị tương đối cổ, không những ghi pháp danh pháp
hiệu của Toàn Nhật, mà còn ghi lại cho ta cả năm tháng, ngày
sinh cũng như ngày mất của Toàn Nhật. Nó thuộc tài liệu quý giúp
chúng ta có được hiệu niên đại Toàn Nhật một cách chính xác”
Cứ
theo long vị còn thờ ở Chùa Phổ Quang tỉnh Bình Định thì ta chỉ
biết được “Toàn Nhật sinh vào giờ Tỵ ngày 28 tháng 10 năm Đinh
Sửu (1757) và thị tịch vào giờ Dần ngày 6 tháng 4 năm Giáp Ngọ
(1834) thọ 78 tuổi.
Chỉ có vậy, còn quê
quán của ông ở đâu thì gần như ta không được biết gì hết Nhưng
tác giả Toàn Nhật Quang Đài Toàn tập cho rằng: “Căn cứ
vào văn ngôn dùng trong Hứa Sử truyện vãn, ta thấy xuất
hiện một số ngữ hiện còn dùng rất phổ biến tại vùng Trị Thiên
ngày nay. Chẳng hạn ngữ mần ri”:
Sơn lâm luận sự tu trì
Dường như khó mà dễ ý gì mần ri.
hoặc:
Điệu An mới nói mần ri
Thanh Sơn mỹ hiện trụ trì nơi đây.
….
Hứa
Sử, một trong những nhân vật chính của Hứa Sử truyện vãn
cũng xác nhận rằng mình là người ở chốn kinh thành:
Rằng tôi ở chốn kinh thành
Tên là Hứa Sử phận mình mồ côi.
Nhưng
kinh thành trong hai câu thơ nói ở đây là kinh thành nào?
“….Ở Đàng Trong thời
Toàn Nhật thì kinh thành đây, tất nhiên là kinh thành Phú Xuân
được chúa Nguyễn Phúc Khoát dời từ Kim Long xuống từ những năm
1738”.
Đó là
Toàn Nhật tìm thấy trong long vị và Toàn Nhật suy đoán từ tác
phẩm Hứa Sử truyện vãn. Còn chính Toàn Nhật thì sao? Toàn
Nhật có nói gì về chính mình không? Trong tác phẩm Tam giáo
nguyên lưu ký, đã cho ta thấy sự thông thái và uyên bác của
Toàn Nhật về ba Tôn giáo chính của dân tộc ta là Phật giáo,
Khổng giáo và Lão giáo. Trong đoạn cuối của tác phẩm, Toàn Nhật
đã cho biết vì sao ông đã trở về với Phật giáo:
Ta
xưa cũng dự Nho gia
Mười hai tuổi học đến ba mươi rày
Hỏi thăm năm bảy ông thầy
Không ai tỏ đặng tánh trời huyền môn
Tông nguyên uẩn áo thánh nhân
Cũng là Chân Lạc hạo nhiên đề truyền
Sau ta đầu học phép Thiền
Thuở ba mươi tuổi vậy liền xuất gia
Duyên lành may gặp thầy ta
Người thương chỉ thị thoát nhà tử sinh
Thiền môn khăn khắn tu hành
Bốn mươi ba tuổi tánh lành chút thông.
Soạn làm một kệ mừng lòng
Để
cho người thế cũng đồng xem coi.
Vậy
là đến ba mươi tuổi thì Toàn Nhật mới xuất gia. Trong Xuất
gia vân, Toàn Nhật cho biết sở dĩ ông xuất gia trễ như vậy
là vì phải phụng dưỡng cha mẹ già:
Xưa còn ân nặng cù lao
Vậy nên nấn ná ra vào dưỡng nuôi
Là
chỉ sau khi cha mẹ đã khuất núi rồi, thì Toàn Nhật mới thực hiện
chí nguyện xuất gia học đạo mà có lẽ ông đã ôm ấp từ lâu.
Thảo thân nay đã khẳm rồi.
Tay
giơ gươm tuệ chân lui thị thành.
Dường
như trong các tác phẩm văn học cổ điển của Phật giáo Việt Nam
chưa có câu nào diễn tả được chí nguyện xuất gia học đạo một
cách hoành tráng như câu của Toàn Nhật:
Tay giơ gươm tuệ chân lui thị thành
Câu
ấy, theo tôi có thể so sánh được với câu nổi tiếng trong Quy Sơn
Cảnh sách: Phát túc siêu phương mà HT Trí Quang đã chuyển
sang Việt ngữ rất mực tài hoa là: Người xuất gia cất bước là
muốn vượt đến phương trời cao rộng.
Nhưng
trong Tam giáo Nguyên lưu ký, ta còn nghe ra được tiếng
thở dài não ruột của Toàn Nhật trước khi ông đi xuất gia:
Bởi chưng căn trước vụng tu
Thân sau nên chịu trượng phu lỡ thì
Cho hay thế sự không vì
Hiền ngu lộn lạo bạc chì khôn phân
Thế
có nghĩa là ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ già ra, Toàn Nhật chắc
đã từng đi theo tiếng gọi mà ta có thể đoán chắc rằng, bất cứ
một người trẻ tuổi có ý chí, có lý tưởng cũng đều ấp ủ trong
lòng. Đó là lý tưởng muốn dời non lấp biển, muốn vượt lên khỏi
cuộc đời tầm thường và nhàm chán này, như hai câu thơ bằng chữ
Hán sau đây của Toàn Nhật:
Bình sinh dưỡng tựu xung tiêu chí
Trúc nhuyễn tùng phong cánh bất di
Bình sinh nuôi chí xông trời thẳm
Trúc yến tùng lay chẳng biến dời
Trong
bài phú có nhan đề là thơ Bà Vãi, Toàn Nhật cho biết, lúc
ba mươi tuổi nghĩa là lúc chưa xuất gia ông đã từng ở nơi doanh
liễu:
Thuở chưa xuất gia
Lòng vốn đã tin kính.
Nay nguyền học đạo
Tinh há dễ đơn sai.
Riêng tưởng sự đời.
Đem thân huyễn luống trau sắc huyễn
E
theo lưới nghiệp
Sa
biển mê ắt nhuốm lòng mê
Nên tuốt dép lánh xa, khỏi nơi doanh liễu
Dốc liều mình tìm tới, vào chốn Thiền môn.
Cứ
theo lời chú thích của tác giả Toàn Nhật Quang Đài:
“Tướng Chu Á Phu đời Tần đóng bản doanh nơi Tế liễu, văn ngôn
thường dùng chữ doanh liễu để chỉ doanh trại của các tướng
lãnh”.
Vậy
ta có thể suy đoán “trượng phu lỡ thì” mà Toàn Nhật đã tâm sự
trong Tam giáo nguyên lưu ký, có nghĩa là ông đã từng là
một tướng lãnh, để thực hiện ước mơ “nuôi chí xông trời thẳm”
của tuổi trẻ mình vậy. Nhưng Toàn Nhật đã từng là một vị tướng
chỉ huy cho triều đại nào? Đó là việc ta sẽ bàn đến sau này.
