Dạo
ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ
trước, Phật Học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần
phải mở rộng việc đào tạo tăng tài. Ngoài hai nơi đã có cơ sở
sẵn là Báo Quốc (Huế) và Tu viện Già Lam (Sài Gòn), ban Quản trị
quyết định mở thêm một chi nhánh nữa ở Cao nguyên Trung phần,
địa điểm được lựa chọn là Chùa Linh Sơn Đà Lạt, nơi mà Hòa
thượng Mãn Giác, tức thi sĩ Huyền Không đang làm Hội trưởng Hội
Phật giáo Tuyên Đức (bây giờ là Lâm Đồng).
Hai mươi học tăng đang theo học Trung học đệ nhất cấp (cấp 2)
được chọn để đưa đi. Trong số ấy có tôi, vừa mới học xong đệ
thất (lớp 6 ngày nay) ở trường Bồ Đề Nha Trang.
Hòa Thượng Trí Thủ (bấy giờ là Thượng tọa Giám viện) đích thân
hướng dẫn hai mươi học tăng lên đường đi Đà Lạt.
Hôm ấy là một ngày đầu thu, Ban Giám đốc và toàn thể học tăng
Phật Học viện đều ra ga Nha Trang để tiễn đưa chúng tôi lên
đường.
Đã gần bốn thập niên trôi qua rồi, vậy mà tôi vẫn còn nhớ như in
cái buổi sáng đầu thu năm ấy. Lúc đó, dù xì dầu, tương chao
không đủ ăn, quần áo không đủ mặc, mà sao huynh đệ, thầy trò lại
thắm thiết đạo tình với nhau như thế? Tôi cứ boăn khoăn tự hỏi,
có phải vì lúc ấy cái bả lợi danh của thế gian chưa dám bén mảng
đến chốn thiền môn như bây giờ chăng?
Tuổi thơ của chúng tôi đã lớn lên trong không khí trong lành
không hề bị bất cứ một đám mây đen nào làm vẩn đục, nên tất
nhiên chúng tôi có đủ lý do để mơ ước về một ngày mai tươi sáng
của đạo pháp và của cả chính mình.
Riêng tôi, dù lúc ấy chỉ vừa mới học xong đệ thất (lớp 6 bây
giờ) nhưng cũng đã tập tành đọc được các tác giả của nhóm Tự
Lực Văn Đoàn, đặc biệt là tác phẩm Đoạn Tuyệt của văn
hào Nhất Linh, mà trong đó nhân vật chính là một thanh niên trí
thức, ảnh hưởng Tây học, đã phải hy sinh tình yêu nhỏ bé của
mình để phản đối những quy định khắt khe của xã hội phong kiến
đã lỗi thời.
Người thanh niên trí thức ấy đã lên đường đi đến những chân trời
xa xôi, mà Thế Lữ đã cảm xúc ghi lại trong một bài thơ nổi tiếng
là Giây phút chạnh lòng:
Năm năm theo tiếng gọi lên đường
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
Rồi trên đường phiêu dạt, vào một buổi chiều cuối năm dừng lại
trong một gác trọ để:
Rũ áo phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
Cái hình ảnh một thanh niên cô độc trong gác trọ nơi đất khách
quê người “lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang” ấy đã làm quyến rũ
nhiều người trẻ tuổi dạo ấy, trong đó tất nhiên có tôi.
Cũng vào đầu thập niên 50 của thế kỷ 20, thầy Huyền Không (xin
được gọi như vậy để giữ một chút kỷ niệm về tình thầy trò từ khi
tôi còn để chỏm) cũng có làm một bài thơ có tên là Dòng suối
nhỏ. Bài thơ diễn tả sự vui mừng náo nức của tác giả (hay
cũng có thể là của toàn thể Phật tử Việt Nam) vào thời điểm đó,
trước thềm đại hội của Phật Giáo ba miền Bắc, Trung và Nam để
họp nhất thành một tổ chức duy nhất là Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam (tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất) diễn
ra tại chùa Từ Đàm (Huế) vào năm 1951.
Nhưng tất nhiên có nhiều cách để ta cảm nhận bài thơ này, chứ
không đơn thuần là bài thơ chỉ để đón chào sự kiện lịch sử trọng
đại này của Phật Giáo Việt
Nam.
Chẳng hạn, ta có thể xem dòng suối nhỏ đó như chính là thân phận
của mỗi người trong chúng ta. Dòng suối ấy, dù đang chảy âm
thầm, phải luồn lách qua không biết bao nhiêu là đầm lầy nước
đọng, nhưng dòng suối vẫn ước mơ rằng một ngày nào đó sẽ gặp
được đại dương mênh mông.
