.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Chiêu Hoàng | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân - Linh Linh Ngọc | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

 Thích Phước An

Toàn Nhật thiền sư
với những nẻo đường cát bụi của quê hương

Nhưng Toàn Nhật là ai?

Thật là khó khăn khi chúng ta muốn đi tìm lại dấu vết của vị Thiền sư đã bị quên lãng gần hai thế kỷ này.

Có lẽ, Toàn Nhật cũng giống như bao nhiêu người khác trên cuộc đời này, nghĩa là cũng đã đến trên mặt đất hoang vu này rồi lặng lẽ ra đi như bao nhiêu tỷ người khác. Nhưng Toàn Nhật thì khác chúng ta ở chỗ, đã đi rồi, nhưng nói theo hai câu thơ của Nguyễn Du:

 

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

Tác giả Lê Mạnh Thát trong lời giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Toàn Nhật cũng phải công nhận sự khó khăn này:

“Tài liệu cho ta nghiên cứu về cuộc đời Toàn Nhật hiện nay tương đối hiếm. Chúng gồm: thứ nhất là long vị của Toàn Nhật thờ tại Chùa Phổ Quang, thôn Phổ Trạch, xã Phước Thuận huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định. Đây là một long vị tương đối cổ, không những ghi pháp danh pháp hiệu của Toàn Nhật, mà còn ghi lại cho ta cả năm tháng, ngày sinh cũng như ngày mất của Toàn Nhật. Nó thuộc tài liệu quý giúp chúng ta có được hiệu niên đại Toàn Nhật một cách chính xác”[1]

Cứ theo long vị còn thờ ở Chùa Phổ Quang tỉnh Bình Định thì ta chỉ biết được “Toàn Nhật sinh vào giờ Tỵ ngày 28 tháng 10 năm Đinh Sửu (1757) và thị tịch vào giờ Dần ngày 6 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1834) thọ 78 tuổi.

Chỉ có vậy, còn quê quán của ông ở đâu thì gần như ta không được biết gì hết Nhưng tác giả Toàn Nhật Quang Đài Toàn tập cho rằng: “Căn cứ vào văn ngôn dùng trong Hứa Sử truyện vãn, ta thấy xuất hiện một số ngữ hiện còn dùng rất phổ biến tại vùng Trị Thiên ngày nay. Chẳng hạn ngữ mần ri”[2]:

 

Sơn lâm luận sự tu trì

Dường như khó mà dễ ý gì mần ri.

hoặc:

Điệu An mới nói mần ri

Thanh Sơn mỹ hiện trụ trì nơi đây.

….

Hứa Sử, một trong những nhân vật chính của Hứa Sử truyện vãn cũng xác nhận rằng mình là người ở chốn kinh thành:

Rằng tôi ở chốn kinh thành

Tên là Hứa Sử phận mình mồ côi.

Nhưng kinh thành trong hai câu thơ nói ở đây là kinh thành nào?

“….Ở Đàng Trong thời Toàn Nhật thì kinh thành đây, tất nhiên là kinh thành Phú Xuân được chúa Nguyễn Phúc Khoát dời từ Kim Long xuống từ những năm 1738”[3].

Đó là Toàn Nhật tìm thấy trong long vị và Toàn Nhật suy đoán từ tác phẩm Hứa Sử truyện vãn. Còn chính Toàn Nhật thì sao? Toàn Nhật có nói gì về chính mình không? Trong tác phẩm Tam giáo nguyên lưu ký, đã cho ta thấy sự thông thái và uyên bác của Toàn Nhật về ba Tôn giáo chính của dân tộc ta là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Trong đoạn cuối của tác phẩm, Toàn Nhật đã cho biết vì sao ông đã trở về với Phật giáo:

Ta xưa cũng dự Nho gia

Mười hai tuổi học đến ba mươi rày

Hỏi thăm năm bảy ông thầy

Không ai tỏ đặng tánh trời huyền môn

Tông nguyên uẩn áo thánh nhân

Cũng là Chân Lạc hạo nhiên đề truyền

Sau ta đầu học phép Thiền

Thuở ba mươi tuổi vậy liền xuất gia

Duyên lành may gặp thầy ta

Người thương chỉ thị thoát nhà tử sinh

Thiền môn khăn khắn tu hành

Bốn mươi ba tuổi tánh lành chút thông.

Soạn làm một kệ mừng lòng

Để cho người thế cũng đồng xem coi.

Vậy là đến ba mươi tuổi thì Toàn Nhật mới xuất gia. Trong Xuất gia vân, Toàn Nhật cho biết sở dĩ ông xuất gia trễ như vậy là vì phải phụng dưỡng cha mẹ già:

Xưa còn ân nặng cù lao

Vậy nên nấn ná ra vào dưỡng nuôi

Là chỉ sau khi cha mẹ đã khuất núi rồi, thì Toàn Nhật mới thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo mà có lẽ ông đã ôm ấp từ lâu.

Thảo thân nay đã khẳm rồi.

Tay giơ gươm tuệ chân lui thị thành.

Dường như trong các tác phẩm văn học cổ điển của Phật giáo Việt Nam chưa có câu nào diễn tả được chí nguyện xuất gia học đạo một cách hoành tráng như câu của Toàn Nhật:

Tay giơ gươm tuệ chân lui thị thành

Câu ấy, theo tôi có thể so sánh được với câu nổi tiếng trong Quy Sơn Cảnh sách: Phát túc siêu phương mà HT Trí Quang đã chuyển sang Việt ngữ rất mực tài hoa là: Người xuất gia cất bước là muốn vượt đến phương trời cao rộng.

Nhưng trong Tam giáo Nguyên lưu ký, ta còn nghe ra được tiếng thở dài não ruột của Toàn Nhật trước khi ông đi xuất gia:

Bởi chưng căn trước vụng tu

Thân sau nên chịu trượng phu lỡ thì

Cho hay thế sự không vì

Hiền ngu lộn lạo bạc chì khôn phân

Thế có nghĩa là ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ già ra, Toàn Nhật chắc đã từng đi theo tiếng gọi mà ta có thể đoán chắc rằng, bất cứ một người trẻ tuổi có ý chí, có lý tưởng cũng đều ấp ủ trong lòng. Đó là lý tưởng muốn dời non lấp biển, muốn vượt lên khỏi cuộc đời tầm thường và nhàm chán này, như hai câu thơ bằng chữ Hán sau đây của Toàn Nhật:

Bình sinh dưỡng tựu xung tiêu chí

Trúc nhuyễn tùng phong cánh bất di

Bình sinh nuôi chí  xông trời thẳm

Trúc yến tùng lay chẳng biến dời

Trong bài phú có nhan đề là thơ Bà Vãi, Toàn Nhật cho biết, lúc ba mươi tuổi nghĩa là lúc chưa xuất gia ông đã từng ở nơi doanh liễu:

 

Thuở chưa xuất gia

Lòng vốn đã tin kính.

Nay nguyền học đạo

Tinh há dễ đơn sai.

Riêng tưởng sự đời.

Đem thân huyễn luống trau sắc huyễn

E theo lưới nghiệp

Sa biển mê ắt nhuốm lòng mê

Nên tuốt dép lánh xa, khỏi nơi doanh liễu

Dốc liều mình tìm tới, vào chốn Thiền môn.