Cũng
theo lời tâm sự của Toàn Nhật trong Tam giáo nguyên lưu ký
thì đến: “Bốn mươi ba tuổi tánh lành chút thông”, thế có nghĩa
đến tuổi 43 thì Toàn Nhật mới đắc Pháp. Vậy Toàn Nhật đã đắc
Pháp với ai? Và ai là vị thầy của Toàn Nhật? Và vị thầy của Toàn
Nhật đã đắc Pháp nhất định phải là một bậc đạo sư đầy thông tuệ,
nên Toàn Nhật mới nói về thầy mình một cách tuyệt đối qua 2 câu:
Duyên lành may gặp thầy ta
Người thương chỉ thị thoát nhà tử sanh
“Căn cứ từ Quang tự
sa môn Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm Thiền Sư xuất thế
nhân do sự tích chí” thì Toàn Nhật là một trong 28 vị “Pháp
truyền đăng” của Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm. Nói cách
khác, ông là một người đệ tử đắc Pháp với Pháp Chuyên Luật
Truyền Diệu Nghiêm, do đó phải xuất gia với vị thiền sư này”.
Theo Lược sử Phật
giáo và các chùa ở Phú Yên của hai tác giả Nguyễn Đình Chúc
và Huệ Nguyễn thì: “Diệu Nghiêm sinh quán ở làng cổ Pháp, Phủ
Thăng Hoa nay là Thăng Bình tỉnh Quảng Nam (…) bẩm tính thông
minh, học giỏi. Năm 15 tuổi ra kinh đô học và năm 18 tuổi (1755)
thi đậu tú tài”.
Biến cố có thể được
xem là quan trọng nhất đã làm đảo lộn cuộc đời Diệu Nghiêm là:
“Đến năm Quý Hợi (1743) lúc đã 18 tuổi, tổ vừa chiếm được công
danh tình cờ xem một đoạn tuồng Tam Kinh Cố Sự, sau đó
lại xem Long Hổ Sự Duyên, bèn tỉnh ngộ, biết giàu sang là
một trường ảo mộng, sao bằng sống ở núi khe mà học đạo, bắt
chước những bậc cổ nhân kia. Bèn trở về nhà, lạy trình cha mẹ
xin được xuất gia như các bậc cổ nhân kia vậy”.
Sau
khi đến chùa Phước Lâm (Quảng Nam) đầu sư học đạo với Thiền sư
Minh Hải, người đã sáng lập ra chùa Chúc Thánh, Diệu Nghiêm lại
lặn lội từ Quảng Nam và Bình Định học với danh sư Liễu Triệt và
nghiên cứu Đại Tạng kinh (mà theo giáo sư Lê Mạnh Thát thì lúc
đó chùa Thập Tháp đã có Đại Tạng kinh do Tổng trấn Hà Tiên lúc
bấy giờ là Mạc Thiên tử đem ra hiến cúng).
Tại
Bình Định, ngoài học Phật và đọc Đại Tạng kinh ra, Diệu Nghiêm
còn đến chùa Linh Phong (thường gọi là chùa Ông Núi). Theo hai
tác giả Lược sử Phật giáo và các Chùa Phú Yên, thì Diệu
Nghiêm đến chùa Linh Phong: “Cất riêng một am để tả kinh Pháp
Hoa bằng chữ vàng một bộ, Kinh Kim Cang, Hồng Danh mỗi thứ một
quyển, lấy mực tả một bộ kinh Pháp Hoa, lấy mực viết một tiểu
bổn cộng tất cả là 10 bộ, Tam Thiên Kinh 5 bộ. Đêm thì tọa thiền
và tụng Pháp Hoa, ngày thì tả kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa Kim
Cang”.
Điều
đó chứng tỏ rằng Diệu Nghiêm học Phật không phải chỉ để thỏa mãn
tri thức của một nhà Nho, mà học với tất cả khát khao mong uống
được ngụm nước đầu nguồn.
Chùa
Linh Phong tọa lạc trên đỉnh núi Bà, một trong những rặng núi
dài và hùng vĩ nhất của tỉnh Bình Định. Vị thiền sư khai sáng ra
chùa này thường được người dân gọi là Ông Núi (Mộc y sơn ông),
hành tung của ông Núi không khác gì những cụm mây trắng trên
đỉnh núi cao này, nghĩa là đã đến rồi lại ra đi mà không hề để
lại dấu vết gì hết, nhưng cái hang đá mà tương truyền ông Núi đá
ngồi thiền suốt đêm ngày thì vẫn còn y nguyên ở đó.
Khoảng cuối thập niên 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ trước,
khi còn là một chú tiểu ở vùng quê này, mỗi khi có dịp theo thầy
đến chùa kỵ tổ hoặc mừng tuổi đầu năm, tôi có thấy nhiều bản gỗ
khắc kinh chữ Hán để trong một căn nhà được xây riêng biệt sau
chùa.
Năm
1974 tháp tùng cùng giáo sư Lê Mạnh Thát về Bình Định sưu tập tư
liệu về Phật giáo Việt Nam, giáo sư tìm được bản viết Linh
Phong tự ký của Đào Tấn trong tủ sách của chùa. Đào Tấn cho
biết rằng, các Tổ sư ở đây đã chú giải Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim
Cang đến 200 quyển kinh Pháp Hoa. Có thể đó là chú giải Pháp
Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang của Diệu Nghiêm, trong những năm Thiền
sư đến ở chùa Ông Núi chăng?
Khi
Đào Tấn viết điều này, không phải nghe kể lại mà chắc chắn Đào
Tấn đã chính mình đọc được những bản chú giải này. Vì tiểu sử
của Đào Tấn cho biết vào năm 1885, sau khi từ quan rời Phú Xuân
về lại Bình Định, Đào Tấn đã đến ở tại chùa Linh Phong gần 2
năm, mà dường như Đạo Tấn đã thấy được cảnh cửa huyền vi của đạo
Thiền qua bài thơ sau đây:
Vi
tiếu lậu thiền cơ
Phong trần không mãn y
Linh Phong tam thập tải
Vị
kiến thử tăng quy.
Miệng
mỉm cười như để lộ vẽ huyền vi trong đạo Thiền. Mà gió bụi đã
bám đầy áo
Chùa
Linh Phong đã hơn 30 năm qua, vẫn chưa thấy Lão Tăng này trở về
trở về.
Và
trên đỉnh núi cao của chùa Linh Phong, Diệu Nghiêm có lẽ cũng đã
“miệng mỉm cười như để lộ lẽ huyền vi của Đạo Thiền” chăng?
Ta
không thể nào xác quyết được, ta chỉ có thể xác quyết là Diệu
Nghiêm rất say mê cảnh núi non của chùa Linh Phong. Điều ấy rất
dễ nhận ra, nếu ai đã từng đến viếng chùa Từ Quang ở Phú Yên,
ngôi chùa mà Diệu Nghiêm đã khởi đầu bằng một thảo am rất nhỏ để
tiếp tục sự nghiệp chú giải và sáng tác của mình.
