Khi Huyền
Quang được Pháp Loa chính thức trao truyền y bát, làm tổ thứ 3,
kế thừa Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (1330), năm ấy, Huyền Quang
đã 77 tuổi. Tuổi cao cùng với cá tính vốn thích sống trong cô
độc của ông, nên ta có thể chắc rằng, Huyền Quang đã phải miễn
cưỡng nhận lấy trách nhiệm nặng nề này.
Vì đối với Huyền Quang,
dường như chỉ có một khát vọng thôi – đó là được rút, lui trở về
núi rừng, để tìm lại một non nước xa xôi mà chính ông (hay cả
chúng ta nữa) đã đánh mất giữa cuộc đời này.
Đúc bạc thẹn mình nối tổ đăng,
Học theo Hàn, Thập dứt đa đoan.
Hãy đi với bạn về non vắng,
Rừng núi bao quanh mấy vạn tầng (1).
(Nhân sự đề Cứu Lan tự
– Nguyễn Lang dịch)
Như vậy, tại sao Pháp
Loa lại chọn Huyền Quang? Vì sự uyên bác của Huyền Quang chăng?
Không còn hồ nghi gì nữa, chắc chắn Huyền Quang không những là
nhà thơ lớn mà còn là nhà Phật học lỗi lạc, có thể nói là lỗi
lạc nhất trong các học giả của núi Yên Tử thời bấy giờ. "Phàm
sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn, hiệu khảo rồi, thì không
thể thêm hay bớt một chữ nào…" Trần Nhân Tông đã phải hạ bút phê
một câu đầy xúc động như vậy khi duyệt lại bản thả?ích khoa giáo
mà chính Trần Nhân Tông đã giao cho Huyền Quang biên soạn.
Nhưng lãnh đạo một giáo
hội không có nghĩa là chỉ lo thuần túy về chuyện giáo hội không
thôi, mà ở vị trí ấy, dù muốn hay không, cũng phải giữ luôn cả
vai trò Quốc sư nữa, nghĩa là phải cố vấn cho vương triều Trần
cả về chính sách đối nội cũng như đối ngoại, vì Phật giáo lúc
bấy giờ đã hiển nhiên là một tôn giáo đang chi phối mọi sinh
hoạt của quốc gia Đại Việt. Như vậy, nếu người lãnh đạo chỉ có
uyên bác không chưa đủ, mà còn cần nhiều đức tính khác nữa, như
tinh thần nhập thế tích cực chẳng hạn. Nhưng tinh thần này Huyền
Quang hoàn toàn không có, ông chỉ muốn rút lui ra khỏi cuộc đời.
Nói một cách chính xác hơn, thì Huyền Quang muốn rút lui ra khỏi
những trò chơi vô nghĩa của cuộc đời.
Theo Huyền Quang, sở dĩ
con người chạy theo quyền lực, lợi danh và giàu sang không biết
mệt mỏi, vì con người quên mất rằng mình chẳng là gì cả, mà thực
ra chỉ là một sinh vật nhỏ bé đáng thương đang băng hoại một
cách nhanh chóng giữa dòng thời gian vô tận.
Huyền Quang muốn đánh
thức giấc ngủ mê của con người dậy, chỉ khi nào con người từ bỏ
những trò chơi vô nghĩa và phù phiếm này, thì mới có một cái
nhìn khác về cuộc đời:
Giàu sang đến chậm như mây nổi,
Năm tháng trôi vèo tựa nước sa.
Rừng suối chi bằng về ẩn quách,
Gió thông một sập, chén đầy trà (2).
(Tặng sĩ đồ từ đệ – Huệ
Chi dịch)
Có lẽ chính tinh thần
có vẻ như tiêu cực triệt để ấy đã khiến Pháp Loa và các nhà lãnh
đạo giáo hội Yên Tử phải chọn Huyền Quang chăng?
Trần Nhân Tông xuất gia
năm 1299, nhưng trước đó ông đã là một ông vua anh hùng từng
lãnh đạo toàn dân đánh tan hai cuộc xâm lăng của đế quốc Nguyên
Mông (1285-1288); và cũng là ông vua duy nhất trong các triều
đại phong kiến của nước ta đã có một hành vi thiết thực biểu thị
sự tôn trọng ý dân khi đất nước lâm nguy. Chẳng phải từ lâu rồi,
Hội nghị Diên Hồng đã trở thành một biểu tượng trong tâm linh
dân tộc, một giấc mơ còn rọi sáng mãi đến nay đó hay sao?
