I.
Tôi còn nhớ vào khoảng
cuối năm 1973 hay đầu năm 1974 gì
đó. Tuần báo văn nghệ Tìm Hiểu tại Sài Gòn có đăng
một bài phỏng vấn Bùi Giáng, người phỏng vấn là Phan Quốc
Sơn. Trong đó Bùi Giáng có nhắc đến cái chết của Nguyễn Trãi,
tôi không còn nhớ được nguyên văn,
nhưng đại ý Bùi Giáng nói rằng:" Ðêm nào tôi cũng nằm mơ
thấy Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, rồi đây dân tộc mình phải
gánh lấy hậu quả của ác nghiệp mà mình đã gieo ấy".
Không
biết đó có phải là lời tiên tri của một thi sĩ hay không?
Nhưng trên thực tế thì
từ 1973 đến nay đã gần 3 thập kỷ,
đúng là 3 thập kỷ mà dân tộc đã phải gánh chịu không biết
bao nhiêu là thống khổ, chiến tranh, phân ly và nhất là hận thù.
Trong
đêm dài đằng đẵng của quê
hương đó, chắc chắn rằng vẫn không ít những người con thức cùng
với quê hương đau khổ, vẫn thức cùng với nỗi oan nghiệt và ngang
trái mà Nguyễn Trãi, một bậc anh hùng đã hiến dâng tất cả tình
yêu của mình cho quê hương, để rồi cuối cùng phải ngã gục bởi
tình yêu mà Nguyễn Trãi đã cưu mang đó.
Trong thơ của Nguyễn
Trãi, ta thấy ông thường nói đến cái hận của bậc anh hùng:
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu
( Xưa nay thời gian không cùng, sông
rộng bát ngát
Anh hùng mang mối hận, lá rụng veo
veo)(1)
( Vãn Hứng )
Và trong một bài thơ
khác, Nguyễn Trãi lại nói đến
cái hận đến cả ngàn năm:
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
(Anh hùng để
mối hận đến mấy nghìn năm sau)(2)
Dù đó là câu được trích
trong bài Quan Hải (đóng cửa biển)
nhắc đến việc Hồ Quý Ly đã lấy gỗ và đá
đặt sau dưới lòng biển để đánh đuổi quân Minh xâm lăng, nhưng vì
không được lòng dân, thì dù là một bậc anh hùng như Hồ
Quý Ly đi chăng nữa, thì
cuối cùng cũng gánh lấy thảm bại mà thôi.
Nhưng tôi nghĩ rằng,
khi làm câu thơ trên không nhiều thì ít Nguyễn Trãi cũng có gởi
gắm tâm sự của mình trong đó. Vì lý do dễ hiểu là một người tự
trọng như Nguyễn Trãi thì không bao giờ tự nhận mình là bậc anh
hùng.
Nhưng Nguyễn Trãi có
hận riêng cho bản thân mình không?
Ðọc lịch sử dân tộc,
thì có lẽ ai cũng phải công nhận rằng, chỉ có Nguyễn Trãi là
người chịu nhiều bất công và đau khổ nhất trong số các bậc anh
hùng của dân tộc.
Vừa mới thi đậu tiến
sĩ, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Ngự Sử Ð ài
Chánh Chưởng, mộng ước giúp nhân dân giúp đất
nước đã nằm trong tầm tay. Vậy mà mộng ước đó
đã bị vùi dập ngay tức khắc
khi quân Minh do Trương Phụ chỉ huy đã ào ạt xâm lăng
đất nước. Cha con Hồ Quý Ly và hầu hết triều đình nước
"Ðại Ngu" của ông đều bị bắt làm tù binh, trong đó có Nguyễn Phi
Khanh, cha của Nguyễn Trãi.
Nghe tin, Nguyễn Trãi
đến thăm và
tiễn cha đến tận biên giới, có ý
địnhtheo cha qua Trung Quốc để hầu hạ cha trong buổi xế chiều
của cuộc đời. Nhưng sau khi nghe lời khuyên của Nguyễn
Phi Khanh, Nguyễn Trãi đã gạt nước mắt từ biệt cha và em rồi
quay trở lại để tìm con đường "rửa nhục cho nước, trả thù cho
cha".