Dù
núi non không hùng vĩ như chùa Linh Phong ở Bình Định, nhưng
cảnh trí chùa Từ Quang cũng rất đẹp. Chùa toạ lạc trên vùng núi
Đá Trắng (Bạch Thạch). Phía Bắc dựa vào dãy núi Xuân Đài, nhìn
xuống phía Nam trước chùa là con sông Cái Ngân Sơn.
Toàn
Nhật sau khi đã xuất gia với Diệu Nghiêm chắc đã sống ở chùa Từ
Quang này nhiều năm, và có lẽ thỉnh thoảng cũng đã cùng với Thầy
ra Bình Định leo lên đỉnh núi Bà để viếng thăm lại chùa Linh
Phong. Những năm cuối thập niên 50 và đầu những năm 60, lúc đất
nước chưa ly loạn (sau những năm đó đến 1975 thì không lên chùa
được nữa) thì đường lên chùa đã quả khó khăn rồi, huống chi vào
thời của Diệu Nghiêm và Toàn Nhật, nghĩa là ở nửa cuối thế kỷ
18.
Tôi
cứ tưởng tượng hồi đó muốn lên được tận đỉnh núi của chùa thì
hai thầy trò phải mò mẫm vịn từng cành cây hay vách đá mà đi.
Bởi vậy, chỉ có những ai ôm khát vọng “thoát nhà tử sinh”, thì
mới đủ nghị lực và ý chí để tìm đến những nơi xa xôi và hiểm
nguy như vậy.
Trong
Hứa Sử truyện vãn, Toàn Nhật đã nhiều lần nói đến con
đường đi lên đầy khó khăn và nguy hiểm:
Cheo leo non nước xa đàng
Quyết lòng cầu đạo gian nan chẳng từ
Và
một đoạn khác :
Chí tôi muốn tới lâm tuyền
Quyết phương tịch cốc liệu đường tử sinh
Thân người như bọt lênh đênh
Nắng không dời gót, ắt đành mắc mưa.
Khi
đọc những câu sau đây cũng trong Hứa Sử truyện vãn, tôi
có cảm tưởng là Toàn Nhật đã ghi lại niềm thanh bình của nội tâm
mình khi sống tại những ngôi chùa như Linh Phong và Từ Quang:
Ba
năm ẩn chốn non xanh
Đói no chẳng quản, rách lành chi nao
Bốn mùa cảnh vắng thanh tao
Chim kêu tiếng Pháp, suối xao máy Thiền
Nhiệm màu khuya sớm luận bàn
Mặc khi vui ngắm hoa vàng trúc xanh.
Đối
với Toàn Nhật yêu núi non rừng thẳm cũng có nghĩa là yêu luôn sự
từ bỏ. Cho nên ta chẳng lấy gì làm lạ, hễ khi nào Toàn Nhật nhắc
đến những con người đã can đảm vứt bỏ những lợi danh những hạnh
phúc mong manh của cuộc đời để lên đường đi tìm con đường tuyệt
đối thì cây bút của Toàn Nhật luôn luôn làm ta bồi hồi xúc động.
Đây
là Nhan Hồi trong Tam Giáo Nguyên lưu ký:
An
bần lạc đạo thanh tao
Đẫy cơm bầu nước chẳng nao chẳng nài
Sang giàu dong ruỗi mặc ai
Đạo mầu chân tánh hôm mai trau dồi.
Và
Lục Lỗ Huệ Năng trong Lục Tổ Diễn Ca:
Dầm sương dãi nắng không sờn
Đói no chẳng quản thiệt hơn chi màng
Phận mình bần khổ gian nan
Có
thân có khổ, dặm ngàn sá chi.
Nhưng
nói đến từ bỏ, nói đến vứt bỏ để ra đi thì dễ, và ai cũng có thể
ba hoa được, nhưng thực hiện được ước mơ đó như Nhan Hồi như Lục
Lỗ Huệ Năng đã thực hiện thì vẫn là một điều thiên nam vạn nan
với những con người vẫn còn đang mê ngủ trong đêm dài tối tăm
trên cuộc đời này. Toàn Nhật ý thức được điều này, nên trong hai
câu thơ cuối trong Thiền Cơ Yếu ngữ vãn, Toàn Nhật đã
thống thiết kêu gọi:
Có
bi có lực có hùng
Mới đủ sức dùng vượt biển trèo non
Nhưng mặc dù Diệu
Nghiêm cũng như học trò của mình là Toàn Nhật đã “Biết giàu sang
là một trường ảo mộng” và đã quyết định “bắt chước những bậc cổ
nhân kia” rồi quyết định từ bỏ để “sống ở núi khe mà học đạo”.
Nhưng trong những tác phẩm của mình Diệu Nghiêm và Toàn Nhật đã
chứng tỏ là những nhà truyền giáo đầy bản lĩnh, không chấp nhận
“khuôn vàng thước ngọc” do truyền thống đã để lại mà đã công
khai một cách can đảm đặt ngược lại vấn đề. Ví dụ trong tác phẩm
Tam Bảo biện hoặc luận Diệu Nghiêm dám nêu lên những hoài
nghi cũng như thắc mắc mà ta đoan chắc rằng bất cứ ai cũng đã ít
nhất một lần thắc mắc và hoài nghi như: “Từ xưa đến nay, người
chết thì làm Phật sự để dâng cho vong linh, nhưng có ai thấy họ
thoát khỏi địa ngục mà sanh lên thiên đàng đâu. Phải chăng đó là
sự bày vẽ đối trá của các thầy tu”.
Trong
Hứa Sử truyện văn, Toàn Nhật cũng đặt vấn đề như Diệu Nghiêm,
thầy mình:
Hứa Sử tôi mới thưa rằng
Mấy ai cho biết lánh đường tử sinh
Điều rằng thầy sãi trớ trinh
Kiếm ăn bày đặt dỗ dành người ta
Giấy trắng mực đen chép ra
Rằng Phước rằng tội phỉnh phờ thế gian.
Trong một đoạn khác,
Diệu Nghiêm cũng làm cho ta ngạc nhiên không kém. Diệu Nghiêm đã
đặt lại vấn đề mà gần như bất cứ một nhà Phật học ở thời nào
cũng có thể đã nghĩ trong đầu nhưng mà chẳng bao giờ đủ can đảm
nói thẳng ra. Đó là vấn đề đi tu, thực sự có phải là đi tìm giải
thoát hay chỉ là hèn nhác trốn thuế, bỏ ơn cha mẹ, vô tích sự,
không ích lợi gì cho kẻ khác? Diệu Nghiêm viết: “Người giàu sang
thế gian ở nhà vàng điện ngọc, tòa báu đài quỳnh, thê thiếp ba
ngàn, hầu hạ vài vạn, áo gấm thức ngon, giường nệm châu ngọc,
vàng bạc châu báu vô biên, thứ vật đời không lường, theo lòng
vui muộn, nhàn nhã tự do, cho đến người giàu có đủ thê thiếp,
rượu thịt béo ngon, theo ý hưởng lạc không khoái ư? Sao lại đi
làm thầy tu, bỏ hết dục lạc thế gian như thế, mà ở núi rừng vắng
vẻ thâm u, mặc áo vải, đi xin ăn để tìm sự sống, mặc áo cỏ, ăn
lá cây, khổ hạnh đói khát. Chịu những điều như vậy đó, ấy là rất
hèn, khác gì với kẻ ăn xin đâu? Chỉ là để trốn sưu thuế vua, bỏ
quên ơn cha mẹ, quăng vứt cương thường, trở thành người lãng
đãng, không có ích gì cho kẻ khác, há không là sai lầm sao?”.