Cứ theo lời chú thích của tác giả Toàn Nhật Quang Đài: “Tướng Chu Á Phu đời Tần đóng bản doanh nơi Tế liễu, văn ngôn thường dùng chữ doanh liễu để chỉ doanh trại của các tướng lãnh”.

Vậy ta có thể suy đoán “trượng phu lỡ thì” mà Toàn Nhật đã tâm sự trong Tam giáo nguyên lưu ký, có nghĩa là ông đã từng là một tướng lãnh, để thực hiện ước mơ “nuôi chí xông trời thẳm” của tuổi trẻ mình vậy. Nhưng Toàn Nhật đã từng là một vị tướng chỉ huy cho triều đại nào? Đó là việc ta sẽ bàn đến sau này.

Cũng theo lời tâm sự của Toàn Nhật trong Tam giáo nguyên lưu ký thì đến: “Bốn mươi ba tuổi tánh lành chút thông”, thế có nghĩa đến tuổi 43 thì Toàn Nhật mới đắc Pháp. Vậy Toàn Nhật đã đắc Pháp với ai? Và ai là vị thầy của Toàn Nhật? Và vị thầy của Toàn Nhật đã đắc Pháp nhất định phải là một bậc đạo sư đầy thông tuệ, nên Toàn Nhật mới nói về thầy mình một cách tuyệt đối qua 2 câu:

Duyên lành may gặp thầy ta

Người thương chỉ thị thoát nhà tử sanh

“Căn cứ từ Quang tự sa môn Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm Thiền Sư xuất thế nhân do sự tích chí” thì Toàn Nhật là một trong 28 vị “Pháp truyền đăng” của Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm. Nói cách khác, ông là một người đệ tử đắc Pháp với Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm, do đó phải xuất gia với vị thiền sư này”[4].

Theo Lược sử Phật giáo và các chùa ở Phú Yên của hai tác giả Nguyễn Đình Chúc và Huệ Nguyễn thì: “Diệu Nghiêm sinh quán ở làng cổ Pháp, Phủ Thăng Hoa nay là Thăng Bình tỉnh Quảng Nam (…) bẩm tính thông minh, học giỏi. Năm 15 tuổi ra kinh đô học và năm 18 tuổi (1755) thi đậu tú tài”[5].

Biến cố có thể được xem là quan trọng nhất đã làm đảo lộn cuộc đời Diệu Nghiêm là: “Đến năm Quý Hợi (1743) lúc đã 18 tuổi, tổ vừa chiếm được công danh tình cờ xem một đoạn tuồng Tam Kinh Cố Sự, sau đó lại xem Long Hổ Sự Duyên, bèn tỉnh ngộ, biết giàu sang là một trường ảo mộng, sao bằng sống ở núi khe mà học đạo, bắt chước những bậc cổ nhân kia. Bèn trở về nhà, lạy trình cha mẹ xin được xuất gia như các bậc cổ nhân kia vậy”[6].

Sau khi đến chùa Phước Lâm (Quảng Nam) đầu sư học đạo với Thiền sư Minh Hải, người đã sáng lập ra chùa Chúc Thánh, Diệu Nghiêm lại lặn lội từ Quảng Nam và Bình Định học với danh sư Liễu Triệt và nghiên cứu Đại Tạng kinh (mà theo giáo sư Lê Mạnh Thát thì lúc đó chùa Thập Tháp đã có Đại Tạng kinh do Tổng trấn Hà Tiên lúc bấy giờ  là Mạc Thiên tử đem ra hiến cúng).

Tại Bình Định, ngoài học Phật và đọc Đại Tạng kinh ra, Diệu Nghiêm còn đến chùa Linh Phong (thường gọi là chùa Ông Núi). Theo hai tác giả Lược sử Phật giáo và các Chùa Phú Yên, thì Diệu Nghiêm đến chùa Linh Phong: “Cất riêng một am để tả kinh Pháp Hoa bằng chữ vàng một bộ, Kinh Kim Cang, Hồng Danh mỗi thứ một quyển, lấy mực tả một bộ kinh Pháp Hoa, lấy mực viết một tiểu bổn cộng tất cả là 10 bộ, Tam Thiên Kinh 5 bộ. Đêm thì tọa thiền và tụng Pháp Hoa, ngày thì tả kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa Kim Cang”.

Điều đó chứng tỏ rằng Diệu Nghiêm học Phật không phải chỉ để thỏa mãn tri thức của một nhà Nho, mà học với tất cả khát khao mong uống được ngụm nước đầu nguồn.

Chùa Linh Phong tọa lạc trên đỉnh núi Bà, một trong những rặng núi dài và hùng vĩ nhất của tỉnh Bình Định. Vị thiền sư khai sáng ra chùa này thường được người dân gọi là Ông Núi (Mộc y sơn ông), hành tung của ông Núi không khác gì những cụm mây trắng trên đỉnh núi cao này, nghĩa là đã đến rồi lại ra đi mà không hề để lại dấu vết gì hết, nhưng cái hang đá mà tương truyền ông Núi đá ngồi thiền suốt đêm ngày thì vẫn còn y nguyên ở đó.

Khoảng cuối thập niên 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ trước, khi còn là một chú tiểu ở vùng quê này, mỗi khi có dịp theo thầy đến chùa kỵ tổ hoặc mừng tuổi đầu năm, tôi có thấy nhiều bản gỗ khắc kinh chữ Hán để trong một căn nhà được xây riêng biệt sau chùa.

Năm 1974 tháp tùng cùng giáo sư Lê Mạnh Thát về Bình Định sưu tập tư liệu về Phật giáo Việt Nam, giáo sư tìm được bản viết Linh Phong tự ký của Đào Tấn trong tủ sách của chùa. Đào Tấn cho biết rằng, các Tổ sư ở đây đã chú giải Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang đến 200 quyển kinh Pháp Hoa. Có thể đó là chú giải Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang của Diệu Nghiêm, trong những năm Thiền sư đến ở chùa Ông Núi chăng?

Khi Đào Tấn viết điều này, không phải nghe kể lại mà chắc chắn Đào Tấn đã chính mình đọc được những bản chú giải này. Vì tiểu sử của Đào Tấn cho biết vào năm 1885, sau khi từ quan rời Phú Xuân về lại Bình Định, Đào Tấn đã đến ở tại chùa Linh Phong gần 2 năm, mà dường như Đạo Tấn đã thấy được cảnh cửa huyền vi của đạo Thiền qua bài thơ sau đây:

Vi tiếu lậu thiền cơ

Phong trần không mãn y

Linh Phong tam thập tải

Vị kiến thử tăng quy.

 

Miệng mỉm cười như để lộ vẽ huyền vi trong đạo Thiền. Mà gió bụi đã bám đầy áo

Chùa Linh Phong đã hơn 30 năm qua, vẫn chưa thấy Lão Tăng này trở về  trở về.

Và trên đỉnh núi cao của chùa Linh Phong, Diệu Nghiêm có lẽ cũng đã “miệng mỉm cười như để lộ lẽ huyền vi của Đạo Thiền” chăng?