Vậy là, Nguyễn Trãi
phải bắt đầu làm lại cuộc đời từ con số không, với trước mắt là
hình bóng người cha già và đứa em trai sống những ngày còn lại
trên đất khách quê người với cuộc đời tù binh mà Nguyễn Trãi
biết chắc rằng sẽ chẳng bao giờ gặp
lại được nữa, còn sau lưng là quê cha đất
tổ đang quằn quại trong đêm dài nô lệ của ngoại bang.
Rồi
sau khi đã cùng với Lê Lợi nằm gai nếm mật "rửa nhục cho
nước, trả thù cho cha" thì Nguyễn Trãi phải chịu nỗi đau
đớn khác nữa. Lê Lợi vì muốn thâu tóm quyền hành nên đã
bắt đầu nghi ngờ những nhân vật lỗi
lạc đã cùng với Lê Lợi chung vai sát cánh đánh
đuổi quân Minh. Sử chép rằng, năm Thuận Thiên thứ 2, Lê
Lợi sai bắt Trần Nguyên Hãn, một đệ nhất công thần khiến Trần
Nguyên Hãn phải nhảy xuống sông tự tử. Rồi tiếp theo là Phạm Văn
Xảo, một đệ nhất công thần khác cũng bị giết. Và chính
Nguyễn Trãi cũng bị nghi ngờ có liên hệ với Trần Nguyên Hãn nên
cũng bị bắt, nhưng chỉ một thời gian ngắn thì được thả ra.
Và cuối cùng là, một
tai hoạ thảm khốc nhất đã
giáng xuống trên đầu Nguyễn Trãi:
" Vào cái ngày đau xót
không những cho Nguyễn Trãi mà còn cho cả dân tộc nữa, là ngày
16 tháng 8 năm Nhâm Tuất tức ngày 19 tháng 9 năm 1442 Nguyễn
Trãi và gia tộc đã rụng đầu dưới
lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạn và ngu
muội mà chính ông đã chiến đấu gian
khổ để dựng nên" (3).
Nhưng xét cho cùng thì
đó cũng chỉ là tai hoạ riêng của Nguyễn Trãi và gia tộc. Một bậc
anh hùng như Nguyễn Trãi thì chắc không bao giờ có thể lấy sự
đau khổ có tính cách riêng tư để ôm
mối hận đến ngàn năm sau. Vậy thì Nguyễn Trãi ôm hận vì
việc gì?
Lịch sử chép vào năm
1437 vua Lê Thái Tôn sai Nguyễn Trãi và Lương Ðăng
thẩm định lại lễ nhạc. Nguyễn Trãi tâu với Thái Tôn rằng:
" Thời loạn thì dùng
võ, thời bình thì dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc là phải
thời lắm. Song không có gốc thì không đứng
vững, không có văn thì không thể lưu hành. Hòa bình là
gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc" (4).
Nhưng dù sao đó cũng
là những lời những chữ mà ta có thể nghĩ là bất cứ một chính trị
gia thông minh và khôn ngoan nào cũng có thể phát biểu được.
Chỉ có những lời sau đây mới là những lời được phát xuất từ trái
tim nóng bỏng của bậc cha già vì tình thương yêu cho con
cháu ở muôn đời sau:
" Dám mong bệ hạ rủ
lòng yêu thương và chăn nuôi dân khiến cho dân trong thôn xóm
vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Ðó tức là giữ được
cái gốc của nhạc" (5).
Nguyễn Trãi bị giết
năm 1442, vậy là tính đến nay đã
gần 600 năm. Có lẽ trong khoảng thời gian dài đằng đẵng của lịch
sử dân tộc đó, trừ vài thập kỷ ngắn ngủi dưới thời Lê
Thánh Tông (1442-1497) ra, còn hầu hết thì "tiếng hờn giận, oán
sầu" vẫn vang lên trong những xóm vắng của quê hương đất nước.
Thi sĩ là kẻ luôn luôn
có trực giác sâu xa nên Nguyễn Trãi đã linh cảm được
rằng, sự đau khổ chính bản thân mình cũng là sự đau
khổ chung cho cả dân tộc trong những thế kỷ tiếp sau chăng? Vì
lẽ những bậc anh hùng thì luôn luôn lấy sự đau khổ chung như là
sự đau khổ của chính bản thân mình vậy.