Chúng ta cũng vậy, một hôm nào đó trong đời chợt nghe gió mùa se
thổi, thấy đời sống chẳng có ý nghĩa gì cả, ngoài “bốn bức tường
ủ rũ”, ta bỗng khát khao muốn đi đến những chân trời xa xôi, như
dòng suối nhỏ của thầy Huyền Không cũng đã từng khát khao như
vậy:
Chất chứa bao niềm hận
Chật hẹp riêng cuộc đời
Đêm qua trời trở gió
Tôi mơ chốn xa vời.
(Dòng suối nhỏ)
Trong thi phẩm Kẻ lữ hành cô độc được tái bản vào năm
2004 tại Mỹ, rồi trong tập kỷ yếu mừng khánh thọ vào năm 2005,
thầy đều có trích đăng lại bài thi kệ này:
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.
Mà thầy đã dịch là:
Bình bát cơm ngàn nhà
Một thân muôn dặm qua
Chỉ vì niềm sống chết
Giáo hóa độ Ta Bà.
Hồi còn ở Đà Lạt cũng như Sài Gòn, thầy Huyền Không thường kể
cho tôi nghe rằng, khi thầy còn là một học tăng ở chùa Báo Quốc,
thầy thường trốn học ra ngồi dưới gốc cây nhãn của chùa để đọc
các nhà thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc
Tử, v.v... và nhất là các tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đặc
biệt là tiểu thuyết của Nhất Linh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến độ mà
vào cuối đời, ngồi nhớ lại một làng quê đã xa xôi của tuổi thơ,
thầy vẫn còn nhắc “...đêm nào nằm ngủ tôi cũng thường nghe tiếng
sóng vỗ ngoài biển, tiếng sóng nghe ầm ầm gặp khi trời động.
Nghe tiếng sóng vỗ, tôi liên tưởng đến anh Vọi trong truyện
Trống Mái của Nhất Linh”.
Như vậy là cái “chốn xa vời ...” mà thi nhân ước mơ đó ngoài âm
hưởng của “cô thân vạn lý du”, tức là hình bóng của những kẻ
xuất trần thượng sĩ tự nguyện rong ruỗi một mình trên những nẻo
đường của trần gian để lay động con người của trần gian đang ngủ
mê trong đêm dài sanh tử ra, thì còn có cái lãng mạn của một
thanh niên trí thức thời đó (qua Dũng trong Đoạn Tuyệt
của Nhất Linh). Thứ lãng mạn mà các nhà văn nhà thơ thời bấy giờ
đều thể hiện trong các sáng tác của mình.
Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh đến vấn đề này là vì, chúng ta còn nhớ
rằng, văn thơ của Phật giáo thời ấy hầu như bị đóng khung hoàn
toàn trong “nhà chùa”, nghĩa là hầu hết văn hay thơ đăng trên
báo chí của Phật giáo trong những thập niên đầu thế kỷ 20 và cả
giữa thế kỷ nữa cũng chỉ dành cho các Phật tử đi chùa lạy Phật
đọc mà thôi. Và chắc chắn thầy Huyền Không là một trong những
người tiên phong biết kết hợp giữa các giá trị tâm linh siêu
việt của Phật giáo với nghệ thuật đương đại để có thể đưa văn
thơ của Phật giáo ra khỏi cổng tam quan của chùa vậy.
Chính nhờ thế mà hồi ấy và có lẽ bây giờ cũng vậy, vẻ đẹp của
những ngôi chùa không chỉ dành riêng cho những Phật tử đi chùa
lễ Phật nữa, mà ngôi chùa đã nghiễm nhiên trở thành biểu tượng
cho cái đẹp đầy tâm linh của dân tộc. Nếu không có những người
tiên phong như thầy Huyền Không thì có lẽ ngày nay nếu mỗi khi
chúng ta có dịp nói đến cái đẹp của những ngôi chùa thì chúng ta
phải mượn tên các thi nhân bên ngoài như Anh Thơ, Hồ Dzếnh,
Thanh Tịnh hay Nguyễn Bính, v.v... Nhưng chúng ta nên biết rằng,
họ là những người ở bên ngoài ngôi chùa, nên họ chỉ thấy được
cái đẹp từ bên ngoài chứ tuyệt nhiên họ chưa đi vào được cái đẹp
tinh thần cũng như sứ mạng mà ngôi chùa đã đóng góp như thế nào
đối với đời sống tâm linh của dân tộc.