Một ông vua như vậy mà
đi tu, rồi trở thành người đứng đầu giáo hội Trúc Lâm Yên Tử thì
chắc chắn phải được sự hỗ trợ tích cực không những của vương
triều Trần mà cả toàn thể dân tộc nữa. Nhưng sau hơn một phần tư
thế kỷ Phật giáo liên hệ quá mật thiết với triều đình – đã đến
lúc Pháp Loa và các Thiền sư núi Yến Tử thấy cần phải đưa sinh
hoạt của giáo hội mình tránh xa khỏi chốn triều đình chăng?
Dù sao thì việc các nhà
sư thân cận với giới quý tộc – hoặc giới này thường lui tới chốn
Thiền môn – có được giải thích thế nào đi nữa, thì vẫn hại nhiều
hơn là có lợi-nhất là với Phật giáo, mà mục đích tối hậu vẫn là
làm một cuộc giải phóng toàn triệt, mà bước đầu là mỗi cá nhân
phải tự mình chặt đứt những hệ lụy của mình với trần gian. Huyền
Quang cũng đã từng làm quan, rồi lại xin từ chức mà đi tu, thì
chắc chắn Huyền Quang phải xem thường những nơi quyền thế đó
rồi. Ta có thể kết luận mà không sợ lầm rằng, đó là lý do đã
khiến các Thiền sư núi Yên Tử đưa Huyền Quang lên kế thừa.
Tất cả những người viết
sử đều xem giai đoạn Huyền Quang lãnh đạo giáo hội Trúc Lâm Yên
Tử là khởi đầu sự suy tàn của Phật giáo Việt Nam. Điều đó đú?nếu
ta nhìn trên hình thức tổ chức, vì dưới sự lãnh đạo của Huyền
Quang, những hình thức để củng cố cơ sở của giáo hội như đắp
tượng Phật, đúc chuông, xây chùa tháp, phát triển kinh tế tự túc
cho các Thiền viện, đều gần như ngưng trệ, nếu ta so sánh với
thời gian trước, nghĩa là dưới thời Trần Nhân Tông và Pháp Loa
lãnh đạo.
Nhưng chính sự phát
triển hình thức quá mạnh trước đó buộc Huyền Quang phải gánh lấy
tai tiếng trên hai vai gầy yếu của mình. Thực ra, những hình
thức tổ chức thì không có gì hại cả, mà còn là một phương tiện
cần thiết để truyền bá đạo pháp nữa. Nhưng thời nào cũng vậy,
cũng đầy những con người có tâm địa xấu xa, chính những người
này đã lợi dụng những hình thức tổ chức đó để mưu đồ bất chính
cho bản thân mình. Một số tu sĩ thời đó đã khoác áo tu chắc chắn
vì thời thế nhiều hơn là vì lý tưởng giải thoát. Một nhà Nho đã
viết: "… Vì thế những nơi u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền
đã chiếm mất một nửa. Bọn áo thâm áo vàng tụ tập ở đấy không cày
mà ăn, không dệt mà mặc; những người thất phu thất phụ thường bỏ
nhà cửa, bỏ làng xóm lũ lượt đi theo …" (3). Những lời trên có
thể đã phản ánh rất đúng về thực trạng của Phật giáo Việt Nam
đang trong thời kỳ cực thịnh đó. Nhưng điều cần bàn ở đây là
thái độ bài bác Phật giáo của Trương Hán Siêu – chắc chắn Trương
Hán Siêu không phải lên tiếng trong tinh thần:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dầu thấy bất bằng mà tha.
Mà lên tiếng chỉ vì
lòng ganh tẹp hòi của một Nho sĩ đối với Phật giáo. Nhưng nói
cho cùng, các nhà Nho ganh tới Phật giáo cũng là một điều dễ
hiểu, vì suốt cả đời họ, việc đeo đuổi đèn sách chỉ có mỗi một
đích duy nhất: kiếm cho được một địa vị, trở thành ông quan để
hưởng vinh hoa phú quý! Đó là kết quả tất nhiên của cái học từ
chương, cái học cứng nhắc, quá lắm cũng chỉ tạo ra được một Tô
Hiến Thành hay một Chu Văn An, tức là những ông quan liêm chính,
mẫu mực của triều đình. Nhưng khi những nhà Nho ganh tị với Phật
giáo mà họ lại quên mất điều quan trọng này, rằng những con
người ngoại lệ, những kẻ khai sơn phá thạch đều xuất thân từ
những nền văn hóa từ chối giáo điều, có nghĩa là nền văn hóa đó
phải khuyến khích tự do sáng tạo, tự do tư tưởng, và nhất là
không chấp nhận những công thức đã có sẵn từ trước. Bởi vậy,
chính Vạn Hạnh Thiền sư đã mách bảo Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư
về Thăng Long (thủ đô Hà Nội hiện nay). Phải từ kinh đô mới này
mà ý thức tự chủ và tự cường của dân tộc mới phát triển đến cao
độ. Chính cái ý thức này đã làm cho đất nước hùng mạnh trong gần
5 thế kỷ, và ý thức đó chỉ tàn lụi vào cuối đời Trần, nghĩa là
khi Phật giáo đã mất dần ảnh hưởng, để nhường chổ lại cho ý thức
hệ Nho giáo.