Diệu Nghiêm còn đem
lý thuyết “nghiệp báo” của chính Phật giáo đề ra đẩy vấn đề có
vẽ như đến cùng đường của sự bế tắc nữa: “Ta thường thấy người
đời quy y tam bảo, bỏ tục đi làm thầy tu, vì lý do gì mà vứt bỏ
cuộc đời vinh hoa, năm dục khoái lạc, để mặc áo thô, ăn cơm xin
chịu đựng những sự cực khổ, nhạt nhẽo, vắng vẻ hiu quạnh. Há
chẳng phải như ngạn ngữ nói là do ‘nghiệp báo’ đó sao?”
Con
người từ nhiều thế kỷ nay, luôn luôn phải sống trong sự nghịch
lý, nghĩa là lúc nào cũng mơ ước một cuộc sống ngày mai sẽ tốt
đẹp hơn ngày hôm nay. Chính vì thế, nên mới có nhiều tôn giáo,
nhiều ý thức hệ, lý thuyết ra đời để đáp ứng sự khát khao muôn
thưở đó của con người.
Nhưng
đau đớn thay, tôn giáo nào, ý thức hệ nào cũng muốn chứng minh
rằng chỉ có tôn giáo, lý thuyết, ý thức hệ của mình mới đáp ứng
được nỗi khát khao ấy của con người, nên đã thi đua nhau “tô
hồng” cho tôn giáo và ý thức hệ của mình. Hậu quả hiển nhiên là,
hiện nay một phần của nhân loại lại đang là nạn nhân thê thảm
cho cái “màu hồng” mà các tôn giáo và ý thức hệ tự tô vẽ rồi
dùng quyền lực bắt buộc con người phải chấp nhận “màu hồng” do
chính họ tự tô vẽ ấy.
Đức
Phật đã thấy được rằng, mọi cực đoan đều nguy hiểm, ngay cả cực
đoan về những điều tốt lành nhất cho chính cuộc đời đi nữa thì
cũng đều là những tai hoạ giáng xuống cho con người. Bởi vậy,
thông điệp đầu tiên mà Đức Phật muốn gởi đến cho thế giới cực
đoan này là: “Này các Tỳ Kheo, có hai cực đoan (antà) mà hàng
xuất gia phải từ bỏ.”
Và
Đức Phật cũng xác quyết rằng chính vì ngài đã từ bỏ hai cái cực
đoan (antà) ấy nên Đức Phật mới đạt được trí tuệ siêu việt
(abhinnàya) và đưa đến sự an tịnh (vupasamàya).
Và ta
chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi Diệu Nghiệm và học trò của mình
là Toàn Nhật đã dám thẳng thắng nêu lên mặt trái của vấn đề, rồi
sau đó mới tìm cách để giải quyết vấn đề.
Thật
ra, bất cứ một nhà Phật học đúng nghĩa nào thì cũng đều phải
nhìn thẳng vào sự thật của vấn đề như vậy, vì Đạo Phật còn được
gọi là đạo của Như Thật (Yathàbhùtam) nữa. Nhưng chúng ta chỉ
ngạc nhiên là sự giải thích Phật giáo một cách hết sức khách
quan khoa học như vậy lại xảy ra vào thời điểm ở nửa cuối thế kỷ
18, thời điểm mà đất nước đang chứng kiến sự khởi nghĩa gần như
long trời lỡ đất của những người nông dân.
Nhưng
không chỉ trong lĩnh vực Phật học mà thôi mà trong các lĩnh vực
khác, Diệu Nghiêm cũng đều thể hiện tinh thần phê phán khách
quan và tôn trọng sự thật. Trong Tam bảo lý hoặc luận,
Diệu Nghiêm còn phê phán ngay cả sự cực đoan cũng như đầu óc hủ
lậu của các nhà Nho. Những nhà Nho này, lúc nào cũng tự mãn với
xác chết Nho giáo đã lỗi thời của mình. Đứng trước sự bảo thủ
hẹp hòi như vậy, Diệu Nghiêm đã nghiêm chỉnh đặt vấn đề với họ:
Nếu vậy thì Tây Phương không có Nho giáo, sao lại văn minh
đến thế?
Khi
nghiêm chỉnh đặt vấn đề như vậy, chứng tỏ rằng Diệu Nghiêm đã có
tầm mắt nhìn xa trông rộng, đã thấy được sự văn minh tiến bộ
vượt bậc của các nước Tây Phương và đau lòng khi thấy đất nước
mình đang bị vây khổn bởi ý thức hệ Nho giáo đã hết thời. Nói
cho cùng thì, các nhà Nho chỉ lợi dụng Nho giáo nhưng thực ra
chỉ để bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của chính họ mà thôi. Lịch
sử đã và đang chứng minh rằng, không phải chỉ Nho giáo mà bất cứ
một triều đại nào, chế độ nào, hệ thống tổ chức nào khi đến hồi
chung cuộc thì cũng đều xảy ra sự lợi dụng như vậy cả.
Và
phải chăng lời chất vấn trên của Diệu Nghiêm đối với các nhà Nho
thủ cựu ở cuối thế kỷ 18 cho đến bây giờ vẫn còn giữ nguyên giá
trị và vẫn tiếp tục là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với một
thiểu số người vẫn khư khư ôm chặt những chủ thuyết không tưởng
để khiến cho dân tộc cứ sống mãi trong hận thù và lạc hậu đó
sao?
Toàn
Nhật còn thừa lệnh Diệu Nghiêm chú thích và hiệu đính lại tác
phẩm Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên.
Sách này do Hoằng Tán chú thích và in ở Trung Quốc, nhưng khi
truyền vào nước ta thì nhiều chữ đã sai, do vậy Toàn Nhật phải
hiệu đính từ lại.
Khi
đọc tiểu luận, tác giả Toàn Nhật toàn tập phải thốt lên
rằng: “Ngày nay, đọc lại Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự
tiểu thiên, ta cảm thấy bồi hồi xúc động trước tinh thần và
phong cách làm việc của những người như Toàn Nhật, và tác giả
cho rằng: “Trong lịch sử văn học và tư tưởng của dân tộc, ta ít
khi gặp một tác phẩm văn học thuộc loại như của Toàn Nhật. Cá
nhân tôi cũng chưa từng đọc hoặc gặp một tác phẩm như thế. Do
đó, Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên thực
xứng đáng là một tác phẩm mẫu mực về khảo chứng văn bản học”.