Ta không thể nào xác quyết được, ta chỉ có thể xác quyết là Diệu Nghiêm rất say mê cảnh núi non của chùa Linh Phong. Điều ấy rất dễ nhận ra, nếu ai đã từng đến viếng chùa Từ Quang ở Phú Yên, ngôi chùa mà Diệu Nghiêm đã khởi đầu bằng một thảo am rất nhỏ để tiếp tục sự nghiệp chú giải và sáng tác của mình.

Dù núi non không hùng vĩ như chùa Linh Phong ở Bình Định, nhưng cảnh trí chùa Từ Quang cũng rất đẹp. Chùa toạ lạc trên vùng núi Đá Trắng (Bạch Thạch). Phía Bắc dựa vào dãy núi Xuân Đài, nhìn xuống phía Nam trước chùa là con sông Cái Ngân Sơn.

Toàn Nhật sau khi đã xuất gia với Diệu Nghiêm chắc đã sống ở chùa Từ Quang này nhiều năm, và có lẽ thỉnh thoảng cũng đã cùng với Thầy ra Bình Định leo lên đỉnh núi Bà để viếng thăm lại chùa Linh Phong. Những năm cuối thập niên 50 và đầu những năm 60, lúc đất nước chưa ly loạn (sau những năm đó đến 1975 thì không lên chùa được nữa) thì đường lên chùa đã quả khó khăn rồi, huống chi vào thời của Diệu Nghiêm và Toàn Nhật, nghĩa là ở nửa cuối thế kỷ 18.

Tôi cứ tưởng tượng hồi đó muốn lên được tận đỉnh núi của chùa thì hai thầy trò phải mò mẫm vịn từng cành cây hay vách đá mà đi. Bởi vậy, chỉ có những ai ôm khát vọng “thoát nhà tử sinh”, thì mới đủ nghị lực và ý chí để tìm đến những nơi xa xôi và hiểm nguy như vậy.

Trong Hứa Sử truyện vãn, Toàn Nhật đã nhiều lần nói đến con đường đi lên đầy khó khăn và nguy hiểm:

 

Cheo leo non nước xa đàng

Quyết lòng cầu đạo gian nan chẳng từ

Và một đoạn khác :

Chí tôi muốn tới lâm tuyền

Quyết phương tịch cốc liệu đường tử sinh

Thân người như bọt lênh đênh

Nắng không dời gót, ắt đành mắc mưa.

Khi đọc những câu sau đây cũng trong Hứa Sử truyện vãn, tôi có cảm tưởng là Toàn Nhật đã ghi lại niềm thanh bình của nội tâm mình khi sống tại những ngôi chùa như Linh Phong và Từ Quang:

Ba năm ẩn chốn non xanh

Đói no chẳng quản, rách lành chi nao

Bốn mùa cảnh vắng thanh tao

Chim kêu tiếng Pháp, suối xao máy Thiền

Nhiệm màu khuya sớm luận bàn

Mặc khi vui ngắm hoa vàng trúc xanh.

Đối với Toàn Nhật yêu núi non rừng thẳm cũng có nghĩa là yêu luôn sự từ bỏ. Cho nên ta chẳng lấy gì làm lạ, hễ khi nào Toàn Nhật nhắc đến những con người đã can đảm vứt bỏ những lợi danh những hạnh phúc mong manh của cuộc đời để lên đường đi tìm con đường tuyệt đối thì cây bút của Toàn Nhật luôn luôn làm ta bồi hồi xúc động.

Đây là Nhan Hồi trong Tam Giáo Nguyên lưu ký:

An bần lạc đạo thanh tao

Đẫy cơm bầu nước chẳng nao chẳng nài

Sang giàu dong ruỗi mặc ai

Đạo mầu chân tánh hôm mai trau dồi.

Và Lục Lỗ Huệ Năng trong Lục Tổ Diễn Ca:

Dầm sương dãi nắng không sờn

Đói no chẳng quản thiệt hơn chi màng

Phận mình bần khổ gian nan

Có thân có khổ, dặm ngàn sá chi.

Nhưng nói đến từ bỏ, nói đến vứt bỏ để ra đi thì dễ, và ai cũng có thể ba hoa được, nhưng thực hiện được ước mơ đó như Nhan Hồi như Lục Lỗ Huệ Năng đã thực hiện thì vẫn là một điều thiên nam vạn nan với những con người vẫn còn đang mê ngủ trong đêm dài tối tăm trên cuộc đời này. Toàn Nhật ý thức được điều này, nên trong hai câu thơ cuối trong Thiền Cơ Yếu ngữ vãn, Toàn Nhật đã thống thiết kêu gọi:

Có bi có lực có hùng

Mới đủ sức dùng vượt biển trèo non

Nhưng mặc dù Diệu Nghiêm cũng như học trò của mình là Toàn Nhật đã “Biết giàu sang là một trường ảo mộng” và đã quyết định “bắt chước những bậc cổ nhân kia” rồi quyết định từ bỏ để “sống ở núi khe mà học đạo”. Nhưng trong những tác phẩm của mình Diệu Nghiêm và Toàn Nhật đã chứng tỏ là những nhà truyền giáo đầy bản lĩnh, không chấp nhận “khuôn vàng thước ngọc” do truyền thống đã để lại mà đã công khai một cách can đảm đặt ngược lại vấn đề. Ví dụ trong tác phẩm Tam Bảo biện hoặc luận Diệu Nghiêm dám nêu lên những hoài nghi cũng như thắc mắc mà ta đoan chắc rằng bất cứ ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc và hoài nghi như: “Từ xưa đến nay, người chết thì làm Phật sự để dâng cho vong linh, nhưng có ai thấy họ thoát khỏi địa ngục mà sanh lên thiên đàng đâu. Phải chăng đó là sự bày vẽ đối trá của các thầy tu”[7].

Trong Hứa Sử truyện văn, Toàn Nhật cũng đặt vấn đề như Diệu Nghiêm, thầy mình:

Hứa Sử tôi mới thưa rằng

Mấy ai cho biết lánh đường tử sinh

Điều rằng thầy sãi trớ trinh

Kiếm ăn bày đặt dỗ dành người ta

Giấy trắng mực đen chép ra

Rằng Phước rằng tội phỉnh phờ thế gian.

Trong một đoạn khác, Diệu Nghiêm cũng làm cho ta ngạc nhiên không kém. Diệu Nghiêm đã đặt lại vấn đề mà gần như bất cứ một nhà Phật học ở thời nào cũng có thể đã nghĩ trong đầu nhưng mà chẳng bao giờ đủ can đảm nói thẳng ra. Đó là vấn đề đi tu, thực sự có phải là đi tìm giải thoát hay chỉ là hèn nhác trốn thuế, bỏ ơn cha mẹ, vô tích sự, không ích lợi gì cho kẻ khác? Diệu Nghiêm viết: “Người giàu sang thế gian ở nhà vàng điện ngọc, tòa báu đài quỳnh, thê thiếp ba ngàn, hầu hạ vài vạn, áo gấm thức ngon, giường nệm châu ngọc, vàng bạc châu báu vô biên, thứ vật đời không lường, theo lòng vui muộn, nhàn nhã tự do, cho đến người giàu có đủ thê thiếp, rượu thịt béo ngon, theo ý hưởng lạc không khoái ư? Sao lại đi làm thầy tu, bỏ hết dục lạc thế gian như thế, mà ở núi rừng vắng vẻ thâm u, mặc áo vải, đi xin ăn để tìm sự sống, mặc áo cỏ, ăn lá cây, khổ hạnh đói khát. Chịu những điều như vậy đó, ấy là rất hèn, khác gì với kẻ ăn xin đâu? Chỉ là để trốn sưu thuế vua, bỏ quên ơn cha mẹ, quăng vứt cương thường, trở thành người lãng đãng, không có ích gì cho kẻ khác, há không là sai lầm sao?”[8].