Nhưng dù sao, thì việc
Trương Hán Siêu và các Nho sĩ đời Trần lên tiếng bài bác Phật
giáo cũng đã để lại cho ta một bài học vô cùng giá trị. Bài học
đó, theo thiền ý người viết, giản dị như thế này: Phật giáo nên
rút lui sau khi đã hoàn thành sứ mạng cứu giúp cuộc đời, và
không nên tìm một chỗ đứng trong chính sự để củng cố và phát
triển tôn giáo của mình.
Huyền Quang dù bấy giờ
đã là người đứng đầu giáo hội Trúc Lâm Yên Tử vẫn không đến ở và
làm việc tại chùa Quỳnh Lâm và Báo Ân, như Pháp Loa trước đó đã
làm. Trái lại, Huyền Quang về ẩn cư luôn ở núi Thanh Mai và Côn
Sơn cho đến khi mất, bởi lẽ khi đọc lại các sử liệu, ta thấy
Quỳnh Lâm và Báo Ân là những chùa quá giàu có, vì được sự hỗ trợ
tích cực của vương triều Trần. Có phải Huyền Quang muốn điều
chỉnh lại một giai đoạn lịch sử đã qua? Đồng thời ông muốn vạch
một hướng đi khác cho Phật giáo Đại Việt chăng? Vì với những con
người đang đeo đuổi giấc mộng giải thoát thì núi rừng và những
ocn đường mịt mù đầy cát bụi ở những nơi chốn xa xôi kia mới
chính là chỗ tới lui đích thực của đời mình.
Khi đã về với núi rừng
rồi. Huyền Quang đã tự bày tỏ: Bào chuyết vô dư sách (Giữ thói
vụng về, không có mưu chước gì).
Câu thơ ấy, Huyền Quang
làm khi đã về ở trên núi Yên Tử, và bộc lộ rõ trong bài Yên Tử
sơn am cư.
Am bức thanh tiêu lãnh (Am sát trời
xanh lạnh,
Môn khai vân thượng tằng. Cửa mở trên
tầng mây.
Dĩ can Long Động nhật, Động Rồng trời
sáng bạch,
Do xích Hổ Khê băng. Khe Hô lớp băng
dày.
Bão chuyết vô dư sách, Vụng dại mưu nào
có,
Phù suy hữu sấu đằng Già nua gậy một
cây.
Trúc lâm đa túc điểu, Rừng tre chim
chóc lắm,
Quá bán bạn nhàn tăng Quá nửa bạn cùng
thầy) (4).
(Đỗ Văn Hỷ dịch)
Những ai đã từng sống
trên núi cao, hay nói một cách khác đang nuôi dưỡng ngọn núi cao
ngất ngưởng trong hồn mình, thì niềm vui đến với họ cũng rất
giản dị. Bởi vì niềm vui đó được trào vọt ra từ chính đời sống
nội tâm tràn đầy của họ. Sở dỉ đời sống của chúng ta trở thành
rối rắm và phức tạp, kể cả việc tranh giành và sát phạt lẫn
nhau, cũng chỉ vì chúng ta cứ đuổi bắt hoài những niềm vui đến
từ bên ngoài đó thôi.
Đối với những kẻ chỉ
biết vui vật dục tầm thường thì ngồi nhìn cuộn khói tỏa ra từ
bếp lửa trong đêm sắp tàn, thấy có gì vui đâu? Vậy mà Huyền
Quang cùng với chú tiểu đồng dường như bắt gặp được niềm vui
chứa chan trong lòng:
Củi hết, lò còn vương khói nhẹ,
Sơn Đồng hỏi nghĩa một chương kinh.
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo,
Thiên hạ cười ta cứ mặc tình (5).
