1.
Trong một bài
viết về tác phẩm nước non Bình Định (viết tắt NNBĐ) của Quách
Tấn, cố học giả Nguyễn Hiến Lê có nói rằng, ông vốn rất mê các
cửa biển miền Trung; Nhưng trong NNBĐ Quách Tấn chỉ dành có mười
tám trang để viết về biển, nên đọc xong mười tám trang đó ông
còn cảm thấy thèm. Ngược lại, trong chương viết về núi non,
Quách Tấn đã dành đến tám chục trang. Và Nguyễn Hiến Lê đã tóm
lược tám chục trang mà Quách Tấn viết về núi như thế nầy:
"Trong tám chục trang tác giả có tới trên trăm ngọn núi. Tuy
không cao lắm nhưng "hùng dũng hiểm tuấn" nhiều ngọn núi hình
dáng rất kỳ dị như ngọn Mã Thiên Sơn, đứng phía này mà ngó thì
rất ngạo, hung tợn như "há miệng mắng trời" nhưng đứng phía khác
thì trông lại rất hiền lành "lễ độ" có phía coi như ông Phật
ngồi, có phía như hổ nằm, mà từ trên cao nhìn xuống thì trông
như cánh buồm.
Có núi hình dáng không kỳ dị, mà sắc thì diễm ảo như núi Xương
Cá, những buổi trưa nắng gắt ở xa trông vào thấy sát khí bốc lên
ngùn ngụt. Còn vào những đêm trăng sáng, những buổi sớm tinh
sương thì long lanh lóng lánh như hạt kim cương. (1)
Và trong quyển hồi ký viết vào những ngày cuối đời, Nguyễn Hiến
Lê vẫn nhắc lại : "Nhất là cảnh núi mà tôi tin chắc rằng không
ai viết hay hơn Quách Tấn được". (2)
Trong hơn một trăm ngọn núi mà Quách Tấn đã viết trong NNBĐ, có
một ngọn đã chạy dọc sau làng quê của tôi: Hồi nhỏ tôi nghe dân
làng gọi là Núi Bà, sau đọc được Quách Tấn thì tôi mới biết núi
còn có tên là Bố Chánh Đại Sơn. Đúng như cách gọi của chữ Hán
cũng như chữ Việt, núi hùng vĩ vô cùng.
Quách Tấn viết trong NNBĐ: "Núi chiếm một vùng rộng có đến trăm
dặm vuông. Núi ngó ra biển, hùng vĩ, hoành tráng".
Trong núi có nhiều ngọn cao chất ngất, như Hòn Hèo ở phía Đông
Nam, hòn Hang Rái ở phía Đông Bắc, hòn Chuông ở phía Tây v.v…
(3)
Tôi bắt đầu nhìn ngắm được ngọn Núi Bà là vào những năm 1953 đến
1954, tức là những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh chống
Pháp.
Đầu làng tôi có một cây cầu gỗ bắt ngang qua sông. Dân phía bên
này và bên kia sông đều đi lại bằng chiếc cầu gỗ này. Nhưng
chiếc cầu đã vô tình trở thành tai họa giáng xuống dân làng, vì
ngày nào máy bay Pháp cũng đến dội bom xuống chiếc cầu.
Tôi còn nhớ như in, hễ cứ nghe gà gáy canh đầu là mẹ tôi đánh
thức tôi dậy cùng với dân làng đi lên đèo Tó Mọ để tránh bom
đạn. Đèo này nằm sâu trong dãy Núi Bà, nên dân làng phải ráng
sức để khi đến nơi thì trời vẫn còn tối, vì ban ngày thì sợ máy
bay thấy sẽ rất nguy hiểm. Tôi thì còn quá nhỏ nên khi bắt đầu
leo núi thì mẹ tôi phải cõng tôi trên vai để đi cho kịp với mọi
người. Vào những đêm trời có trăng, vừa leo núi tôi lại còn nhìn
thấy mặt trăng mọc ngay trên đỉnh núi. Mặt trăng lúc ấy trông
buồn bã làm sao:
Đêm đêm nằm đợi
canh gà giục
Mảnh nguyệt rừng
xa bạn cố tri
(Mùa cổ điển)
Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn thích đọc lại hai câu thơ ấy của
Quách Tấn, đọc để nhớ lại tuổi thơ của một thời ly loạn đã qua.