Diệu Nghiêm còn đem lý thuyết “nghiệp báo” của chính Phật giáo đề ra đẩy vấn đề có vẽ như đến cùng đường của sự bế tắc nữa: “Ta thường thấy người đời quy y tam bảo, bỏ tục đi làm thầy tu, vì lý do gì mà vứt bỏ cuộc đời vinh hoa, năm dục khoái lạc, để mặc áo thô, ăn cơm xin chịu đựng những sự cực khổ, nhạt nhẽo, vắng vẻ hiu quạnh. Há chẳng phải như ngạn ngữ nói là do ‘nghiệp báo’ đó sao?”[9]

Con người từ nhiều thế kỷ nay, luôn luôn phải sống trong sự nghịch lý, nghĩa là lúc nào cũng mơ ước một cuộc sống ngày mai sẽ tốt đẹp hơn ngày hôm nay. Chính vì thế, nên mới có nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ, lý thuyết ra đời để đáp ứng sự khát khao muôn thưở đó của con người.

Nhưng đau đớn thay, tôn giáo nào, ý thức hệ nào cũng muốn chứng minh rằng chỉ có tôn giáo, lý thuyết, ý thức hệ của mình mới đáp ứng được nỗi khát khao ấy của con người, nên đã thi đua nhau “tô hồng” cho tôn giáo và ý thức hệ của mình. Hậu quả hiển nhiên là, hiện nay một phần của nhân loại lại đang là nạn nhân thê thảm cho cái “màu hồng” mà các tôn giáo và ý thức hệ tự tô vẽ rồi dùng quyền lực bắt buộc con người phải chấp nhận “màu hồng” do chính họ tự tô vẽ ấy.

Đức Phật đã thấy được rằng, mọi cực đoan đều nguy hiểm, ngay cả cực đoan về những điều tốt lành nhất cho chính cuộc đời đi nữa thì cũng đều là những tai hoạ giáng xuống cho con người. Bởi vậy, thông điệp đầu tiên mà Đức Phật muốn gởi đến cho thế giới cực đoan này là: “Này các Tỳ Kheo, có hai cực đoan (antà) mà hàng xuất gia phải từ bỏ.”

Và Đức Phật cũng xác quyết rằng chính vì ngài đã từ bỏ hai cái cực đoan (antà) ấy nên Đức Phật mới đạt được trí tuệ siêu việt (abhinnàya) và đưa đến sự an tịnh (vupasamàya).

Và ta chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi Diệu Nghiệm và học trò của mình là Toàn Nhật đã dám thẳng thắng nêu lên mặt trái của vấn đề, rồi sau đó mới tìm cách để giải quyết vấn đề.

Thật ra, bất cứ một nhà Phật học đúng nghĩa nào thì cũng đều phải nhìn thẳng vào sự thật của vấn đề như vậy, vì Đạo Phật còn được gọi là đạo của Như Thật (Yathàbhùtam) nữa. Nhưng chúng ta chỉ ngạc nhiên là sự giải thích Phật giáo một cách hết sức khách quan khoa học như vậy lại xảy ra vào thời điểm ở nửa cuối thế kỷ 18, thời điểm mà đất nước đang chứng kiến sự khởi nghĩa gần như long trời lỡ đất của những người nông dân.

Nhưng không chỉ trong lĩnh vực Phật học mà thôi mà trong các lĩnh vực khác, Diệu Nghiêm cũng đều thể hiện tinh thần phê phán khách quan và tôn trọng sự thật. Trong Tam bảo lý hoặc luận, Diệu Nghiêm còn phê phán ngay cả sự cực đoan cũng như đầu óc hủ lậu của các nhà Nho. Những nhà Nho này, lúc nào cũng tự mãn với xác chết Nho giáo đã lỗi thời của mình. Đứng trước sự bảo thủ hẹp hòi như vậy, Diệu Nghiêm đã nghiêm chỉnh đặt vấn đề với họ: Nếu vậy thì Tây Phương không có Nho giáo, sao lại văn minh đến thế?

Khi nghiêm chỉnh đặt vấn đề như vậy, chứng tỏ rằng Diệu Nghiêm đã có tầm mắt nhìn xa trông rộng, đã thấy được sự văn minh tiến bộ vượt bậc của các nước Tây Phương và đau lòng khi thấy đất nước mình đang bị vây khổn bởi ý thức hệ Nho giáo đã hết thời. Nói cho cùng thì, các nhà Nho chỉ lợi dụng Nho giáo nhưng thực ra chỉ để bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của chính họ mà thôi. Lịch sử đã và đang chứng minh rằng, không phải chỉ Nho giáo mà bất cứ một triều đại nào, chế độ nào, hệ thống tổ chức nào khi đến hồi chung cuộc thì cũng đều xảy ra sự lợi dụng như vậy cả.

Và phải chăng lời chất vấn trên của Diệu Nghiêm đối với các nhà Nho thủ cựu ở cuối thế kỷ 18 cho đến bây giờ vẫn còn giữ nguyên giá trị và vẫn tiếp tục là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với một thiểu số người vẫn khư khư ôm chặt những chủ thuyết không tưởng để khiến cho dân tộc cứ sống mãi trong hận thù và lạc hậu đó sao?

Toàn Nhật còn thừa lệnh Diệu Nghiêm chú thích và hiệu đính lại tác phẩm Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên. Sách này do Hoằng Tán chú thích và in ở Trung Quốc, nhưng khi truyền vào nước ta thì nhiều chữ đã sai, do vậy Toàn Nhật phải hiệu đính từ lại.

Khi đọc tiểu luận, tác giả Toàn Nhật toàn tập phải thốt lên rằng: “Ngày nay, đọc lại Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên, ta cảm thấy bồi hồi xúc động trước tinh thần và phong cách làm việc của những người như Toàn Nhật, và tác giả cho rằng: “Trong lịch sử văn học và tư tưởng của dân tộc, ta ít khi gặp một tác phẩm văn học thuộc loại như của Toàn Nhật. Cá nhân tôi cũng chưa từng đọc hoặc gặp một tác phẩm như thế. Do đó, Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên thực xứng đáng là một tác phẩm mẫu mực về khảo chứng văn bản học”.