Và
như vậy, theo tác giả qua tiểu luận Sa di Oai nghi tăng chú
giảo ngụy tự tiểu thiên, Toàn Nhật hoàn toàn xứng đáng là
một nhà trí thức tiêu biểu của Việt Nam đứng chung với các nhà
trí thức của thế giới ở cuối thế kỷ 18, thế kỷ đang mò mẫm đi
tìm kiếm ánh sáng, tìm kiếm chân lý bằng chính sự nổ lực của con
người, tác giả viết:
“Thái độ của Toàn
Nhật trong tiểu luận khảo chứng văn bản học này không những đã
cho thấy tình trạng trí thức của Phật giáo Việt Nam ở nữa cuối
thế kỷ 18, mà còn của trí thức Việt Nam nói chung vào thời điểm
đó. Nó thể hiện một nổ lực phê phán, đi tìm sự thực một cách
khách quan khoa học. Phải chăng nó đáp ứng lại xu thế chung của
lịch sử thế giới thời bấy giờ, thể hiện một xu thế đi tìm ánh
sáng, đi tìm chân lý, dựa trên khả năng hiểu biết và tìm kiếm
của con người, chứ không còn tin tưởng một cách mù quáng vào
những gì do truyền thống hay những quyền uy khác để lại”.
Nếu
như các tác phẩm văn học ở thời Lý Trần (hầu hết là của các
Thiền sư) trực tiếp hay gián tiếp đều có liên hệ đến giới quý
tộc đang cầm quyền, thì ngược lại Thiền sư Toàn Nhật ở nữa cuối
thế kỷ 18, nếu không phải là người nông dân thì ít nhất cũng là
một người gần gũi với giới nông dân nghèo khổ?
Hồi
năm 1974, tôi được tháp tùng với giáo sư Lê Mạnh Thát đi sưu tập
tư liệu về Phật giáo Việt Nam ở các tỉnh Bình Định và Phú Yên,
và giáo sư đã phát hiện được nhiều tác phẩm của Diệu Nghiêm và
Toàn Nhật ở hai tỉnh này. Và nhờ thế, tôi mới biết được rằng,
Diệu Nghiêm là vị Thiền sư đã khai sáng ra chùa Đá Trắng Từ
Quang ở quận Tuy An tỉnh Phú Yên, đã viết nhiều tác phẩm bằng
Hán văn, trong đó nổi tiếng nhất là Tam Bảo lý hoặc luận,
và học trò là Toàn Nhật lại viết hơn 20 tác phẩm bằng chữ Nôm,
trong đó có tác phẩm Hứa Sử truyện vãn, mà nghe nói một
thời đã được Phật tử cũng như nhân dân ở các tỉnh Nam Trung Bộ
đọc nằm lòng để ngâm vịnh, giống như người dân ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long ngâm nga Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu vậy. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu thì may mắn hơn Thiền Sư Toàn
Nhật nhiều, vì trong khi ngâm nga thì ai cũng biết Lục Vân Tiên
là của Nguyễn Đình Chiểu, trong khi Hứa Sử truyện vãn thì
gần như là một tác phẩm khuyết danh, chẳng ai bận tâm đến tác
giả của nó cả.
Bình
Định và Phú Yên là hai tỉnh mà hầu hết người dân đều sinh sống
bằng nghề nông. Làm lụng vất vả quanh năm, hết cày sâu cuốc bẩm
ở đồng án thì lại phải vào rừng để phát rẫy hoặc đốn củi.
Có
phải chính từ vùng đất nghèo khổ và cơ cực này mà Toàn Nhật mới
đủ điều kiện để dựng lên những nhân vật chính trong Hứa Sử
truyện vãn, của mình chăng?
Đồng thời có người thế gian
Vợ
chồng Đào Thị nghèo nàn khó khăn
Hái rau bán củi nuôi thân
Cửa nhà cực khổ truân chuyên.
Chồng đi làm mướn tay sần lưng chai.
Nhưng
điều đáng ngạc nhiên là dù nghèo khổ nhưng những nhân vật trong
tác phẩm của Toàn Nhật lại tràn đầy tình thương và nhân nghĩa.
Nói cách khác, họ chỉ nghèo khổ về vật chất nhưng lại rất giàu
sang về tấm lòng.
Ta
hãy nghe Toàn Nhật tả lại hai vợ chồng Đào Thị này bàn bạc với
nhau nên nhịn bớt miếng ăn để lên chùa thăm viếng vị thầy đã quy
y cho họ:
Vợ
chồng năn nỉ cùng nhau
Những điều khổ não thần sầu quỷ thương
Chồng đi làm mướn bốn phương
Nhà nghèo con dại ghê đường xót xa
Đặng chị nhịn miệng bớt ra.
Kính thầy đã sau mà mới ăn
Thương thầy chẳng quản xa gần
Nhớ thời lại viếng chưa từng lãng quên.
Nhưng
Toàn Nhật không phải chỉ ngồi yên trong chùa tụng kinh gõ mõ mà
tưởng tượng ra đời sống lam lũ cơ cực của người nông dân đâu, mà
chính bản thân Toàn Nhật cũng đã nỗi trôi theo nỗi cơ cực ấy từ
những ngày đầu mới xuất gia với Thầy là Thiền sư Diệu Nghiêm,
trong Xuất gia tối lạc tỉnh thể tu hành vãn, Toàn Nhật
viết:
Mỗ
nay Sãi ở tha hương
Tới đâu ngụ đó cũng nương nhờ làng
Xuất hành chen học theo ông Cả
Biết lấy chi mà trả ơn nhau.
Rồi
trên bước đường hoằng pháp độ sinh nỗi cơ cực ấy vẫn không chịu
buông tha:
Gạo cậy đàn na năm bảy chốn
Lần hồi ăn bữa đói bữa no
Áo
nhờ tín thí một hai nhà
Chập chùng vá tấm lành tấm rách
Cơm y bồ dầu kẻ cúng theo phận theo thời
Canh cốt đổng mặc người cho chẳng từ chẳng hổ.
(Thơ
Bà Vãi)
Đôi
khi vị Thiền sư thi sĩ của chúng ta cũng cố gắng tự khôi hài với
chính mình về những nghịch cảnh khó khăn trên bước đường du hoá
đã gặp phải:
Ngồi tựa cột như thầy bói ế
Buồn quy y các chúng ăn mày
Lại sẵn giường những bạn hàng quen
Dụ
thế phát mấy con kẻ cắp.
Dù có
cố khôi hài, cố che dấu những thất bại đau đớn do nghịch cảnh,
chúng ta dường như vẫn cảm nghe được một nỗi xót xa cay đắng nào
đó trào ra từ cõi thơ của Toàn Nhật, trong Bát Nhã ngộ đạo
văn, ông viết:
Bữa rau muối đã an phận khó
Cũng hơn người bán chó treo dê.