Vào mùa đông hay tháng giêng tháng hai trời còn gió chướng, từng
cơn gió rét buốt từ đèo Tó Mọ đổ xuống cánh đồng Dạy, cánh đồng
nằm kề cận làng tôi. Những buổi chiều đi học về, tôi cùng những
đứa trẻ cùng làng phải cắm đầu mà chạy để tránh cái rét như cắt
da ấy. Những lúc đó, tuổi thơ tôi đã cảm nhận một cách mơ hồ
rằng, con người hoàn toàn xa lạ và bơ vơ trước vũ trụ bao la
kia.
Rồi lớn lên rời bỏ quê hương, mỗi khi có dịp trở về để đi qua
cánh đồng lộng gió ấy, tôi còn phải chịu đựng mộc cơn gió rét
buốt khác nữa, cơn gió dâu bể của cuộc đời.
Nhiều thế hệ tiếp nhau sanh ra, lớn lên, sống trong âm thầm rồi
họ cũng đã âm thầm trở về nằm yên dưới rặng núi này:
Gò xanh vun nấm
cỏ
Ghi dấu thời
gian qua
Chữa nhạt niềm
tâm sự
Âm thầm xuân nở
hoa.
(Mộng Ngàn Sơn)
Mười năm, hai mươi năm hay ba chục năm, có lẽ chỉ dài đối với
một đời người. Nhưng với một dòng sông hay một rặng núi thì quá
ngắn để mà ta có thể thấy sự thay đổi của nó. Bởi vậy mỗi lần
trở về tôi thấy núi vẫn xanh và những đám mây trắng vẫn bay trên
đỉnh núi như dạo nào
Vậy là, tôi thường tự nhủ, núi đứng đó không phải chỉ để nhìn
"Sóng lớp phế hưng" của cuộc đời thôi, mà chừng như dãy núi còn
biết lắng nghe tâm sự của bao thế hệ đã đến từ rặng núi nầy nữa:
Chữa nhạt niềm
tâm sự
Âm thầm xuân nở
hoa
Tôi tưởng tượng Quách Tấn cũng đã nhiều lần đứng nhìn những nắm
mồ nơi rặng núi của quê nhà nên ông mới có một nỗi buồn heo hút
đến như vậy.
2.
Tâm sơn dục minh
đức
Lưu huân vạn do
diên
Ai loan cố đồng
thượng
Thanh âm triệt
cửu thiên
(Ở trong núi
nuôi dưỡng các đức tánh sáng chói
Hương thơm tỏa
ra hàng vạn dặm
Rồi cũng giống
như con chim Loan cất tiếng kêu buồn thảm trên cây ngô dồng.
Âm thanh của nó
vọng đến chín từng trời)
Có thể vay mượn một bài thơ của Kumarajiva (Cưu Mala Thập) như
vậy để thấy núi non hết sức quan trọng trong bước đi lên của con
người.
Vì dường như những thành tựu tâm linh lớn nhất của con người từ
xưa đến nay đều phát xuất từ núi rừng cô tịch?
Ta có thể giả thiết như thế này: Nếu không có dãy Hy Mã Lạp Sơn
cao nhất thế giới ở Ấn Độ thì nhân loại đã không tìm ra được con
đường để đi rồi.
Quách Tấn dường như đã linh cảm được rằng, con người của thực
dụng hôm nay đã đánh mất dần núi non trong hồn mình. Nên ông đa
đem hết sức bình sinh để làm sống lại cái đẹp của núi non trong
tâm hồn con người hôm nay.