Và như vậy, theo tác giả qua tiểu luận Sa di Oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên, Toàn Nhật hoàn toàn xứng đáng là một nhà trí thức tiêu biểu của Việt Nam đứng chung với các nhà trí thức của thế giới ở cuối thế kỷ 18, thế kỷ đang mò mẫm đi tìm kiếm ánh sáng, tìm kiếm chân lý bằng chính sự nổ lực của con người, tác giả viết:

“Thái độ của Toàn Nhật trong tiểu luận khảo chứng văn bản học này không những đã cho thấy tình trạng trí thức của Phật giáo Việt Nam ở nữa cuối thế kỷ 18, mà còn của trí thức Việt Nam nói chung vào thời điểm đó. Nó thể hiện một nổ lực phê phán, đi tìm sự thực một cách khách quan khoa học. Phải chăng nó đáp ứng lại xu thế chung của lịch sử thế giới thời bấy giờ, thể hiện một xu thế đi tìm ánh sáng, đi tìm chân lý, dựa trên khả năng hiểu biết và tìm kiếm của con người, chứ không còn tin tưởng một cách mù quáng vào những gì do truyền thống hay những quyền uy khác để lại”[10].

Nếu như các tác phẩm văn học ở thời Lý Trần (hầu hết là của các Thiền sư) trực tiếp hay gián tiếp đều có liên hệ đến giới quý tộc đang cầm quyền, thì ngược lại Thiền sư Toàn Nhật ở nữa cuối thế kỷ 18, nếu không phải là người nông dân thì ít nhất cũng là một người gần gũi với giới nông dân nghèo khổ?

Hồi năm 1974, tôi được tháp tùng với giáo sư Lê Mạnh Thát đi sưu tập tư liệu về Phật giáo Việt Nam ở các tỉnh Bình Định và Phú Yên, và giáo sư đã phát hiện được nhiều tác phẩm của Diệu Nghiêm và Toàn Nhật ở hai tỉnh này. Và nhờ thế, tôi mới biết được rằng, Diệu Nghiêm là vị Thiền sư đã khai sáng ra chùa Đá Trắng Từ Quang ở quận Tuy An tỉnh Phú Yên, đã viết nhiều tác phẩm bằng Hán văn, trong đó nổi tiếng nhất là Tam Bảo lý hoặc luận, và học trò là Toàn Nhật lại viết hơn 20 tác phẩm bằng chữ Nôm, trong đó có tác phẩm Hứa Sử truyện vãn, mà nghe nói một thời đã được Phật tử cũng như nhân dân ở các tỉnh Nam Trung Bộ đọc nằm lòng để ngâm vịnh, giống như người dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ngâm nga Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu vậy. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu thì may mắn hơn Thiền Sư Toàn Nhật nhiều, vì trong khi ngâm nga thì ai cũng biết Lục Vân Tiên là của Nguyễn Đình Chiểu, trong khi Hứa Sử truyện vãn thì gần như là một tác phẩm khuyết danh, chẳng ai bận tâm đến tác giả của nó cả.

Bình Định và Phú Yên là hai tỉnh mà hầu hết người dân đều sinh sống bằng nghề nông. Làm lụng vất vả quanh năm, hết cày sâu cuốc bẩm ở đồng án thì lại phải vào rừng để phát rẫy hoặc đốn củi.

Có phải chính từ vùng đất nghèo khổ và cơ cực này mà Toàn Nhật mới đủ điều kiện để dựng lên những nhân vật chính trong Hứa Sử truyện vãn, của mình chăng?

Đồng thời có người thế gian

Vợ chồng Đào Thị nghèo nàn khó khăn

Hái rau bán củi nuôi thân

Cửa nhà cực khổ truân chuyên.

Chồng đi làm mướn tay sần lưng chai.

Nhưng điều đáng ngạc nhiên là dù nghèo khổ nhưng những nhân vật trong tác phẩm của Toàn Nhật lại tràn đầy tình thương và nhân nghĩa. Nói cách khác, họ chỉ nghèo khổ về vật chất nhưng lại rất giàu sang về tấm lòng.

Ta hãy nghe Toàn Nhật tả lại hai vợ chồng Đào Thị này bàn bạc với nhau nên nhịn bớt miếng ăn để lên chùa thăm viếng vị thầy đã quy y cho họ:

Vợ chồng năn nỉ cùng nhau

Những điều khổ não thần sầu quỷ thương

Chồng đi làm mướn bốn phương

Nhà nghèo con dại ghê đường xót xa

Đặng chị  nhịn miệng bớt ra.

Kính thầy đã sau mà mới ăn

Thương thầy chẳng quản xa gần

Nhớ thời lại viếng chưa từng lãng quên.

Nhưng Toàn Nhật không phải chỉ ngồi yên trong chùa tụng kinh gõ mõ mà tưởng tượng ra đời sống lam lũ cơ cực của người nông dân đâu, mà chính bản thân Toàn Nhật cũng đã nỗi trôi theo nỗi cơ cực ấy từ những ngày đầu mới xuất gia với Thầy là Thiền sư Diệu Nghiêm, trong Xuất gia tối lạc tỉnh thể tu hành vãn, Toàn Nhật viết:

Mỗ nay Sãi ở tha hương

Tới đâu ngụ đó cũng nương nhờ làng

Xuất hành chen học theo ông Cả

Biết lấy chi mà trả ơn nhau.

Rồi trên bước đường hoằng pháp độ sinh nỗi cơ cực ấy vẫn không chịu buông tha:

Gạo cậy đàn na năm bảy chốn

Lần hồi ăn bữa đói bữa no

Áo nhờ tín thí một hai nhà

Chập chùng vá tấm lành tấm rách

Cơm y bồ dầu kẻ cúng theo phận theo thời

Canh cốt đổng mặc người cho chẳng từ chẳng hổ.

(Thơ Bà Vãi)

Đôi khi vị Thiền sư thi sĩ của chúng ta cũng cố gắng tự khôi hài với chính mình về những nghịch cảnh khó khăn trên bước đường du hoá đã gặp phải:

Ngồi tựa cột như thầy bói ế

Buồn quy y các chúng ăn mày

Lại sẵn giường những bạn hàng quen

Dụ thế phát mấy con kẻ cắp.

Dù có cố khôi hài, cố che dấu những thất bại đau đớn do nghịch cảnh, chúng ta dường như vẫn cảm nghe được một nỗi xót xa cay đắng nào đó trào ra từ cõi thơ của Toàn Nhật, trong Bát Nhã ngộ đạo văn, ông viết:

Bữa rau muối đã an phận khó

Cũng hơn người bán chó treo dê.

Chính vì Toàn Nhật đã sống và đã chịu đựng nhiều vất vả và cơ cực như một người nông dân chính hiệu, nên khi Toàn Nhật muốn trình bày giáo pháp của Đức Phật cho người nông dân chân lấm tay bùn, ông đã sử dụng một cách rất thành thạo thứ ngôn ngữ của người nông dân để người nông dân có thể lãnh hội dễ dàng điều ông muốn trình bày. Ví dụ, khi Toàn Nhật muốn nói cho người nông dân hiểu rằng, không phải ngẫu nhiên mà năm nay lúa thóc vào đầy nhà, mà đó là kết quả tất nhiên của những cố gắng từ năm trước:

Dữ lành họa phước máy trời

Ví như trong đời nông nghiệp cày gieo

Năm trước khó nhọc dãi dầu

Ắt là lúa thóc năm sau vào nhà

Thường năm thêm giống gieo ra

Lúa thóc trong nhà chẳng biết bao nhiêu

Nếu mà không biết nối gieo

Ngồi ăn hết giống nhà đều cơ nguy

Người đời ít biết xét suy

Nên hư muôn việc đều quy cho trời.