(Địa lô tức sự – Nguyễn Lang địch)
Nhưng khi một người đã
can đảm vứt bỏ hết tất cả những hệ lụy của cuộc đời, thì người
ấy sẽ sống bằng cách nào? Số⮧ bằng chính sức mạnh nội tâm của
họ. Chính sức mạnh kỳ lạ này, mà đã biết bao nhiêu bậc hiền nhân
trác việt tự bao đời, đã lên đường để đến những nơi thâm sơn
cùng cốc, tìm kiếm cho được sự thanh bình trong chính họ.
Huyền Quang đã lên
đường, và chắc là ông đã bước vào được cõi ấy rồi! Vì tiếng thơ
của ông như tỏa ra một niềm bình an vô hạn:
Vườn tược cha ông mặc sức cày,
Quanh nhà xanh nượp mấy hàng cây.
Ngoài song, cành quế chim cưu vắng,
Gió mát, tiền miên giấc ngủ ngày (6)
(Trú Miên – Kiều Thu Hoạch dịch)
Phản quan trần thế giới,
Khai nhãn túy mang mang.
(Ngoảnh nhìn lại cõi đời bụi bặm,
Mở mắt, mà dường như say choáng váng)
(7).
Hai câu thơ trên được
xem như sự bày tỏ quan niệm của Huyền Quang về cuộc đời. Theo
ông cuộc đời dù đau khổ, nhưng cuộc đời vẫn đẹp, đó chính là sức
quyến rũ kỳ lạ của nó. Dù có đau khổ, nhưng chẳng phải mỗi năm
bông cúc vàng vẫn cứ nở để báo mùa thu mênh mông đang trở về
cùng với sương mù và giá lạnh:
Niên niên hòa lộ hướng thu khai,
Nguyện đạm phong quang thiếp thốn hoài.
(Cúc hoa)
(Thu về, móc nhẹ cúc đơm bông,
Gió mát trăng thanh dịu nỗi lòng) (8)
(Băng Thanh dịch)
Và trên những nẻo đường
của trần gian, dù vẫn đầy cát bụi nhưng những nàng con gái đôi
tám xinh đẹp vẫn cứ ngồi dệt mộng yêu đương, khi mùa xuân chợt
đến:
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
(Xuân nhật tức sự)
(Người đẹp tuổi vừa đôi tám ngồi thêu
gấm chậm rãi,
Dưới lùm hoa tử kinh đang nở, líu lo
tiếng chim oanh vàng
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân
của nàng,
Cùng dồn lại ở một giây phút dừng kim
và im phắc) (9)
Dù đó là bài thơ Thiền
thuộc đời Tống của Trung Quốc, như một bài báo gần đây nhất đã
tìm được xuất sứ, nhưng bài thơ vẫn là bài thơ của thế giới
Thiền. Như vậy ta có thể đoán rằng, khi Huyền Quang ghi lại bài
thơ này vào trong tập thơ của mình, Huyền Quang chỉ muốn dùng
bài thơ đó để phát biểu một điều mà ngôn ngữ bình thường không
thể diễn đạt được.
Huyền Quang muốn nói
lên điều gì qua bài thơ đó? Sự chuyển hóa nội tâm chăng? Có thể
xem đó như là một biến cố quan trọng, mà bất cứ một Thiền sư nào
cũng đều phải trải qua. Khi cái giây phút mầu nhiệm ấy đến rồi,
thì một thế giới mới sẽ hiện ra; và kể từ đây cuộc đời các Thiền
sư sẽ không còn tù túng, chật hẹp, không còn cũ kỹ, nhàm chán và
vô vị nữa. Một đời sống mới vừa bắt đầu.
Phải chăng, các Thiền
sư muốn tạm ví cái giây phút đó giống như cái giây phút mà người
con gái lần đầu chợt biết rung động, cái giây phút mà trong bài
thơ đã gọi là Tận tại đình châm bất ngữ thì (Cùng dồn lại ở một
giây phút dừng kim và im phắc).
Có một số ngươì từ lâu
vẫn ngạc nhiên không ít về nội dung của bài thơ ấy. Sự thắc mắc
này chỉ đúng đối với chúng ta, những người còn đang muốn chinh
phục và chiếm hữu cái đẹp về riêng cho mình. Bởi vì còn muốn
chiếm hữu nên ta mới phân biệt cái đẹp này tốt và cái đẹp kia
xấu, nên chọn cái này và không nên chọn cái kia.
Các Thiền sư thì đã
vượt qua được giới hạn ấy, vì họ trực nhận được rằng, tất cả cái
đẹp bên ngoài chỉ là sự phóng hiện cái đẹp từ bên trong. Nếu
trong ta có vạn đóa hoa và vạn cánh bướm đang bay chập chờn, thì
vũ trụ lúc ấy cũng tràn ngập hoa và bướm. Vậy thì, có ích không
nếu ta cứ tiếp tục đi tìm hoa và bướm ở bên ngoài?