Quách Tấn đã bắt đầu bằng một truyền thuyết dân gian đầy thơ
mộng về hai rặng núi ở quê nhà ông như thế này:
"Truyền rằng xưa kia lúc mà ông Trời bà Đất hết khắng khít với
nhau, ông bay lên cao, bà hạ xuống thấp, bỏ nước non mây ráng bơ
vơ. Ông Khổng Lồ lo việc xếp đặt núi non cho có thứ tự. Sau khi
xếp xong các dãy núi ở Bình Định. Khổng Lồ lựa hai hòn núi cân
đối, quảy nhỏng nhảnh đi chơi. Nhìn núi nhìn mây, cao hứng quên
lửng gánh núi trên vai. Đòn gánh chích, đôi gióng nghiêng. Đôi
núi lăn cù xuống đất. Núi rớt thình lình, Khổng Lồ vừa giựt mình
vừa mất thăng bằng suýt ngã. Để khỏi té, ông liền bấm chặt một
chân xuống đất, một chân bước dang ra trước mặt để chống. Tuy
khỏi bị té ngã, nhưng bị cụt hứng, ông tức mình bỏ núi lại đó.
Gánh giống không mà đi đến nơi khác. Hai hòn núi bỏ lại đó là
hòn Trà Sơn và hòn Khánh Long. (4)
Vì núi được sanh ra bởi ông Trời và bà Đất, nên ta phải leo lên
núi cao thì mới thấy hết cái đẹp của trời đất:
"Lẫn trong màu sắc của ruộng đồng mênh mông, từng chùm, từng
khoảnh nổi lên màu lục đậm của cây, màu xam xám hoặc đo đỏ của
chợ quán, nhà cửa, chùa đền… hoặc ẩn hiện dưới bóng mây làn
khói" (5).
Cái giây phút ấy, thì những gì tù túng, chật chội của mặt đất
dường như cũng tan biến hẳn. Ta có cảm giác rõ rệt là càng lên
cao bao nhiêu thì con người cảm thấy mình là một với đất trời
bấy nhiêu.
Rồi tại một hòn núi khác, Quách Tấn kể lại kể lại cảnh một nhà
sư âm thầm cứu giúp con người:
"Để giúp hành khách qua lại khỏi bị nạn cọp, nhà sư trụ trì tổ
chức việc đưa đón hết sức nên thơ.
Hành khách đến chân đèo thì dừng lại đợi nhau. Khi đã được năm
ba người rồi, nhà sư đến đưa qua đèo. Không dáo không mác, không
trống, không phèn la… nhà sư thong thả đi trước, tay gõ mõ miệng
tụng kinh, hành khách nối đuôi nhau đi theo, khoan thai trật tự…
Sang phía bên kia, nếu có khách thì nhà sư trở lại, đưa qua đèo.
Cứ thế hết ngày này đến này kia. Ai cúng ít nhiều cũng được,
không cũng không sao. Trước kia nạn hổ thường xảy đến. Từ khi có
sự đưa đón của nhà chùa, người qua lại đều vô sự".
Đối với chúng ta ngày nay, câu chuyện trên có vẻ hoang đường,
không thực tế. Quách Tấn cũng biết vậy, nên ông đã viết:
"Đó là chuyện cũ ngày xưa, ngày nay người không còn sợ cọp như
trước, trái lại cọp phải sợ hẳn lòng người, nên tiếng mõ câu
kinh không cần thiết nữa". (6)
Cuối dãy núi Bà có một ngôi chùa cổ gọi là chùa Ông Núi. Có
nhiều truyền thuyết kỳ lạ kể lại hành tung của Ông Núi:
Ông Núi dùng vỏ cây làm y phục, tham thiền nhập định suốt ngày
đêm trong hang đá. Trong hang đá còn có hai con cọp mun hiền
lành. Ông Núi ít khi đi đâu, chỉ khi nào cần lương thực thì Ông
Núi mới gánh một gánh củi xuống để ở ngã ba đường. Người quanh
vùng đem gạo muối xuống để đó, rồi gánh củi đem về nhà chụm.