(Hứa Sử truyện vãn)

Trong khi thừa lệnh Thầy mình là Diệu Nghiêm giảng Sa di Oai Nghi tăng Chú giảo Ngụy tự tiểu thiên cho tăng chúng, Toàn Nhật cũng đã vận dụng việc làm của người nông dân ra để trình bày. Vì chắc chắn giới tăng sĩ ở Phú Yên và Bình Định thời bấy giờ đều xuất thân từ con nhà nông dân:

“Ví như ruộng màu mỡ mà có người gieo giống cày bừa, tuỳ sức nhiều ít thì năm sau tất có được lúa. Mỗi năm trồng gieo thêm, dần dần trở thành tiểu phú, trung phú. Sau đến nỗi của cải lúa thóc tràn dư, tất trở thành đại phú trưởng giả. Nếu lúa thu được năm rồi, năm tới ngồi ăn, thì chắc chắn sẽ hết lúa, đến nỗi phải bán hết ruộng đất mà không khỏi đói khát ly tán”[11].

Và từ ví dụ công việc đồng án của người nông dân trên, Toàn Nhật cảnh giác giới tăng sĩ rằng:

“Nếu không siêng năng tinh tấn, mà buông lòng nhác nhớm, thì khi sự may mắn đời trước đã hết, không khỏi việc bán Phật pháp để nuôi thân, đời sau rớt vào ba đường, khó gặp được Tam Bảo. Đó tức gọi là các Thầy gieo giống ruộng tốt vậy”[12].

Đó là những lời Toàn Nhật giảng giải cho giới nông dân cũng như tăng sĩ nông dân về luật nhân quả của Phật giáo, thứ quy luật mà Toàn Nhật đã khẳng định là, ngày mai tốt hay xấu đều do mỗi người trong chúng ta tự quyết định lấy chứ chẳng ai có thể thay thế chúng ta quyết định cả:

Nhân quả chẳng chạy hào ly

Muôn việc tóm lại đều quy ở người

(Hứa Sử truyện vãn).

Và trong Tam giáo Nguyên lưu ký, Toàn Nhật cũng khẳng định lại như vậy:

Phải mà giữ của bo bo

Đời nay một miếng chẳng no lọ giàu

Chẳng bỏ mà luống vọng cầu

Mình không cày ruộng thóc đâu vào nhà.

Khi giảng giải về đạo lý vô thường (anitya) cho giới nông dân, Toàn Nhật cũng sử dụng những sự vật hay cảnh vật mà người nông dân có thể trông thấy mỗi ngày. Trong Hoán Tỉnh Trần Ttâm Khuyến Tu Tịnh Độ vãn:

Thân này lấp lững cheo leo

Cây bờ giây giếng có bao lâu dài.

Trong Thiền cơ yếu ngữ văn:

Xem giàu sang ví bằng mây nổi

Gẫm lợi danh dường đổi mưa dông.

Và trong Tam giáo Nguyên lưu ký:

Ví như sương dính ngọn cây

Bọt xao trên  nước, phút giây thấy gì.

Mặc dù mộc mạc dễ hiểu nhưng không vì thế mà cõi thơ của Toàn Nhật rơi vào tầm thường hay sáo ngữ:

Máy quang âm lướt thôi hơn nhíp

Người trăm năm chẳng khác chiêm bao

Cõi bờ này sóng bủa lao xao

Cái danh lợi gẫm như bọt nước.

Đó là bốn câu trong Bát Nhã Ngộ đạo văn, bốn câu mà tác giả TNQĐ đã cho là: “Có một nhận thức sắc bén về sự thật của cuộc đời”.

Nhưng những cụm từ như “cheo leo”, “cây bờ giếng”, “mây nổi”, những “mưa dông”, “sương dính ngọn cây” hay “bọt xao trên nước”… dù rất dễ hiểu đối với người nông dân, nhưng dù sao thì những hình tượng ấy cũng đã sử dụng nhiều trong kinh điển, trong thi kệ của các Thiền sư và đặc biệt nhất là trong thi ca. Nhưng trái lại trong Khuyến tu hành quốc ngữ phú Toàn Nhật lại nhắc đến cái chợ hay quán khách để chỉ cái vắng vẻ heo hút của kiếp người và của cuộc đời:

Thân đời dường quán khách vào ra, đi rồi lại đến.

Việc thế như chợ đông xao xuyến, hợp ắt có tan.

Mỗi lần có dịp đi ngang qua chợ Đèo gần Chùa Viên Quang ở Phú Yên, tôi lại thấy những cái chợ quê nghèo xơ xác ở vùng này vẫn tiếp tục hợp và tan mỗi ngày, dù Toàn Nhật đã ra đi gần hai thế kỷ rồi, và chắc sẽ chẳng bao giờ trở về đứng nhìn cảnh hợp rồi tan của chợ đời để xao xuyến và bâng khuân nữa?

Còn một cái khó khăn nữa là làm sao cho người dân quê hiểu được rằng “Ông Phật” mà họ đến chùa quỳ lạy cầu xin mỗi ngày đó không phải ở trên trời cao hay bên ngoài mà “Ông Phật” đó lại ở ngay trong chính họ.

Dường như đây là điều mà Toàn Nhật đã nổ lực giải thích trong hầu hết các tác phẩm của ông. Tất nhiên cũng bằng những ví dụ mà người nông dân có thể hình dung ra được.

Trước hết, Toàn Nhật ví Phật như nước trong, mà muốn có nước trong thì phải lọc:

Cặn lọc thì đặng nước trong

Ma Phật trong lòng lọ phải tìm đâu.

Phật như ngọn đèn, muốn nhà mình sáng, không còn tối tăm, không sợ kẻ gian rình rập thì phải đốt ngọn đèn ấy lên:

Hãy khêu ngọn đèn nhà mình cho sáng

Kẻ gian tà đâu dám phạm xâm

Từ những ví dụ này, Toàn Nhật mới bắt đầu khai mở cho họ biết rằng:

Thiên đường địa ngục nơi ta

Dữ lành ấy đó, Phật ma bởi mình

Tất cả mọi cố gắng đi tìm đi cầu “Ông Phật” bên ngoài đều vô ích:

Chẳng phải cầu ta mà thành

Phật ở trong mình, nào nhọc tìm đâu

Phật ở trong chính mình, nhưng vì sao không nhận ra, trong Hứa Sử truyện vãn Toàn Nhật cho biết lý do:

Nếu ai trọc loạn tấm lòng

Phật tuy có đó cũng không thấy rồi

Phật như trăng tỏ trên trời

Muôn phương soi thấu đòi nơi sáng loà

Giả như khe, chiếu giang hà

Lặng thinh đáy nước đâu mà không trăng

Nếu mà gió thổi sóng nhăn

Đâu đâu đáy nước nào từng thấy chi

Lòng người ví dường nước kia

Thanh thời thấy Phật, trọc thời thấy đâu

Sắc tài danh lợi tham cầu

Mà đặng thấy Phật dễ hầu có ai.