Vào hậu bán thế kỷ 18,
cũng có một nhà đại trí thức cũng bị trả thù và hạ nhục như
Nguyễn Trãi. Ðó là Ngô Thì Nhậm bị Gia Long đem
ra đánh đòn tại Văn miếu, và đã chết ngày 16 tháng 2 năm
Quý Hợi (9 tháng 3 năm 1803). Thực ra, Ngô Thì Nhậm chỉ
bị hạ nhục chứ không oan trái như Nguyễn Trãi. Vì Nguyễn Trãi đã
ngã gục dưới lưới dao của chính triều đình mà ông đã dựng lên.
Còn Ngô Thì Nhậm thì ngã gục bởi triều đình đối
nghịch với triều đình mà Ngô Thì Nhậm đã phục vụ là triều
đại Tây Sơn. Nhưng nói cho cùng, thì dù là triều đình nào đi nữa
thì cũng đều là chung nòi giống Việt. Bởi vậy, hai cái chết của
hai nhà đại trí thức lớn của dân
tộc vẫn để lại vết thương đau đớn không phải chỉ ở thời đại của
Nguyễn Trãi và Ngô Thì Nhậm thôi, mà vết thương đó
vẫn tiếp tục mưng mủ cho đến nhiều thế kỷ sau nữa, đặc biệt
là đối với những người biết vui cũng như buồn về lẽ thịnh suy
của lịch sử dân tộc.
Không chỉ giống nhau về
cái chết bị hạ nhục, mà Nguyễn Trãi và Ngô Thì Nhậm còn giốnh
nhau trên nhiều lãnh vực nữa. Trước nhất là thời đại.
Vậy thời đại mà
Nguyễn Trãi đã sanh ra và lơn lên như thế nào?
Ðó là vào những năm
cuối đời Trần. Gần như đã trở thành một quy luật, những
ông vua cuối cùng của bất cứ triều đại nào ở đâu và thời đại nào
cũng vậy, nghĩa là cũng hèn yếu, nhu nhược, hưởng thụ trên sự
đau khổ và rên xiết của muôn dân một cách tàn nhẫn mà không hề
có một chút hỗ thẹn. Nguyễn Phi Khanh cha của Nguyễn Trãi trong
một bài thơ gởi cho Băng Hồ Trần Nguyên Ðán đồng thời cũng là
cha vợ của mình, một Tôn Thất của nhà Trần. Nguyễn Phi Khanh đã
nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân tại một làng quê như
thê này:
Ðạo huề thiên lý xích như thiêu
Ðiền dã hưu tu ý bất liêu!
Hậu thổ sơn hà phương địch
địch
Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều!
Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,
Dân mạnh cao chi bán dĩ tiêu
( Ðồng lúa nghìn dặm
đỏ như cháy
Vùng thôn quê vang tiếng kêu than:
Sinh kế biết trông đâu!
Non sông khắp giải đất này đang khô
không khốc:
Mà mưa mốc hoàng thiên còn xa biền biệt
Màng lưới nha lại, làm cho dân kiệt quệ
mất nhiều;
Dầu mỡ trong sinh mạng dân ta đã
tiêu hao đến một nửa!)(6)
(Thôn cư cảm sự ký trình Băng Hồ tướng
công)
Trước một xã hội như
vậy, Nguyễn Phi Khanh với tư cách một sĩ phu cứ băn
khoăn tự hỏi mình phải làm gì?
Ô hô thế đạo như hà
ngã
Tam phủ di biên phú Ðại Ðông!
( Than ôi! Trên đường
đời, ta biết tính sao đây?
Ba lần vỗ bìa sách cũ mà ngâm thơ Ðại
Ðông!)(7)
( Thu nguyệt hữu khởi cảm tác )
Không còn hồ nghi gì
nữa chính Nguyễn Phi Khanh qua nhữnh vần thơ trên đã hun đúc tâm
hồn cho con la Nguyễn Trãi sau này.
Ðến Nguyễn Trãi thì sự
thống khổ lại được nhân lên
gấp bội, nghĩa là ngoài sự đau khổ loạn ly của xã hội cuối đời
Trần, Nguyễn Trãi còn chứng kiến sự tàn bạo của quân cướp nước:
Thui dân đen trê n
lò bạo ngược
Hãm con đỏ dươi hố tai ương.
Dối trời lừa người! Kế gian đủ muôn nghì n
khoé.