Chiều tối hôm sau, Ông Núi mới xuống lấy gạo muối, rồi lặng lẽ
lên núi trở lại. Ông Núi tiếp tục sống như vậy trong nhiều năm,
đến khi Trương Phúc Loan chuyên quyền, khắp nơi đều sống trong
cảnh đói khổ loạn lạc. Một hôm những người tiều phu lên núi đốn
củi, họ tò mò vào hang thì không còn thấy Ông Núi đâu nữa. Bấy
giờ họ mới biết Ông Núi đã bỏ cái hang đó đi mất rồi, chẳng ai
biết ông đi đâu?
Hơn ba trăm năm sau (7), Quách Tấn đến viếng Chùa và ông vẫn còn
nghe được bước chân Ông Núi vang vọng khắp núi non:
"Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng,
các chàng ngư phủ, với một giọng thật thà, đôn hậu, hát những
câu hát về Ông Núi, khi thì thánh thót, như:
Cây che đá chất
chập chùng
Biển giăng dưới
núi chùa lồng trong mây
Bụi đời không
gợn mảy may
Chút thân rộng
tháng ngày dài thảnh thơi.
Khi thì ngầm
chứa nỗi u hoài, như:
Ông Núi đi đâu
Bỏ bầu sơn thủy
Đủ nhân đủ trí
Thêm vĩ thêm kỳ
Chùa xưa nhạt
bóng tà huy
Xuôi lòng non
nước nặng vì nước non (8).
Những tiếng "Núi cũ", "Chùa xưa" đã được Quách Tấn lặp đi lặp
lại nhiều lần trong thơ của ông, đã nói lên hết tất cả nỗi bơ vơ
của ông khi phải sống trong thế giới hiện nay. Một thế giới đã
gần như quên hẳn một Trần Thái Tông đã cùng với Đức Sơn Thiền Sư
đứng ngắm trăng trước sân chùa Thanh Phong và nghe gió lùa qua
núi vắng. Một Nguyễn Trãi ngậm ngùi tiễn Đạo Kiêm Thiền Sư về
núi với lời chúc:
"Về non ta lại có thiền tâm"
3.
Trong một bài nhận định về thơ của Quách Tấn cách đây đã hơn ba
chục năm, Phạm Công Thiện đã viết một câu hay tuyệt:
"Tôi tưởng chừng những tiếng thơ trên đã phát xuất từ trung tâm
điểm của vũ trụ, xa lắm, xa lắm" (9).
Những tiếng "xa lắm, xa lắm" của anh Phạm Công Thiện dĩ nhiên
phải dược hiểu theo nghĩa bóng.