Và đây có lẽ là lời khuyên quan trọng mà Toàn Nhật muốn gởi đến cho tất cả những người nông dân lam lũ mà ông hằng thương yêu với tất cả tấm lòng:

Phật thương hết thảy chúng sanh

Chúng sanh tung hoành Phật độ làm sao?

Vậy là khi ta không còn “tung hoành” nữa thì chính ta là Phật rồi, thì ta cần gì “Ông Phật” ở bên ngoài thương ta nữa?

Người nông dân bản tính vốn hiền lành chân chất, nhưng chính sự hiền lành chơn chất này nên họ luôn luôn là nạn nhân của những kẻ cậy quyền cậy thế, những kẻ mang lòng tham vô đáy.

Trước tiên, Toàn Nhật lên án những thứ thầy bói cùng “phù thủy bóng chàng”:

Thầy bói phù thủy bóng chàng

Mắc vòng lao lụy ghê đường nhân gian

Người ta nhiễm chứng thương hàn

Cảm khí thiên địa mình mang bệnh nghèo

Rồi tâu mở sách quẻ gieo

Khiến nên sát hại dê heo vịt gà

Bảo người mau trở về nhà

Lo cho đặng kịp kẻo mà chết oan

Người nghe lật đật kinh hoàng

Giàu thời lo đặng bần hàn chạy vay.

(Hứa Sử truyện vãn)

Người nông dân vốn đã nghèo khổ, nhưng chính những bọn thầy bói cùng “phù thủy bóng chàng” này đã khiến đời sống của họ càng nghèo thêm.

Bởi vậy, nên Toàn Nhật kêu gọi:

Chớ tin phù thủy bóng chàng

Cùng lời thầy bói gây đường trái oan

Vã mình bệnh khổ chăng an

Hoặc nhiễm thương hàn khí huyết già suy

Phép đời đã có lương y

Thuốc điều tiết dưỡng ắt thì bệnh an.

(Hứa Sử truyện vãn)

Và ta không ngờ rằng, vào những thập niên ở cuối thế kỷ 18, vị Thiền sư của chúng ta lại có một quan niệm rất đúng đắn về y học, rằng đã có thân thì phải có bệnh, mà đã bệnh thì phải chữa bệnh bằng thuốc của các lương y:

Phép đời đã có lương y

Thuốc điều tiết dưỡng ắt thì bệnh an

Toàn Nhật còn vạch ra cho người nông dân thấy cái vô lý khi giết hại gà vịt dê heo dể cúng tế thần linh mà cầu mạng sống cho chính mình:

Sát sanh mà đặng sống lâu

Thì các nhà giàu ở chật đòi nơi

(Hứa Sử truyện vãn)

Và càng phi lý hơn nữa, vẫn theo lời Toàn Nhật đã là “thần linh chánh trực” thì họ đến gần, “những giống hôi tanh” ấy để làm gì?

Các vị chánh trực thần linh

Đến gần những giống hôi tanh làm gì?

(Hứa Sử truyện vãn)

Và kẻ nào đã đến để hưởng thụ “những giống hôi tanh” đó thì nhất định không phải là “thần linh chánh trực” mà phải là “loại ma lồi yêu tinh” vậy:

Và món máu thịt tanh hôi

Có dùng là loại ma lồi yêu tinh

(Hứa Sử truyện vãn)

Với tất cả tình thương, Toàn Nhật đã tha thiết khuyên răng những kẻ thích giết hại súc vật để thỏa mãn sự thèm khát của mình nên hiểu rằng:

Huống chi kinh Phật ghi lời

Muôn vật cùng người một vóc khác  chi

Cùng đồng chịu khí lưỡng nghi

Sanh nên người vật nối thì đến nay

Chẳng qua một niệm trước sai

Làm đường ác nghiệp nhiều đời vô minh

Ắt sa vào lọai súc sinh

Hoặc làm cha mẹ chị anh ông bà

Phàm gian nhục nhãn tin tà

Vật chi cách vách coi mà thấy đâu

(Hứa Sử truyện vãn)

Và nếu như đối với những lọai thầy bói hoặc “thầy thủy bóng chàng” thì Toàn Nhật chỉ kêu gọi người dân hãy cảnh giác đừng nhẹ dạ cả tin theo bọn chúng chứ không có thái độ quyết liệt như lọai ngươi sau đây, loại người mà lúc nào cùng nhân danh nhân dân nhưng thực ra chỉ dùng quyền hành để bòn rút của cải mà người dân lao động đã phải tốn biết bao nhiêu công sức mới có được:

 

Cậy mình quyết quý hơn người

Làm điều hung hiểm hiếp hoài người ta

Kẻ gian hối lộ thì tha

Người ngay không của bắt ra hành hình

Đặng thời phú quý hiển vinh

Hại người lấy của ích mình không lo

Tạm ai bắt lấy phải lo

Chẳng thời thù oán không lo cả nhà

(Hứa Sử truyện vãn)

Toàn Nhật căm phẫn loại người “quyền qúy” này  đến nổi qua một phiên tòa của nhân dân, ông đã để cho Diêm vương đuổi chúng ra khỏi thế giới của loài người, đày chúng xuống sống chung với bọn yêu ma quỷ quái:

Phú cho ngục tốt giam vào

Y luật hành tội ép dầu muôn năm

Roi cho hồn nó trầm luân

Ra loài ngạ quỷ ra làm bàng sanh

(Hứa Sử truyện vãn)

Trong văn học cổ điển của nước ta, có lẽ phải đợi đến Toàn Nhật ở nửa cuối thế kỷ 18, với Hứa Sử truyện vãn thì nông dân lao động mới được đề cao, không chỉ đề cao chung chung, mà đề cao một cách rất cụ thể, nghĩa là xác nhận phẩm giá cũng như nhân phẩm của họ nữa. Họ, những người nông dân chân lấm tay bùn của Toàn Nhật không những được “Phật ngợi khen” mà còn “ đồng phẩm cao” như bất cứ giới nào, kể cả giới quý tộc, giới đang cầm quyền.

Trong Hứa Sử truyện vãn, Toàn Nhật đã để cho Đổng Vân, một vị quan đầy quyền uy nhưng lại rất được nhân dân hâm mộ, xác nhận giá trị ấy:

Đổng Vân cười mới nói rằng

Hễ vui sanh khổ, khổ hằng đặng vui

Phát rẫy sen vàng đặng ngồi

Danh chói trong đời thầy tớ Châu Công

Hái rau bán củi tay không

Vợ chồng Đào Thị cùng đồng phẩm cao

Cùng là phát rẫy cần lao

Hái rau bán củi mặt nào làm nên

Phật còn phong tặng ngợi khen

Ấy phận khó hèn huống lọ là ta.

Tác giả Toàn Nhật Quang Đài đã nói rất đúng rằng: “đây có lẽ là lần đầu tiên và duy nhất mà lao động được ca ngợi và xác minh là yếu tố cho con người trở thành thần thánh”[13].