Cậy binh gây
hấn, ác chứa gần hai chục năm (8)
( Bình Ngô Ðại cáo )
Ðó không phải là hận
thù lên tiếng nói mà chính tình thương đã lên tiếng nói. Phải có
một tấm lòng tràn đầy nhân ái nên chỉ trong vài câu ngắn gọn
Nguyễn Trãi đã phơi bày được hết cái xấu cái
ác của một thiểu số người thống trị ở mọi thời đại.
Kẻ xâm lược có nghĩa là
kẻ không cùng chung nòi giống, thì họ tàn bạo cũng là điều
có thể hiểu được. Nhưng cùng chung một nòi giống mà " Dối
trời lừa người" để “ Thui dân đen
trên lò bạo ngược" thì lịch
sử xưa cũng như nay đều không phải là ít.
Vào hậu bán thế kỷ 18,
xã hội mà Ngô Thì Nhậm sanh ra và lớn lên cũng chẳng khác gì xã
hội mà Nguyễn Trãi đã chứng kiến từ những ngày còn trai trẻ ở
đầu thế kỷ 15, nghĩa là cũng những ngày xế chiều của vua Lê chúa
Trịnh ở đàng Ngoài, và chúa Nguyễn ở đàng Trong. Phan Huy
Chú đã ghi lại về đời sống của người dân về những ngày ấy:
" ... Vì sự trưng thu
quá mức, vật lực kiệt không thể nộp nổi, đến nỗi người ta thành
ra bần cùng mà phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà
phải chặt cây sơn, có người vì thuế vải lụa mà phải chặt khung
cửi. Cũng có kẻ vì nộp vỏ cây mà bỏ rìu búa; vì bắt cá tôm mà xé
lưới chài, vì phải nộp mật mà không trồng mía đường nữa, vì phải
nộp bông chè mà bỏ hoang vườn tược. Làng xóm náo
động... “(9)
Năm 1769, Ngô Thì Nhậm
mới có 23 tuổi được bổ nhiệm là m
Hiến Sát Phó Sứ Hải Dương. Trong Hàn Các Anh Hoa, còn ghi
lại tất cả những bài Khải của Ngô Thì Nhậm dâng lên chúa
Trịnh, hầu hết đều nói đến “cái ẩn
tình đau khổ của dân”. Trong một bài Khải khác,
Ngô Thì Nhậm đã chính thức đề nghị chúa Trịnh nên thi hành "các
cải cách hành chánh", Ngô Thì Nhậm viết:
“... Thần được nghe “
Quan nhiều thì lại nhiều,
lưới thưa thì dân giàu" cho nên Thiên Chu quan nói: "Quan không
cần đủ". Thiên Lập Chính nói: "Cẩn thận noi phép tùy theo nặng
nhẹ mà dùng hình phạt cho thích đáng”.
Những điểm đó đều là gốc của chính sự, có quan hệ đến tính mệnh
của dân, sai một ly là đi một dặm.
Gần đây, cứ nhân tuần
theo như tệ cũ, mỗi ngà y một
phiền nhiễu thêm: quan có khi không
cần đặt cũng đặt, việc có khi không cần thêm cũng thêm;
kiện có khi không cần xử cũng xử. Nói chung họ lợi dụng chức vụ
để sách nhiễu, mượn văn án để làm
việc thiên tư, khiến kho của dân bị khánh kiệt vì quan nhiều,
chính thể bị tổn thương vì án nặng.
Hiện nay ở nơi thôn xóm, dân đương vất vả vì thiếu ăn. Mong được
nới phần nào nhờ ơn phần nấy.
Thiết nghĩ đường lối
nới rộng cho dân, trước hết là
bỏ những viên chức tạp nhạp, ngồi không và bớt những công việc
phiền nhiễu đi" (10). ( Tuế quy Trần ngôn khải )
Ngô Thì Nhậm viết bảng
điều trần trên cách đây đã
gần 2 thế kỷ rưỡi.
Phong kiến rồi thực dân
đế quốc đã bị quét sạch.
Thế
nhưng những điều mà Ngô Thì Nhậm yêu cầu chúa Trịnh bãi
bỏ để quan lại thời đó bớt ức hiếp
người dân, đến nay vẫn còn tồn tại, mặc dù tồn tại dưới
một hình thức khác, nghĩa là tinh vi và máy móc hơn nhiều.