Một bữa nọ, chắc là
Huyền Quang vừa rời am Thiền để đi dạo, chợt gặp mấy cô gái đang
hái hoa cúc và cài lên mái tóc của mình, Huyền Quang như muốn
trách nhẹ với họ:
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai.
(Thật đáng cười kẻ không hiểu về huyền
diệu của hoa,
Đến đâu là hái hoa dắt đầy đầu mà về
(10)
Khi ta không còn phân
chia giữa ta và thế giới nữa thì mọi sự chung quanh ta không
phải là cái gì đối nghịch, hay xa lạ với chính ta, thực ra là
bạn bè đã cùng rong chơi từ muôn thuở trước:
... Chủ nhận dữ vật
hồn vô cạnh
(Người và vật hồn nhiên
không tranh cạnh) (11)
Nhưng không phải ngẫu
nhiên mà có được cái đẹp trọn vẹn như vậy, mà phải trải qua biết
bao là khổ luyện mới thành tựu được:
Vương thân vương thế dĩ đô vương,
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuệ vãn sơn trung vô lịch nhật,
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
(Cúc hoa, bài III)
(Quên mình, quên đời, đã quên tất cả,
Ngồi lâu trong hiu hắt, mát lạnh cả
giường.
Cuối năm ở trong núi không có lịch,
Thấy cúc nở biết rằng đã tiết trùng
dương) (12)
Khi một nhà hiền triết
lánh đời để sống ẩn dật trong rừng sâu, một lãnh tụ xuất chúng
hy sinh quên mình để cải hội, một nhà thơ miệt mài làm thơ để ca
tụng vẻ đẹp của cuộc đời, hay một Thiền sư tịch cốc để đối mặt
với khoảng vắng lặng mênh mông, tất cả những việc làm đó của họ,
không ngoài mục đích nào khác hơn là phá cho được một con đường
đề tự cứu mình và từ đó, giải phóng luôn những thống khổ muôn
đời của kiếp người.
Thu phong nhọ phất thiềm nha,
Sơn vũ tiêu nhiên chầm lục la.
Dĩ hỹ thành Thiền tâm nhất phiến,
Cùng thanh tức tức vị thùy đa.
(Sơn vũ)
(Gió thu khuya khoắt thoảng hiên ngoài,
Quạch quê nhà non lấp ruổi gai.
Thôi đã theo Thiền lòng lặng tắt,
Nỉ non tiếng dễ vẫn vì ai?) (13)
(Huệ Chi dịch) Khi tấm
lòng họ đã hiến dâng trọn vẹn cho sự thống khổ của con người,
thì bất cứ tiếng rên la kêu cứu nào, họ cũng đều lắng nghe:
Chích máu thành thư gửi mấy dòng,
Lẻ loi nhạn lạnh, ai mây phong.
Mấy nhà ngóng nguyệt đêm nay nhỉ?
Góc bể chân mây, một mảnh lòng.
(Ai phù lô – Huệ Chi
dịch)
Bởi vậy, lý thuyết nào
không giải quyết được sự đau khổ của con người thì nhất định lý
thuyết đó sẽ bị con người loại bỏ, và đương nhiên cũng sẽ trở
thành lỗi thời.
Dường như cuối cùng chỉ
còn có tình thương, vì sự thông khổ của con người (chứ không
phải lý thuyết) mới không bao giờ lỗi thời mà thôi.
Nha Trang, 1991
Ghi chú:
Việt Nam Phật giáo
sử luận, tập 1. Nxb. Lá bối, Paris, 1977; tr. 369.
Thơ văn Lý Trần tập
II, Q.thượng. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989; tr. 697.
Trương Hán Siêu: Văn
Bìa chùa Khai Ngiêm. Thơ văn Lý Trầ⮮ Sđd; tr. 748.
Thơ văn Lý Trần.
Sđd; tr. 684.
Việt Nam Phật giáo
sử luận. Sđd; tr. 370.
6,7,8. Thơ văn Lý
Trần. Sđd; tr. 691, 682 và 702.
Thơ văn Lý Trần.
Sđd; tr. 681. Bài này, theo khảo cứu của ông Lê Mạnh Thát, vốn
là một bài thơ đời Tống. Xem Tạp chí Văn học số 1-1984.
10,11,12,13. Thơ văn
Lý Trần. Sđd; tr. 701, 700, 692 và 693.
|