Khi viết lại hành trạng của Lục Tổ Huệ Năng trong Lục Tổ Diễn Ca, một vị Tổ sư mà D.T. Suzuki đã cho là “một trong những nhà huyền học vĩ đại nhất của Phương đông”, Toàn Nhật cũng nhắc nhở lại cho chúng ta biết rằng, Huệ Năng trước khi trở thành vị Tổ sư vĩ đại, cũng là một người đã từng “hái rau bán củi tay không” mà ra:

 

Thưa rằng tôi chủ Cát Lào

Thật là phụ quán tranh lau quê nhà

Người đà phận nói tỏ ra

Lòng tôi dễ dám vậy hòa dấu chi

Đạo là hỷ xã từ bi

Nào phân nam bắc thế thì thiệt hơn

Ai ai có một tính chân

Thánh phàm chẳng khác, nhân nhân thể đồng

Người tuy phân cỏi tây đông

Đạo là vốn một đồng thông thánh phàm.

Và tất cả đều phải lao động, nghĩa là phải từ sự nổ lực trong gian khổ thì mới tự mình hoàn thiện được chính mình:

Những ông Bồ Tát đầu trần

Còn đi giã gạo ân cần sớm khuya

Những ông Bách Trượng xưa kia

Không làm một bữa chẳng hề ăn cơm.

Nhưng điều lạ lùng như ta đã biết là những con người hễ có “Bữa tối thì thiếu bữa trưa” đó lại ít nghĩ đến sự bất hạnh và đau khổ của chính mình, mà lúc nào cũng canh cánh trong lòng những bất hạnh và đau khổ của kẻ khác, như vợ chồng Đào Thị trong Hứa Sử truyện vãn chẳng hạn.

Như vậy ta phải giải thích như thế nào cái quan niệm xưa nay vẫn cho rằng “ phú quý sanh lễ nghĩa, nghèo hèn sinh đạo tặc”? có phải Toàn Nhật muốn vận dụng tinh thần của Phật giáo để đạp đổ cái quan niệm ngu si đã tồn tại từ lâu trong xã hội của chúng ta chăng? Tác giả Toàn Nhật Quang Đài đã viết:

“Nó là một gáo nước lạnh tạt vào mặt tuồng giả nhân, giả nghĩa của thứ đạo đức cho rằng: “giàu sang sinh lễ nghĩa, nghèo hèn sinh đạo tặc” đây là thứ đạo đức, nếu có thể gọi như vậy, để phục vụ cho bọn thống trị áp bức, cho hành động ngược đãi nhân dân, tại sao người nghèo lai không có đạo đức lễ nghĩa? Hể bần tiện nghèo khổ là sinh đạo tặc chăng? Chủ trương đạo đức loại đó, thực sự là khinh miệt đạo đức, nếu không phải là không đạo đức. Nó khinh miệt những người cùng khổ, tước đoạt nhân phẩm của họ. Cho nên, trên bối cảnh của thứ đạo đức suy đồi đốn mạt đó, nó nổi lên thật rõ nét thứ đạo đức trong sáng của vợ chồng Đào Thị. Sự có mặt của nó là một cuộc đấu tranh không khoan nhượng với thứ đạo đức lấy của cải làm thước đo của bọn thống trị vừa nói. Nó đấu tranh để thiết lập nên một nền đạo đức căn cứ vào tình người gắn bó với nhau qua lao động và bằng thành quả của lao động. Trên cơ sở đạo đức ấy, nghĩa thầy trò, tình vợ chồng, lòng thương con người mới có thể phát huy. Người ta thương nhau, chia xẻ cho nhau từng bát cơm manh áo rất ít ỏi do chính bàn tay lao động tạo ra”.

Và như vậy, tác giả kết luận: “có thể nói Toàn Nhật là người đầu tiên công khai nêu lên quan điểm ấy, và nó đã được cha ông ta tiếp nhận và truyền đạt lại cho con cháu”.[14]

Thật cảm động biết  bao khi ta biết được rằng vị Thiền sư của chúng ta đã “tuốt dép lánh xa khỏi nơi doanh liễu” và “cũng đã trải đường danh lợi”, nhưng rồi cuối cùng đã “dốc liều mình tìm tới, vào chốn cửa thiền”. Sau đó lại cùng với thầy là Diệu Nghiêm lặn lội vào tận Phú Yên, mảnh đất của những người nông dân cày sâu cuốc bẩm, làm trụ trì tại một ngôi chùa mà cho đến ngày nay vẫn còn là nơi hoang vu hẻo lánh, âm thầm sống chung với người lao động để chia xẻ những đau khổ cũng như cơ cực của họ. Cuối cùng và theo tôi đều quan trọng hơn cả vẫn là qua những tác phẩm Toàn Nhật đã gây ý thức cho họ biết rằng: “chỉ trong khó nhọc lao động con người mới rèn luyện được mình, nâng mình lên tới cấp độ xứng đáng với phẩm chất và nhân cách con người”.[15]

Và cũng thật xót xa biết bao cho đến bây giờ đã gần hai thế kỷ trôi quan rồi kể từ khi Toàn Nhật vĩnh viễn ra đi (1757 – 1834), vậy mà đại đa số người dân lao động ờ thôn quê vẫn còn sống trong lầm than cơ cực, dù đã có biết bao lý thuyết, biết bao ý thức hệ, biết bao tổ chức nhân danh sự đau khổ của họ để ra đời, nhưng cuối cùng khi mục đích của họ đã đạt được rồi thì cũng bỏ mặc mà ra đi và những người nông dân vẫn tiếp tục kéo lê cuộc đời của mình trong lầm than cơ cực.


 (Còn tiếp 1 kỳ)


 

* (Bài tiếp theo ts số 16)

 

[1] Toàn Nhật Quang Đài toàn tập của Lê Mạnh Thát tập 1, NXB Tp HCM 2005.

[2] Sđd tập 1, tr.22

[3] Sđd tập 1, tr.25

[4] Sđd  tập 1, tr. 18 –19.

[5] NXB Thuận Hóa 1999.

[6] Sđd  tập 1, tr. 58.

[7] Sđd  tập 1 tr. 56.

[8] Sđd tập 1 tr. 56 – 57.

[9] Sđd  tập 1 tr. 57-58.

[10] Sđd tập 2,  tr. 290 – 291.

[11] Sđd tập 2, tr. 294.

[12] Sđd tập 2, tr. 295.

[13] Sđd tập 1, tr. 71.

[14] Sđd tập 1, tr. 74.

[15] Sđd tập 1, tr. 73.

 

THÍCH PHƯỚC AN

Sinh năm 1949 tại Bình Định. Đi tu lúc 7 tuổi (1957).

Từ sau 1975 về ở hẳn tại chùa Hải Đức, chùa tòa lạc trên Đồi Trại Thủy (Nha Trang).

Dù hiện tại cuộc sống có tiêu điều, nhưng lúc nào cũng tin tưởng tuyệt đối rằng, ngày mai cuộc đời vẫn tốt đẹp.

Vì chẳng phải cách đây gần 7 thế kỷ, Nguyễn Trãi cũng đã từng tin tưởng một cách tuyệt đối như vậy hay sao?

Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.