Đó là chưa muốn nói đôi khi họ còn hiểu lệch lạc tinh thần của
ngôi chùa. Ví dụ bốn câu sau đây của Thanh Tịnh:
Đạo sĩ chờ tôi chán hải hồ
Tôi chờ đạo sĩ lãng hư vô
Tôi mơ trăng lạnh Hàn Sơn tự
Ấp ủ men tình đội áo khô.
Trên phương diện thi ca, theo tôi thì bốn câu trên quá hay không
thể chê vào đâu được nữa. Nhưng trên phương diện tinh thần thì
Thanh Tịnh đã hiểu lầm, vì ngôi chùa không phải là nơi để ông
trở về chữa vết thương của tình yêu, rồi đợi một ngày nào đó vết
thương đã lành thì lại bỏ chùa để ra đi theo một chuyện tình
khác:
Tôi mơ trăng lạnh Hàn Sơn tự
Ấp ủ men tình đội áo khô.
Bởi vậy phải đợi đến khi bài thơ Nhớ chùa của thầy Huyền
Không ra đời (1956) thì mới xác định đúng vị trí của ngôi chùa
đối với đời sống tinh thần của dân tộc:
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh.
hay triệt để hơn:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Hồi nhỏ tôi đã xuất gia tại một ngôi chùa ở miệt miền quê nghèo
khổ của miền Trung. Chùa nằm dưới một ngọn núi hùng vĩ cách xa
xóm làng. Muốn vào chùa phải lội qua một con suối, chung quanh
suối có nhiều tre mọc san sát bên nhau.
Lớn lên rời bỏ ngôi chùa quê vào sống nơi những ngôi chùa ở
thành phố, nên mỗi lần đọc bài thơ Nhớ Chùa đến hai câu:
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Yên lặng chùa tôi ngập nắng vàng.
thì tôi lại nhớ thương da diết về ngôi chùa của tuổi thơ dạo ấy.
Và tôi cứ thắc mắc tự hỏi là có phải ngôi chùa mà thầy nhớ trong
bài thơ Nhớ Chùa đó là chùa Thiên Minh ở Thành phố Huế,
nơi thầy đã xuất gia học đạo hay là ngôi chùa Linh Sơn ở Thành
phố Đà Lạt nơi thầy đã từng sống và làm việc trong nhiều năm?
Nếu là những ngôi chùa ở hai thành phố ấy thì làm gì có cảnh
“mỗi tối dân quê đón gió lành” và làm gì có hàng tre để thầy
“gợi hồn sông núi”. Nỗi thắc mắc ấy đến mấy thập niên sau mới
được giải đáp nhờ tôi đọc được một tùy bút ngắn là Phương
Lan, quê tôi của thầy:
“Quê hương Quảng Trị của tôi làng nào cũng giống nhau, cũng mái
tranh, cũng khói lam chiều. Mùi rơm mùi rạ, mùi trâu bò, mùi gia
súc mang lại cho ta một thứ tình quê mặn nồng, không ai có thể
dễ dàng quên trong cuộc đời nếu thời ấu thơ của chúng ta đã từng
sống ở làng quê”.
Khi chiến tranh bất ngờ ập đến, không thể về quê được, cũng như
nhiều người khác thầy cũng nhớ da diết:
“... Tình quê của tôi nó thâm nhập như vậy, nên chi trong thời
chiến tranh về thăm làng không được, vào năm 1956 tôi đã sáng
tác bài thơ Nhớ Chùa. Ở nhà quê, làng nào cũng có chùa,
chùa nào cũng có hương hỏa phụng thờ, nơi gửi gắm bao đời của tổ
tiên”.
Như vậy là thầy đã không lấy cảm hứng từ chùa Thiên Minh ở Huế
hay chùa Linh Sơn ở Đà Lạt, tức là những ngôi chùa ở nơi phồn
hoa đô hội, mà thầy đã lấy cảm hứng từ những ngôi chùa ở tận
những thôn làng nghèo khổ để sáng tác ra bài thơ Nhớ Chùa.
Những ngôi chùa nghèo khổ này vẫn đứng đó trong âm thầm lặng lẽ
để chia sẻ, để an ủi những mảnh đời bất hạnh, những mảnh đời lầm
than cơ cực của những người nông dân chân lấm tay bùn, từ đời
này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác vậy.
Và theo tôi, chẳng phải một bài thơ hoặc một tác phẩm được cho
là hay, có nghĩa là bài thơ ấy, tác phẩm ấy đọc vào ai cũng phải
thấy thấp thoáng có bóng dáng hay tâm tư của chính mình trong đó
hay sao?