Dù vậy, có những bài thơ của Quách Tấn mà mỗi lần đọc lên, tôi
khó có thể nghĩ rằng ông đã làm những bài thơ đó tại những thành
phố có tên là Quy Nhơn hay Nha Trang hay tại bất cứ một thành
phố nào ở Việt Nam. Tôi có cảm giác ông là một ẩn sĩ đang sống
tại một ngôi chùa cổ ở một thảo nguyên hay một hòn núi cao nào
đó, xa hẳn chốn trần gian bụi bặm này. Vì chỉ trong cô đơn heo
hút như vậy, thì ông mới lắng nghe hết cả cái buồn sầu thảm của
vũ trụ mênh mông này:
Sông dài bãi
vắng núi chênh vênh
Chùa khuất sau
mây tiếng trống rền
Gió nước nôn nao
lòng đãi độ
Lạnh lùng sương
xuống bóng trăng lên
(Đọng Bóng Chiều)
Và tại nơi "thâm sơn cùng cốc", trong một thoáng giây ngắn ngủi,
Quách Tấn chừng như đã thấy được cánh cửa của vô hạn:
Thoáng tiếng
chuông chùa vọng
Bóng đèn khuya
rung rinh
Nao nao lòng
giống quạng
Hơi thu tràn hư
linh
(Mộng Ngàn Sơn)
Rồi tôi tưởng tượng rằng, một hôm nhà ẩn sĩ đó đã bị bắt buột
xuống núi trở lại. Dù sống giữa cuộc đời, nhưng lòng ông lúc nào
cũng ngóng vọng về nơi chốn xa xôi ấy:
Mây nước nhiễm
phong trần
Nơi đâu tình cố
nhân
Những đêm buồn
tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng
chuông ngân
(Mộng Ngàn Sơn)
Ông nhớ rõ từng lời kệ tiếng kinh, nhớ giọt trăng tà đọng lại
trên hành lang heo hút của đêm sắp tàn nơi ngôi chùa cổ:
Lặng lẽ chiên
đàn nhã khói hương
Trăng tà đôi
giọt rụng lan can
Chùa xa riêng
cảm đêm thu quạnh
Vần kệ ngân đưa
giấc mộng tàn
(Đọng Bóng Chiều)
Và nhớ những chiều núi non sau cơn mưa còn đẹp hơn cả một giấc
mộng:
Mưa tạnh non cao
đọng bóng chiều
Hồi chuông chùa
cũ vọng cô liêu
(Chưa xuất bản)
Hai câu thơ có sức hoài niệm lạ thường. Gần một thế kỷ đi qua
trên cuộc đời này, ngoảnh nhìn lại chẳng còn nhớ gì hết, ngoài
một chút núi non tịch mịch trong lòng của thi nhân mà thôi…
Chắc chắn những bài thơ trên của Quách Tấn không phải là sự rung
động ngẫu nhiên hay nhất thời của một nghệ sĩ, mà nó đã được hun
đúc sâu xa bởi một khát vọng. Khát vọng đó đã một lần được Quách
Tấn phát biểu:
"Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ không phải để phấn
sức tài ba trong nhất thời". Đó là lời của Trần Tử Ngang mà tôi
đã học thuộc lòng từ khi mới tập làm thơ. Ngày xưa tôi làm thơ
là để lòng vào thiên cổ, như lời Trần Tử Ngang. Nhưng từ ngày
tôi nhận thấy văn chương là một pháp môn, là một cái đạo, thì
tôi làm thơ, viết văn để giải thoát tâm hồn" (10).
Thi ca, theo quan điểm của Quách Tấn làm một pháp môn, một cái
đạo để ông giải thoát tâm hồn. Như vậy Quách Tấn đã đạt được
khát vọng ấy trong thi ca của ông chưa? Đọc bài thơ sau đây ta
sẽ rõ:
Mây thu chớp nhẹ
cánh thư hồng
Hắt ánh tà huy
trắng mặt sông
Bờ giạt sóng lau
vờn ngọn bấc
Đợi đò lặng lẽ
bóng sư ông.
Vậy, đúng như Phạm Công Thiện đã nói, thì: "Hiện nay Quách Tấn
đã đi gần tới tiêu đích của mình" (11).
4.
Vào những tháng cuối năm 1975 và tiếp đến những năm 1976 và
1977, theo chỗ tôi biết, đó là những năm tháng buồn bã nhất
trong cuộc đời của Quách Tấn. Bạn bè cũ, một số đã ra đi, một số
còn ở lại thì sợ "Tai vách mạch rừng" nên ít ai dám lui tới để
trò chuyện, tâm sự, mặc dù có quá nhiều chuyện để mà tâm sự với
nhau.