Trong lịch sử đánh đuổi
ngoại xâm của dân tộc, mặc dù rất nhiều, nhưng có lẽ 4 cuộc
chống ngoại xâm được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân
tộc, đó là: cuộc đánh Tống của Lý Thường Kiệt (1076), cuộc đánh
đế quốc Nguyên Mông của Trần Hưng Ðạo lần thứ nhất
(1257), lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287-1288), rồi cuộc đánh
đuổi quân Minh của Lê Lợi (1418-1427) và cuối cùng là
cuộc đại phá quân
Thanh năm Kỷ Dậu (1789) của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Nếu xét theo hoàn cảnh,
thì có thể nói rằng hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau là cuộc
đánh Minh của Lê Lợi và đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ thì
gian nan và khó khăn hơn nhiều. Khi
đánh Tống, thì Lý Thường
Kiệt đã có sẵn một vương triều Lý đang ở hồi hưng thịnh nhất.
Cũng vậy, khi đế quốc Nguyên Mông tràn vào nước ta thì
Trần Hưng Ðạo cũng đã có sẵn vương triều Trần cũng đang
ở trong gian đoạn hùng mạnh, nhất là tinh thần đoàn kết
từ vua quan đến thứ dân.
Trong khi Lê Lợi đã
phải bắt đầu bằng hai tay trắng nơi núi rừng Lam Sơn nghèo khổ ở
Thanh Hóa. Còn Nguyễn Huệ thì có thuận lợi hơn Lê Lợi, nhưng vẫn
có nhiều hạn chế, trước hết là nội bộ Tây Sơn đã bắt đầu rạn
nứt, trong Nam thì Nguyễn Aùnh đang bắt tay với Pháp và củng cố
các tỉnh miền Nam để chuẩn bị phản công. Còn ở Bắc Hà, mặc dù
dân chúng thì căm ghét quân Thanh xâm lược, nhưng một số nhà Nho
bảo thủ vẫn hướng vọng về vua Lê chúa Trịnh.
Tuy vậy, Lê Lợi và
Nguyễn Huệ lại được hai nhà trí thức có thể là lỗi lạc nhất của
thời đại tìm đến giúp đỡ. Nguyễn
Trãi, mặc dù là cháu ngoại của Tôn Thất nhà Trần, nhưng
bằng cặp mắt nhìn xa trông rộng, biết rằng nhà Trần đã hết vai
trò lịch sử, nên đã mạnh dạn đến Lỗi Giang trao Bình Ngô Sách
cho Lê Lợi. Rồi sau đó ròng
rã trong 10 năm, chính Nguyễn Trãi đã hoạch định
đường lối và kế sách cho nghĩa quân Lam Sơn. Trong và sai
khi hòa bình được lập lại, thì Lê Lợi cũng đã giao cho Nguyễn
Trãi soạn thảo các văn thư ngoại giao với các tướng lãnh nhà
Minh. Trong Quân Trung từ mệnh tập ta thấy Nguyễn Trãi đã
viết thư cho các tướng lãnh đang
chiếm đóng nước ta như Sơn Thọ, Phương Chính, Thái Thúc, Vương
Thông, .v..v. để có lúc “ như mắng nhiếc “, có lúc “ như khiêu
khích ". Nhưng trên hết vẫn là lòng nhân ái tràn đầy,
đã làm cho nhiều tướng lãnh của quân Minh như Lưu Thanh ở
Tam Giang cùng với các tướng lãnh khác ở Nghệ An, Thuận Hóa, Tây
Ðô và nhiều thành đều “không đánh
mà giặc phải ra hàng cả" như Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư đã
ghi lại.
Cũng như trường hợp
Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm mặc dù đã được sanh ra và lớn lên
trong gia đình nhiều đời chịu ân sủng vua Lê chúa Trịnh, lại
được nổi tiếng là người trí thức thuộc "dòng dõi văn học Bắc
Hà". Nhưng Ngô Thì Nhậm cũng đã nhận ra chiều gió lớn của lịch
sử, nên cuối cùng đã quyết
định trở về với nghĩa quân Tây Sơn.
Ngô Thì Nhậm trở về
cũng đúng lúc như Nguyễn Trãi đến Lỗi Giang gặp Lê Lợi vậy.