Bởi vậy, dù phiêu dạt ở chân trời góc bể nào đi nữa, thì thầy
vẫn nhớ về những ngôi chùa tận những miệt miền quê nghèo khổ ấy,
nói theo cách nói của thầy thì “... vì nỗi nhớ thì quá nao nao,
cho nên tôi đã phải liều mà trồng hoa trong mùa bão tố:
Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê”.
Xin được trở lại với chuyến đi Đà Lạt của ngày đầu thu dạo ấy.
Khi xe lửa bắt đầu móc từng móc sắt chậm chạp leo lên đèo Sông
Pha để tiến vào Thị trấn Đơn Dương thì không khí khác hẳn, nghĩa
là mát mẻ vô cùng. Có lẽ vì 20 người trong chuyến đi ấy hầu hết
đều được sinh ra và lớn lên ở dưới đồng bằng nên tất cả đều có
cảm giác là đã vừa vứt lại sau lưng cái nóng bức của mười mấy
năm đầu tiên trên mặt đất này. Hai bên đường rầy xe lửa là rừng
thông xanh, là suối chảy róc rách, là hoa dại đủ màu sắc, nhưng
đặc biệt nhất là hoa dã quỳ đang nở rộ làm vàng rực cả núi rừng.
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất thượng có mấy bờ hoa mọc.
(Bùi Giáng)
Có lẽ phải nhờ hai câu thơ ấy mới có thể diễn tả hết sự náo nức
của tôi trong chuyến đi này. Náo nức vì không phải được đi Đà
Lạt mà còn náo nức cho cả những ngày tươi đẹp còn dài trước mắt
chúng tôi, tươi đẹp như thành phố ngàn hoa mà chúng tôi đang sắp
sửa bước vào đây.
Khi tàu lửa vào ga Đà Lạt thì trời đã xế chiều. Thầy Huyền Không
đã đứng chờ sẵn ở đó để nghênh đón Thượng tọa Giám viện và học
tăng chúng tôi.
Nhìn thầy và nhìn những tia nắng mong manh của buổi chiều tà
đang xuống chậm giữa đồi núi chập chùng, tôi liên tưởng đến bài
thờ Một ngày qua của thầy. Bài thơ mà vào khoảng cuối
thập niên 50 và những năm đầu thập niên 60 (thế kỷ 20) một nhạc
sỹ nào đó đã phổ nhạc, và được một ca sỹ Phật tử nổi tiếng là
Duy Khánh hát, rồi trong các ngày lễ Phật lại được các em thiếu
nhi gia đình Phật tử áo lam hát vang lên trong các sân chùa vào
mỗi chiều Chủ nhật của miền Nam thời đó. Chúng ta nên biết rằng,
chỉ sau năm 1963 thì văn nghệ Phật giáo mới bắt đầu và sau đó nở
rộ vào những năm từ 1967 đến 1974. Nhắc lại như vậy, để thấy
rằng Thầy Huyền Không là một trong những người đã có công đưa
văn nghệ Phật giáo bắt đầu ảnh hưởng đến xã hội thời bấy giờ,
chứ không chỉ giới hạn trong nhà chùa như trước đó nữa.
Bài thơ đó tôi nhớ loáng thoáng như thế này :
Ngày tàn theo gót hoàng hôn
Bóng chiều đổ xuống tâm hồn ai đây
Thông xanh rải rác phấn vàng
Nghe trong gió thoảng cung đàn biệt ly.
hay một đoạn khác :
Chiều xuống giữa rừng dâu
Chân bước đi về đâu?
Tìm cái gì đã mất
Không thấy lại hôm sau.
Lá vàng lác đác gió bay
Còn đâu đây nữa một ngày đã qua.
Thời gian tàn phá và hủy diệt mọi sự, nhưng đau đớn thay là tất
cả chúng ta đều gần như trơ lì và chẳng hề biết rằng mình đang
trên con đường đi đến hủy diệt.
Chỉ có Thiền sư và thi nhân là những kẻ biết rất rõ rằng mình
cũng sẽ bị hủy diệt trong một ngày nào đó không xa.
Bài thơ Một ngày qua, được Thầy Huyền Không sáng tác lúc
còn trẻ, chỉ khoảng trên 30 tuổi, cái tuổi còn chan chứa mộng
đời, cho nên nếu có buồn thì cũng chỉ buồn man mác mà thôi.
Nhưng đến tuổi xế chiều thì khác, không thể nói là buồn nữa, mà
dù muốn hay không cũng phải chấp nhận nó như một sự thật hiển
nhiên vì theo Thầy : “Không ai có thể đưa tay níu lại thời gian
để giữ cho mình không thay đổi. Thôi thì hãy hài hòa chấp nhận
và thảnh thơi sống với cái thời gian thực sự; đó là cách tìm sự
an tâm trước mọi đổi thay”.