Lúc ấy anh Tuệ Sỹ vẫn còn ở Nha Trang, chùa lúc ấy cũng chẳng
còn chuyện gì để làm, nên anh Tuệ Sỹ và tôi vẫn thường xuống nhà
thăm Quách Tấn, thỉnh thoảng ông cũng lên chùa thăm lại. Những
lần viếng thăm như vậy đã an ủi tâm hồn ông rất nhiều, nhất là
trong hoàn cảnh cô đơn và đầy bất an như lúc ấy. Một bữa nọ anh
có trao cho anh Tuệ Sỹ và tôi một bài thơ:
Bạn thơ nay
chẳng còn ai
Tới lui trò
chuyện chỉ vài nhà sư
Chung trà hớp
ngụm vô tư
Chia tay nhìn
bóng thanh hư gởi lòng
Riêng đối với Tuệ Sỹ, mặc dù tuổi tác khá chênh lệch nhau. Tuệ
Sỹ đến sau Quách Tấn gần nửa thế kỷ, nhưng Quách Tấn vẫn một mực
quý trọng tài hoa và nhất là tư cách của Tuệ Sỹ.
Tôi nhớ có một lần ông đã nói với tôi rằng, ở Việt Nam có hai
tác phẩm viết về Tô Đông Pha (một đại thi hào đời Tống của Trung
Quốc) một của Nguyễn Hiến Lê và một của Tuệ Sỹ. Nhưng theo ông
Nguyễn Hiến Lê chỉ mới đứng từ xa mà nhìn ngọn Lê Sơn, còn Tuệ
Sỹ mới đích thực vào được "thâm xứ" ấy. Quách Tấn là một nhà
thơ, mà nhất là nhà thơ rành rẽ về thi ca Trung Quốc, thì lời
nhận định của ông tất nhiên phải có giá trị lớn rồi. Nhân đó,
tôi cũng cho ông biết rằng, vì Tuệ Sỹ là một nhà thơ, một nhà
thơ mà viết về một nhà thơ thì tất nhiên phải hay hơn một học
giả viết về thi ca vậy. Quách Tấn rất đỗi ngạc nhiên khi biết
Tuệ Sỹ cũng có làm thơ. Vì từ lâu ông chỉ biết Tuệ Sỹ là một nhà
Phật học, một dịch giả vậy thôi.
Khi Đào Duy Anh lần đầu tiên từ Hà Nội vào Nha Trang đến thăm
Quách Tấn, ông hỏi ý kiến Quách Tấn là ai là người mà ông nên
đến thăm? Quách Tấn đã trả lời ngay: Tuệ Sỹ, chỉ có Tuệ Sỹ là
người đáng thăm nhất. Và ông Đào Duy Anh đã leo núi lên chùa Hải
Đức để thăm Tuệ Sỹ.
Trong cuộc trò chuyện hơn hai tiếng đồng hồ tại chùa Hải Đức.
Tôi vẫn còn nhớ là Đào Duy Anh đã tỏ ra rất tiếc khi ở ngoài Bắc
mấy chục năm mà ông vẫn không có tác phẩm Essay in Zen Buddhism
của D.T. Suzuki để đọc, đến khi vào Nam thì ông thì ông mới đọc
được bộ Thiền Luận do Tuệ Sỹ dịch từ tiếng Anh của D.T. Suzuki
trong khi ông biết là tác phẩm đó đã chinh phục thức giả Tây
phương từ lâu rồi. Ông cũng công nhận là một sự muộn màng đáng
tiếc. Khi tiễn Đào Duy Anh xuống núi, ông cứ đi một đoạn là đứng
lại bắt tay anh Tuệ Sỹ, những cái bắt tay thật chặt. Cứ như vậy
ông bắt tay cho đến khi xuống cuối dốc chùa mới thôi. Điều ấy
chứng tỏ rằng, Đào Duy Anh rất trân trọng về cuộc gặp gỡ này.