Ngày 28 tháng 10 năm
Mậu Thân (1788), 29 vạn quân Thanh dưới sự chỉ huy của tổng đốc
Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã vượt ải Nam Quan tiến về
Thăng Long. Hầu hết các tướng lãnh Tây Sơn đều nhất quyết đem
quân chận đánh, vì theo cách suy diễn của họ thì "lấy
quân nghĩ ngơi mà đánh quân mệt nhọc" thì nhất định phải thắng.
Nhưng ý kiến của Ngô Thì Nhậm thì lại khác, ông đề nghị "toàn
quân rút lui, không bị mất một mũi tên, cho nó ngủ trọ một đêm
rồi mai lại đuổi nó đi”. Tướng Ngô
Văn Sở đã chấp nhận ý kiến của Ngô Thì Nhậm, cho rút quân
về núi Tam Ðiệp, đồng thời cho người về cấp báo với Nguyễn Huệ ở
Phú Xuân. Quân Thanh vào Thăng Long như vào chỗ không người nên
tỏ ra chủ quan, kiêu ngạo, nên rất đúng như lời nói của Ngô Thì
Nhậm "cho chúng ngủ trọ một đêm rồi mai lại đuổi
nó đi”. Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra Bắc Hà, không
đầy 10 ngày đã đánh tan 29 vạn quân
Thanh, giải phóng Thăng Long lập nên võ công vĩ đại nhất
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Sau chiến thắng mùa
xuân 1789, Ngô Thì Nhậm cũng được
Nguyễn Huệ giao trách nhiệm “tuỳ việc ứng đối với nhà Thanh để
yên việc chiến tranh”. Các văn kiện ngoại giao do Ngô Thì
Nhậm soạn thảo trong thời kỳ này được tập hợp lại trong Ban
giao hảo thoại và một số trong Ban giao tập.
Cũng như Nguyễn Trãi đã
viết Bình Ngô Ðại Cáo để nói
lên tất cả hào khí của dân tộc được thể hiện qua nghĩa
quân Lam Sơn, thì Ngô Thì Nhậm cũng đã viết Chiếu Lên Ngôi
cũng với cùng mục đích là nói lên hào khí của dân tộc trong
thời đại Tây Sơn mà tiêu biểu nhất là qua bản thân Quang Trung
Nguyễn Huệ.
Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm
cũng đã là tác giả của Biểu Trần Tình, Biểu Cầu Hôn,
Biểu đòi bỏ lệ cống người
vàng, Biểu
đòi đất 7 châu Hưng Hóa, Biểu đòi sứ bộ nhà Thanh vào Phú
Xuân tiên phong.
Nhà Hán học và nghiên
cứu văn học Lê Thước có nhận định
về văn phong của Ngô Thì Nhậm như sau:
"Ngô Thì Nhậm là tiến
sĩ đời Lê, nhưng văn ông không bị
ảnh hưởng lối văn phù hoa, phiêu dật của thời này. Văn
ông là văn bác học, văn ông hùng
hồn, mạch lạc, kỹ thuật điêu luyện ít ai bì nổi. Văn Ngô
Thì Nhậm không phải hay ở chỗ câu văn trau chuốt mà hay ở chỗ
cốt cách không trọng kỹ xảo. Lời văn này hoàn toàn xa lại với
văn cầu kỳ, khuôn sáo ở thời Lê Mạt. Có thể nói văn Ngô Thì Nhậm
là văn của một người có tầm tư
tưởng lơn, có thể so sánh với văn của Nguyễn Trãi.
Ðứng trước Ngô Thì
Nhậm, không những nhà văn bình thường, mà những nhà văn tài ba
sống cùng thời như Phan Huy Ích cũng bị lu mờ" (11)
II.
Dường như trong thi ca
xưa cũng như nay, hầu hết các thi nhân đều không bao giờ đứng
nhì n mặt trời mọc mà cảm
khái cho thân phận phù du của kiếp người, mà đều
đứng nhìn cảnh chiều tà.
Có lẽ cũng là điều dễ
hiểu, vì tâm thức của con người
cũng quay theo tiết nhịp của trời đất. Nói theo một nhà văn của
Việt Nam hiện đại thì "ngôn ngữ của bình minh là ngôn ngữ
của sự thức tỉnh" còn "ngôn ngữ của hoàng hôn là ngôn ngữ của sự
đưa ma những thần tượng" ( Phạm Công Thiện ).