Chính
vì Toàn Nhật đã sống và đã chịu đựng nhiều vất vả và cơ cực như
một người nông dân chính hiệu, nên khi Toàn Nhật muốn trình bày
giáo pháp của Đức Phật cho người nông dân chân lấm tay bùn, ông
đã sử dụng một cách rất thành thạo thứ ngôn ngữ của người nông
dân để người nông dân có thể lãnh hội dễ dàng điều ông muốn
trình bày. Ví dụ, khi Toàn Nhật muốn nói cho người nông dân hiểu
rằng, không phải ngẫu nhiên mà năm nay lúa thóc vào đầy nhà, mà
đó là kết quả tất nhiên của những cố gắng từ năm trước:
Dữ
lành họa phước máy trời
Ví
như trong đời nông nghiệp cày gieo
Năm trước khó nhọc dãi dầu
Ắt
là lúa thóc năm sau vào nhà
Thường năm thêm giống gieo ra
Lúa thóc trong nhà chẳng biết bao nhiêu
Nếu mà không biết nối gieo
Ngồi ăn hết giống nhà đều cơ nguy
Người đời ít biết xét suy
Nên hư muôn việc đều quy cho trời.
(Hứa
Sử truyện vãn)
Trong
khi thừa lệnh Thầy mình là Diệu Nghiêm giảng Sa di Oai Nghi
tăng Chú giảo Ngụy tự tiểu thiên cho tăng chúng, Toàn Nhật
cũng đã vận dụng việc làm của người nông dân ra để trình bày. Vì
chắc chắn giới tăng sĩ ở Phú Yên và Bình Định thời bấy giờ đều
xuất thân từ con nhà nông dân:
“Ví như ruộng màu mỡ
mà có người gieo giống cày bừa, tuỳ sức nhiều ít thì năm sau tất
có được lúa. Mỗi năm trồng gieo thêm, dần dần trở thành tiểu
phú, trung phú. Sau đến nỗi của cải lúa thóc tràn dư, tất trở
thành đại phú trưởng giả. Nếu lúa thu được năm rồi, năm tới ngồi
ăn, thì chắc chắn sẽ hết lúa, đến nỗi phải bán hết ruộng đất mà
không khỏi đói khát ly tán”.
Và từ
ví dụ công việc đồng án của người nông dân trên, Toàn Nhật cảnh
giác giới tăng sĩ rằng:
“Nếu không siêng năng
tinh tấn, mà buông lòng nhác nhớm, thì khi sự may mắn đời trước
đã hết, không khỏi việc bán Phật pháp để nuôi thân, đời sau rớt
vào ba đường, khó gặp được Tam Bảo. Đó tức gọi là các Thầy gieo
giống ruộng tốt vậy”.
Đó là
những lời Toàn Nhật giảng giải cho giới nông dân cũng như tăng
sĩ nông dân về luật nhân quả của Phật giáo, thứ quy luật mà Toàn
Nhật đã khẳng định là, ngày mai tốt hay xấu đều do mỗi người
trong chúng ta tự quyết định lấy chứ chẳng ai có thể thay thế
chúng ta quyết định cả:
Nhân quả chẳng chạy hào ly
Muôn việc tóm lại đều quy ở người
(Hứa
Sử truyện vãn).
Và
trong Tam giáo Nguyên lưu ký, Toàn Nhật cũng khẳng định
lại như vậy:
Phải mà giữ của bo bo
Đời nay một miếng chẳng no lọ giàu
Chẳng bỏ mà luống vọng cầu
Mình không cày ruộng thóc đâu vào nhà.
Khi
giảng giải về đạo lý vô thường (anitya) cho giới nông dân, Toàn
Nhật cũng sử dụng những sự vật hay cảnh vật mà người nông dân có
thể trông thấy mỗi ngày. Trong Hoán Tỉnh Trần Ttâm Khuyến Tu
Tịnh Độ vãn:
Thân này lấp lững cheo leo
Cây bờ giây giếng có bao lâu dài.
Trong Thiền cơ yếu ngữ văn:
Xem giàu sang ví bằng mây nổi
Gẫm lợi danh dường đổi mưa dông.
Và
trong Tam giáo Nguyên lưu ký:
Ví
như sương dính ngọn cây
Bọt xao trên nước, phút giây thấy gì.
Mặc
dù mộc mạc dễ hiểu nhưng không vì thế mà cõi thơ của Toàn Nhật
rơi vào tầm thường hay sáo ngữ:
Máy quang âm lướt thôi hơn nhíp
Người trăm năm chẳng khác chiêm bao
Cõi bờ này sóng bủa lao xao
Cái danh lợi gẫm như bọt nước.
Đó là
bốn câu trong Bát Nhã Ngộ đạo văn, bốn câu mà tác giả
TNQĐ đã cho là: “Có một nhận thức sắc bén về sự thật của cuộc
đời”.
Nhưng
những cụm từ như “cheo leo”, “cây bờ giếng”, “mây nổi”, những
“mưa dông”, “sương dính ngọn cây” hay “bọt xao trên nước”… dù
rất dễ hiểu đối với người nông dân, nhưng dù sao thì những hình
tượng ấy cũng đã sử dụng nhiều trong kinh điển, trong thi kệ của
các Thiền sư và đặc biệt nhất là trong thi ca. Nhưng trái lại
trong Khuyến tu hành quốc ngữ phú Toàn Nhật lại nhắc đến
cái chợ hay quán khách để chỉ cái vắng vẻ heo hút của kiếp người
và của cuộc đời:
Thân đời dường quán khách vào ra, đi rồi lại đến.
Việc thế như chợ đông xao xuyến, hợp ắt có tan.
Mỗi
lần có dịp đi ngang qua chợ Đèo gần Chùa Viên Quang ở Phú Yên,
tôi lại thấy những cái chợ quê nghèo xơ xác ở vùng này vẫn tiếp
tục hợp và tan mỗi ngày, dù Toàn Nhật đã ra đi gần hai thế kỷ
rồi, và chắc sẽ chẳng bao giờ trở về đứng nhìn cảnh hợp rồi tan
của chợ đời để xao xuyến và bâng khuân nữa?
Còn
một cái khó khăn nữa là làm sao cho người dân quê hiểu được rằng
“Ông Phật” mà họ đến chùa quỳ lạy cầu xin mỗi ngày đó không phải
ở trên trời cao hay bên ngoài mà “Ông Phật” đó lại ở ngay trong
chính họ.
Dường
như đây là điều mà Toàn Nhật đã nổ lực giải thích trong hầu hết
các tác phẩm của ông. Tất nhiên cũng bằng những ví dụ mà người
nông dân có thể hình dung ra được.
Trước
hết, Toàn Nhật ví Phật như nước trong, mà muốn có nước trong thì
phải lọc:
Cặn lọc thì đặng nước trong
Ma
Phật trong lòng lọ phải tìm đâu.