Và vì vậy cho nên lúc 55 tuổi Thầy có viết :
Cây tùng năm lăm tuổi
Trên đầu lá còn xanh
Thiền sư già cằn cỗi
Môi nở nụ cười lành.
(Cây tùng)
Có lúc nhìn thời gian trôi qua nhanh không chỉ “môi nở nụ cười
lành” thôi, mà còn “cười vang suốt đêm trường” nữa:
Thiền sư đi trên đường
Áo rộng đầy tình thương
Thời gian không níu lại
Cười vang suốt đêm trường.
Riêng tôi, thì có lẽ chưa đủ nội lực như Thầy để “cười vang suốt
đêm trường” dù có thể đó chỉ là cái cười chua xót. Nhưng ngược
lại, mỗi lần đọc 4 câu mà theo tôi rất là lạ lùng sau đây trong
bài Kẻ lữ hành cô độc của Thầy:
Trong đêm vắng kêu vang
Tiếng vọng khắp xóm làng
Ai biết kêu gì nhỉ
Trên trời mây lang thang.
Nhất là vào những đêm khuya khoắt chợt thức giấc, thì những mảnh
đời đã ly tán lại trở về chập chờn trong ký ức mịt mù của tôi;
đó là những ngày ấu thơ nơi một làng quê nghèo khổ nhưng lại có
rất nhiều mây trắng và còn có cả ngôi chùa xưa tịch mịch lúc nào
cũng tràn ngập nắng vàng. Rồi những năm tháng được sống bên cạnh
Thầy tại chùa Linh Sơn ở Đà Lạt. Cái thành phố sương mù thơ mộng
này dường như đã nuôi dưỡng hồn thơ của Thầy từ những ngày còn
trai trẻ. Có lẽ con người chỉ thực sự sống với chính mình, khi
con người biết ngồi một mình để hồi tưởng lại những ngày còn ấu
thơ của chính mình. Chỉ những lúc ấy, ta mới chợt nhận ra rằng,
dù hiện tại ta có là gì đi chăng nữa, thì cuối cùng ta cũng sẽ
chỉ là một kẻ bơ vơ lạc lõng bước đi một mình trên mặt đất hoang
vu này mà thôi, hay một Kẻ lữ hành cô độc, nói theo ngôn
ngữ thi ca của Thầy. Vì sao? Vì chẳng phải Saint-Exupéry đã từng
nói cho chúng ta biết rằng: “...bóng tùng quân nghìn tầm xiêu
đổ, thì cái con người trơ trụi sẽ chỉ còn nghe rõ trong hoang
liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất” (Bùi Giáng dịch) đó sao ?
Còn một điều nữa, không thể không nói đến trong thi ca của Thầy
Huyền Không. Đó là tấm lòng của Thầy, một kẻ tha hương nhưng lúc
nào cũng ngóng trông về cố quốc:
Chiều nay mưa lòng ai
Tâm hồn chìm xa vắng
Ra đi đất nước người
Nhìn nhau đầy thầm lặng.
(Tiễn đưa)
Ở nơi xứ người, dù mỗi năm mùa xuân vẫn đến, nhưng làm sao vui
cười được nhỉ ?
Thương Xuân tuyết trắng trên đầu núi
Nhớ nước làm sao nỡ nụ cười.
Có lẽ hai câu thơ trên đã đủ để nói lên hết tất cả tấm lòng của
Thầy đối với quê hương đất nước rồi chăng ?
Trong hơn 20 năm qua, mỗi lần viết thư cho tôi, lúc nào Thầy
cũng nói lên cái mong ước của Thầy là, một ngày nào đó sẽ về
thăm lại quê nhà, thăm lại những ngôi chùa có con đường đỏ chạy
lang thang. Và mỗi khi hồi âm cho Thầy, tôi cũng đều chép hai
câu thơ của Thầy, hai câu thơ mà tôi đã thuộc nằm lòng từ khi
còn ở với Thầy ở chùa Linh Sơn (Đà Lạt):
Tiếng chim hót ngoài xa
Vui như ngày trở lại.
Dù bây giờ có lẽ chim đã bắt đầu hót ngoài xa, nhưng tôi nghĩ
trong ngậm ngùi, mai này trong những người trở về thăm lại quê
nhà đó sẽ không bao giờ có Thầy trong đó nữa...
Nha Trang, những ngày cuối Xuân Đinh Hợi (2007)
T.P.A
|