Nguyễn Trãi là một
người tài hoa lại mang nhiều bi kịch trong đời sống nội tâm của
mình, nên chắc chắn ông có nhiều điều
để tâm sự mỗi khi nhìn buổi chiều đến chậm:
Trường thiên mạc mạc thủy du du
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu
Tiễn sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian lụy
bất đáo thương châu
( Trời thì rộng bao la nước thì bát
ngát.
Lá vàng rụng phủ núi sông, tiết muộn về
thu.
Thèm chết được
như đôi chim trắng ở bên hoa kia
Lụy nhân gian không đến được bã i
ẩn dật ) (12)
( Buổi chiều đứng trông )
Có lẽ cũng như bao nhiêu
tâm hồn vĩ đại khác đã đến rồi đi trên cuộc đời này.
Nguyễn Trãi cũng đã nhiều lần băn
khoăn tự hỏi, sự có mặt của mình trên cuộc đời này có ý
nghĩa gì chăng? Mình là gì hay cũng chỉ là một sinh vật phù du
giữa đất trời mênh mông? Nên ở lại với loài người? Hay nên ra đi
sống vô danh và im lặng như cỏ cây, cát bụi? Sao mình không được
là đôi chim trắng đang bay thảnh
thơi bên bụi hoa ngoài song cửa sổ kia?
Trong bài Thính vũ
(Nghe mưa) ta thấy Nguyễn Trãi có một nỗi xao xuyến lạ lùng rất
khó tả. Nỗi xao xuyến đó có thể là
một niềm vui (dù rất mơ hồ) "hoà chung nhập mộng thanh" (lẫn
tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng); hay cũng có thể là một
nỗi hốt hoảng bàng hoàng khi chợt nhận ra rằng mình cũng chỉ là
một kẻ xa lạ, nhỏ bé, chẳng nghĩa gì giữa vũ trụ mênh mông này:
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm,
Ðiểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật
Hòa chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Ðoạn tục đáo thiên minh
( Vắng vẻ trong phòng tối tăm
Suốt đê m
nghe tiếng trời mưa
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách;
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc như khua nhặt vào cửa sổ
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ
nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được
Nghe đứt nối cho đến trời bì nh
minh) (13)
( Nghe mưa )
Ngô Thì Nhậm một lòng
vừa bước đi vừa nhìn đất trời mông
lung rồi cũng băn khoăn tự hỏi về mình, về vũ trụ mênh
mông kia:
Vừa đi ta vừa tự hiểu trong lò ng
ta chừ,
Lúc trời đất còn hỗn độn chưa phân,
Ở dưới cái gì làm nên núi sông chừ;
Ở trên cái gì làm trăng sao?
Ở giữa cái gì hình thành nên vật chừ,
Từ trạng thái gì hình thành nên người?
Sao lại chia ra trên, dưới, giữa chừ,
Khiến cho tụ lại theo loài, phân ra nhiều
giống.
Chữ "Lý" (của Tống Nho) ấy thật là trống
rỗng,
Chữ "Khí" (của Tống Nho) ấy thật là lộn
xộn
Tại sao người ta vẫn ganh đua danh lợi chừ,
Ai là sơ mà ai là thân?
Tại sao lại đưa đón phiền phức chừ
Ai là giả mà ai chân?
Ðã dùng gươm giáo đánh nhau chừ
Rồi lại đem ngọc lụa mà
giao hiếu (14)
Ðọc bài Phú trên của
Ngô Thì Nhậm khiến ta nhớ đến kinh
MalunKyaputta trong Trường Bộ Kinh, MalunKyaputta đến xin Ðức
Phật giải đáp những vấn đề siêu hình như: vũ trụ trường
tồn hay 2) không trường tồn 3) vũ trụ hữu hạn hay 4) vô hạn. 5)
linh hồn là một vật và thể xác là một vật khác ..v...v..
Có lẽ chính vì những
băn khoăn và ray rứt trên mà
Thái Tử Tất Ðạt Ða và biết bao nhiêu người trai trẻ khác đã từ
bỏ tuổi xuân, cắt mái tóc đen nhánh của mình, vứt bỏ lại sau
lưng tất cả những lạc thú của trần gian để lên đường tìm kiếm
cho ra lời giải đáp thỏa đáng cho
những vấn đề muôn thuở về thể phận của con người. Vì
những con người minh triết nhất, thì luôn luôn ý thức một cách
triệt để rằng, mỗi người phải tự tìm lấy lời giải đáp cho chính
mình, chứ không ai giải đáp thay cho mình cả.