Phật
như ngọn đèn, muốn nhà mình sáng, không còn tối tăm, không sợ kẻ
gian rình rập thì phải đốt ngọn đèn ấy lên:
Hãy khêu ngọn đèn nhà mình cho sáng
Kẻ
gian tà đâu dám phạm xâm
Từ
những ví dụ này, Toàn Nhật mới bắt đầu khai mở cho họ biết rằng:
Thiên đường địa ngục nơi ta
Dữ
lành ấy đó, Phật ma bởi mình
Tất
cả mọi cố gắng đi tìm đi cầu “Ông Phật” bên ngoài đều vô ích:
Chẳng phải cầu ta mà thành
Phật ở trong mình, nào nhọc tìm đâu
Phật
ở trong chính mình, nhưng vì sao không nhận ra, trong Hứa Sử
truyện vãn Toàn Nhật cho biết lý do:
Nếu ai trọc loạn tấm lòng
Phật tuy có đó cũng không thấy rồi
Phật như trăng tỏ trên trời
Muôn phương soi thấu đòi nơi sáng loà
Giả như khe, chiếu giang hà
Lặng thinh đáy nước đâu mà không trăng
Nếu mà gió thổi sóng nhăn
Đâu đâu đáy nước nào từng thấy chi
Lòng người ví dường nước kia
Thanh thời thấy Phật, trọc thời thấy đâu
Sắc tài danh lợi tham cầu
Mà
đặng thấy Phật dễ hầu có ai.
Và
đây có lẽ là lời khuyên quan trọng mà Toàn Nhật muốn gởi đến cho
tất cả những người nông dân lam lũ mà ông hằng thương yêu với
tất cả tấm lòng:
Phật thương hết thảy chúng sanh
Chúng sanh tung hoành Phật độ làm sao?
Vậy
là khi ta không còn “tung hoành” nữa thì chính ta là Phật rồi,
thì ta cần gì “Ông Phật” ở bên ngoài thương ta nữa?
Người
nông dân bản tính vốn hiền lành chân chất, nhưng chính sự hiền
lành chơn chất này nên họ luôn luôn là nạn nhân của những kẻ cậy
quyền cậy thế, những kẻ mang lòng tham vô đáy.
Trước
tiên, Toàn Nhật lên án những thứ thầy bói cùng “phù thủy bóng
chàng”:
Thầy bói phù thủy bóng chàng
Mắc vòng lao lụy ghê đường nhân gian
Người ta nhiễm chứng thương hàn
Cảm khí thiên địa mình mang bệnh nghèo
Rồi tâu mở sách quẻ gieo
Khiến nên sát hại dê heo vịt gà
Bảo người mau trở về nhà
Lo
cho đặng kịp kẻo mà chết oan
Người nghe lật đật kinh hoàng
Giàu thời lo đặng bần hàn chạy vay.
(Hứa
Sử truyện vãn)
Người
nông dân vốn đã nghèo khổ, nhưng chính những bọn thầy bói cùng
“phù thủy bóng chàng” này đã khiến đời sống của họ càng nghèo
thêm.
Bởi
vậy, nên Toàn Nhật kêu gọi:
Chớ tin phù thủy bóng chàng
Cùng lời thầy bói gây đường trái oan
Vã
mình bệnh khổ chăng an
Hoặc nhiễm thương hàn khí huyết già suy
Phép đời đã có lương y
Thuốc điều tiết dưỡng ắt thì bệnh an.
(Hứa
Sử truyện vãn)
Và ta
không ngờ rằng, vào những thập niên ở cuối thế kỷ 18, vị Thiền
sư của chúng ta lại có một quan niệm rất đúng đắn về y học, rằng
đã có thân thì phải có bệnh, mà đã bệnh thì phải chữa bệnh bằng
thuốc của các lương y:
Phép đời đã có lương y
Thuốc điều tiết dưỡng ắt thì bệnh an
Toàn
Nhật còn vạch ra cho người nông dân thấy cái vô lý khi giết hại
gà vịt dê heo dể cúng tế thần linh mà cầu mạng sống cho chính
mình:
Sát sanh mà đặng sống lâu
Thì các nhà giàu ở chật đòi nơi
(Hứa
Sử truyện vãn)
Và
càng phi lý hơn nữa, vẫn theo lời Toàn Nhật đã là “thần linh
chánh trực” thì họ đến gần, “những giống hôi tanh” ấy để làm gì?
Các vị chánh trực thần linh
Đến gần những giống hôi tanh làm gì?
(Hứa
Sử truyện vãn)
Và kẻ
nào đã đến để hưởng thụ “những giống hôi tanh” đó thì nhất định
không phải là “thần linh chánh trực” mà phải là “loại ma lồi yêu
tinh” vậy:
Và
món máu thịt tanh hôi
Có
dùng là loại ma lồi yêu tinh
(Hứa
Sử truyện vãn)
Với
tất cả tình thương, Toàn Nhật đã tha thiết khuyên răng những kẻ
thích giết hại súc vật để thỏa mãn sự thèm khát của mình nên
hiểu rằng:
Huống chi kinh Phật ghi lời
Muôn vật cùng người một vóc khác chi
Cùng đồng chịu khí lưỡng nghi
Sanh nên người vật nối thì đến nay
Chẳng qua một niệm trước sai
Làm đường ác nghiệp nhiều đời vô minh
Ắt
sa vào lọai súc sinh
Hoặc làm cha mẹ chị anh ông bà
Phàm gian nhục nhãn tin tà
Vật chi cách vách coi mà thấy đâu
(Hứa
Sử truyện vãn)
Và
nếu như đối với những lọai thầy bói hoặc “thầy thủy bóng chàng”
thì Toàn Nhật chỉ kêu gọi người dân hãy cảnh giác đừng nhẹ dạ cả
tin theo bọn chúng chứ không có thái độ quyết liệt như lọai
ngươi sau đây, loại người mà lúc nào cùng nhân danh nhân dân
nhưng thực ra chỉ dùng quyền hành để bòn rút của cải mà người
dân lao động đã phải tốn biết bao nhiêu công sức mới có được:
Cậy mình quyết quý hơn người
Làm điều hung hiểm hiếp hoài người ta
Kẻ
gian hối lộ thì tha
Người ngay không của bắt ra hành hình
Đặng thời phú quý hiển vinh
Hại người lấy của ích mình không lo
Tạm ai bắt lấy phải lo
Chẳng thời thù oán không lo cả nhà
(Hứa
Sử truyện vãn)
Toàn
Nhật căm phẫn loại người “quyền qúy” này đến nổi qua một phiên
tòa của nhân dân, ông đã để cho Diêm vương đuổi chúng ra khỏi
thế giới của loài người, đày chúng xuống sống chung với bọn yêu
ma quỷ quái:
Phú cho ngục tốt giam vào
Y
luật hành tội ép dầu muôn năm
Roi cho hồn nó trầm luân
Ra
loài ngạ quỷ ra làm bàng sanh
(Hứa
Sử truyện vãn)
Trong
văn học cổ điển của nước ta, có lẽ phải đợi đến Toàn Nhật ở nửa
cuối thế kỷ 18, với Hứa Sử truyện vãn thì nông dân lao
động mới được đề cao, không chỉ đề cao chung chung, mà đề cao
một cách rất cụ thể, nghĩa là xác nhận phẩm giá cũng như nhân
phẩm của họ nữa. Họ, những người nông dân chân lấm tay bùn của
Toàn Nhật không những được “Phật ngợi khen” mà còn “ đồng phẩm
cao” như bất cứ giới nào, kể cả giới quý tộc, giới đang cầm
quyền.