Sau đó, có lẽ vì không chịu đựng nổi không khí ngột ngạt ở thành
phố nên Tuệ Sỹ đã đi làm rẫy tại một khu rừng hẻo lánh ở thị
trấn Vạn Già, gần đèo Cả, cách Nha Trang khoảng sáu mươi cây số.
Đây là thời gian anh làm thơ nhiều nhất. Hầu hết những bài thơ
nói lên tâm sự u uẩn của chính mình mà cho cả quê hương đất nước
đều được anh làm tại nơi núi rừng heo hút này. Tỷ như:
Quê người trên
đỉnh Trường Sơn
Cho ta gởi một
nỗi hờn thiên thu
Hoặc:
Trong mắt biếc
mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình
như mưa lũ biên cương
Đúng là tâm hồn của kẻ sĩ, nếu có hờn có trách thì chỉ hờn trách
chính mình thôi, còn đối với con người, đối với cuộc đời thì vẫn
yêu thương nồng nàn. Làm rẫy một thời gian thì bỏ vào Sài Gòn,
dấn mình vào một cuộc "Lữ" khác. Cuộc "Lữ" này trầm trọng hơn
những cuộc "Lữ" trước đó. Ít lâu sau, Quách Tấn cũng rơi vào
trường hợp tương tự, nhưng ông chỉ bị một thời gian ngắn thôi,
có lẽ nhờ đã đến tuổi "Thất Thập cổ lai hy".
Quách Tấn hiện đang đi chơi xa và không bao giờ trở về nữa. Tôi
cứ tưởng tượng ông đứng nhìn một cây mai nở rộ trên một hòn núi
cao nào đó, điều mà khi còn sống ông rất khát khao nhưng không
bao giờ thực hiện được, như có lần ông đã đọc cho tôi nghe hai
câu thơ của ông:
Tìm về núi cũ
xem mai nở
Mộng bén ngàn xa
hạc điểm canh
Còn Tuệ Sỹ thì vẫn
chưa về…
Những lúc ngồi một mình nhớ Quách Tấn và Tuệ Sỹ, tôi cứ bâng
khuâng tự hỏi: Tại sao có những người muốn đem hết cả tấm lòng
của mình để hiến dâng cho cuộc đời mà họ vẫn bị cuộc đời đối xử
một cách bất công? Vì tài hoa của họ chăng? Chữ tài đi liền với
chữ tai một vần, như xưa nay ai cũng nghĩ như vậy. Theo tôi,
quan niệm đó chỉ đúng một phần thôi, vì có biết bao nhiêu người
tài hoa ở những nơi khác trên đời này, họ vẫn có hoàn cảnh, có
điều kiện để đem tài hoa của họ ra mà hiến dâng cho cuộc đời?
Có một bài thơ của Quách Tấn, mà tôi nghĩ có thể tạm giải thích
được. Ít nhất là trong trường hợp Quách Tấn và Tuệ Sỹ. Bài thơ
ấy như thế này:
Bao phen bến hẹn
đổi dời
Làng phong tao
vẫn con người thủy chung
Gió lau thổi
lạnh sóng tùng
Hương xưa thắm
lại cụm hồng ngày xưa.
Phải chăng vì muốn "thủy chung" với "cụm hồng ngày xưa" ấy, mà
Quách Tấn và Tuệ Sỹ phải chấp nhận số phận lao đao của mình?
===========
Chú Thích
Quách Tấn, qua cái nhìn phê bình
văn học, nhiều tác giả, Nxb Trẻ, Tp HCM, 1994.(trang 196,
trang 279, (9) trang 90, (10) trang
266, (11) trang 103
Nước Non Bình Định của Quách Tấn,
Nxb Nam Cường – Sàigòn 1967 (trang 35,
trang 93, trang 267, trang 31-32)
Chùa Linh Phong. Hiện nay tháp để tưởng nhớ công đức của Ông Núi
vẫn còn; Tháp hiệu Tịnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư, được
xem như vị tổ khai sơn của chùa.
|