Trong
Hứa Sử truyện vãn, Toàn Nhật đã để cho Đổng Vân, một vị
quan đầy quyền uy nhưng lại rất được nhân dân hâm mộ, xác nhận
giá trị ấy:
Đổng Vân cười mới nói rằng
Hễ
vui sanh khổ, khổ hằng đặng vui
Phát rẫy sen vàng đặng ngồi
Danh chói trong đời thầy tớ Châu Công
Hái rau bán củi tay không
Vợ
chồng Đào Thị cùng đồng phẩm cao
Cùng là phát rẫy cần lao
Hái rau bán củi mặt nào làm nên
Phật còn phong tặng ngợi khen
Ấy
phận khó hèn huống lọ là ta.
Tác giả Toàn Nhật
Quang Đài đã nói rất đúng rằng: “đây có lẽ là lần đầu tiên
và duy nhất mà lao động được ca ngợi và xác minh là yếu tố cho
con người trở thành thần thánh”.
Khi
viết lại hành trạng của Lục Tổ Huệ Năng trong Lục Tổ Diễn Ca,
một vị Tổ sư mà D.T. Suzuki đã cho là “một trong những nhà
huyền học vĩ đại nhất của Phương đông”, Toàn Nhật cũng nhắc nhở
lại cho chúng ta biết rằng, Huệ Năng trước khi trở thành vị Tổ
sư vĩ đại, cũng là một người đã từng “hái rau bán củi tay không”
mà ra:
Thưa rằng tôi chủ Cát Lào
Thật là phụ quán tranh lau quê nhà
Người đà phận nói tỏ ra
Lòng tôi dễ dám vậy hòa dấu chi
Đạo là hỷ xã từ bi
Nào phân nam bắc thế thì thiệt hơn
Ai
ai có một tính chân
Thánh phàm chẳng khác, nhân nhân thể đồng
Người tuy phân cỏi tây đông
Đạo là vốn một đồng thông thánh phàm.
Và
tất cả đều phải lao động, nghĩa là phải từ sự nổ lực trong gian
khổ thì mới tự mình hoàn thiện được chính mình:
Những ông Bồ Tát đầu trần
Còn đi giã gạo ân cần sớm khuya
Những ông Bách Trượng xưa kia
Không làm một bữa chẳng hề ăn cơm.
Nhưng
điều lạ lùng như ta đã biết là những con người hễ có “Bữa tối
thì thiếu bữa trưa” đó lại ít nghĩ đến sự bất hạnh và đau khổ
của chính mình, mà lúc nào cũng canh cánh trong lòng những bất
hạnh và đau khổ của kẻ khác, như vợ chồng Đào Thị trong Hứa
Sử truyện vãn chẳng hạn.
Như
vậy ta phải giải thích như thế nào cái quan niệm xưa nay vẫn cho
rằng “ phú quý sanh lễ nghĩa, nghèo hèn sinh đạo tặc”? có phải
Toàn Nhật muốn vận dụng tinh thần của Phật giáo để đạp đổ cái
quan niệm ngu si đã tồn tại từ lâu trong xã hội của chúng ta
chăng? Tác giả Toàn Nhật Quang Đài đã viết:
“Nó
là một gáo nước lạnh tạt vào mặt tuồng giả nhân, giả nghĩa của
thứ đạo đức cho rằng: “giàu sang sinh lễ nghĩa, nghèo hèn sinh
đạo tặc” đây là thứ đạo đức, nếu có thể gọi như vậy, để phục vụ
cho bọn thống trị áp bức, cho hành động ngược đãi nhân dân, tại
sao người nghèo lai không có đạo đức lễ nghĩa? Hể bần tiện nghèo
khổ là sinh đạo tặc chăng? Chủ trương đạo đức loại đó, thực sự
là khinh miệt đạo đức, nếu không phải là không đạo đức. Nó khinh
miệt những người cùng khổ, tước đoạt nhân phẩm của họ. Cho nên,
trên bối cảnh của thứ đạo đức suy đồi đốn mạt đó, nó nổi lên
thật rõ nét thứ đạo đức trong sáng của vợ chồng Đào Thị. Sự có
mặt của nó là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng với thứ đạo
đức lấy của cải làm thước đo của bọn thống trị vừa nói. Nó đấu
tranh để thiết lập nên một nền đạo đức căn cứ vào tình người gắn
bó với nhau qua lao động và bằng thành quả của lao động. Trên cơ
sở đạo đức ấy, nghĩa thầy trò, tình vợ chồng, lòng thương con
người mới có thể phát huy. Người ta thương nhau, chia xẻ cho
nhau từng bát cơm manh áo rất ít ỏi do chính bàn tay lao động
tạo ra”.
Và như vậy, tác giả
kết luận: “có thể nói Toàn Nhật là người đầu tiên công khai nêu
lên quan điểm ấy, và nó đã được cha ông ta tiếp nhận và truyền
đạt lại cho con cháu”.
Thật cảm động biết
bao khi ta biết được rằng vị Thiền sư của chúng ta đã “tuốt dép
lánh xa khỏi nơi doanh liễu” và “cũng đã trải đường danh lợi”,
nhưng rồi cuối cùng đã “dốc liều mình tìm tới, vào chốn cửa
thiền”. Sau đó lại cùng với thầy là Diệu Nghiêm lặn lội vào tận
Phú Yên, mảnh đất của những người nông dân cày sâu cuốc bẩm, làm
trụ trì tại một ngôi chùa mà cho đến ngày nay vẫn còn là nơi
hoang vu hẻo lánh, âm thầm sống chung với người lao động để chia
xẻ những đau khổ cũng như cơ cực của họ. Cuối cùng và theo tôi
đều quan trọng hơn cả vẫn là qua những tác phẩm Toàn Nhật đã gây
ý thức cho họ biết rằng: “chỉ trong khó nhọc lao động con người
mới rèn luyện được mình, nâng mình lên tới cấp độ xứng đáng với
phẩm chất và nhân cách con người”.
Và
cũng thật xót xa biết bao cho đến bây giờ đã gần hai thế kỷ trôi
quan rồi kể từ khi Toàn Nhật vĩnh viễn ra đi (1757 – 1834), vậy
mà đại đa số người dân lao động ờ thôn quê vẫn còn sống trong
lầm than cơ cực, dù đã có biết bao lý thuyết, biết bao ý thức
hệ, biết bao tổ chức nhân danh sự đau khổ của họ để ra đời,
nhưng cuối cùng khi mục đích của họ đã đạt được rồi thì cũng bỏ
mặc mà ra đi và những người nông dân vẫn tiếp tục kéo lê cuộc
đời của mình trong lầm than cơ cực.
(Còn
tiếp 1 kỳ)
|