Nói theo cách nói thơ
mộng của một nhà thơ Việt Nam hiện đại thì:
Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại
Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm.
Em ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm
năm
( Bùi Giáng )
Trong thơ bằng chữ Hán
cũng như chữ Nôm, ta thất rất nhiều bài Nguyễn Trãi cũng đã lên
đường để tìm lời giải đáp cho những
vấn đề có tính cách sống chết này. Chẳng hạn, khi còn làm
quan to giữa chốn triều đình quyền cao chức trọng, nhưng Nguyễn
Trãi vẫn cứ nghĩ rằng mình như đang ở trong một thiền viện âm u
tĩnh mịch nào:
Tiểu viện âm âm thạch kính tà
Tiêu nhiên hoạn huống tự tăng gia
( Viện nhỏ âm u với đường đá xiê n
Vắng vẻ cảnh làm quan mà sao giống nhà
chùa ) (15)
( Mạn hứng 3 )
Nếu nhìn theo cách nhìn
của nhà thơ thì Nguyễn Trãi đang lên đường tìm kiếm cái đẹp
“cái đẹp sẽ cứu vớt con người” một văn hào Nga đã nói như
thế. Nhưng nếu ta nói rằng Nguyễn Trãi đang
thực tập Thiền quán, đang quán chiếu về đám mây trắng từ đỉnh
núi cao bay ra để mà quên lãng những cái gì nhỏ nhen thấp
hèn của cuộc đời như vinh hay nhục thì cũng không sai:
Vị xuất gia thì thả trú gia
Hạm lý vân sơn vô sủng nhục
( Chưa xuất gia thì hãy ở nhà
Trong hiên nhìn mây núi thì không có
vinh hay nhục nữa )
( Họa hữu nhân yên hà ngụ hứng )
Nguyễn Trãi ý thức được
rằng đó là việc thiên nan vạn nan, nhưng dường như Nguyễn
Trãi cũng đã một lần phát đại nguyện, luyện tập cái tâm của mình
như một câu trong Quốc Âm thi tập:
Mọi
sự đều nên " thuấn nhã đa"
Câu
ấy khiến ta nhớ đến câu “thuấn nhã đa tánh khã tiêu vong,
thước ca ra tâm vô động chuyển" (
Hư không có thể băng hoại, nhưng lòng kiên trì của ta đối
với đại nguyện này sẽ không bao giờ lây chuyển ) trong bai tựa
của Kinh Thủ Lăng Nghiêm mà truyền thống các chùa tại
Việt Nam vẫn trì tụng vào buổi khuya hơn 2000 năm nay.
Ðúng là Nguyễn Trãi đã
trụ vững cái tâm của mình, trong bất cứ trường hợp nào, dù giữa
chốn triều đình, giữa sự lao xao của lợi danh, chức tước, Nguyễn
Trãi vẫn xem chốn đó như một “quán
khách” ngủ trọ một đêm rồi sáng mail lại lên đường. Chỉ
có hình bóng của "Bụt" mới rọi sáng trên con đường
đi của Nguyễn Trãi mà thôi:
Chân chẳng lọt đến cửa vương hầu
Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu!
Liệu cửa nhà xem bằng quán khách!
Ðem công danh đổi lấy cần câu.
Thân đà hết lụy thân đều nhẹ;
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu?
( Mạn Thuật 8 )
Thực sự thì
chẳng đợi đến khi ra làm quan, nghĩa là chẳng phải khi
gặp đau khổ thì Nguyễn Trãi mới nghĩ đến việc vào chùa, vào
Thiền viện, mà năm Ất Sửu (1385) khi vừa mới lên năm thì đã theo
mẹ là Trần Thị Thái về ở động Thanh Hư trên núi Côn Sơn cùng ông
ngoại là Quan đại Tư đồ Trần Nguyên
Ðán, lúc này đã xin cáo quan về hưu. Côn Sơn là vùng núi non có
nhiều chùa, Thiền viện, nên tất nhiên Nguyễn Trãi đã được
hun đúc, nuôi dưỡng rồi lơn lên trong không khí đầy Thiền vị ấy.
Khi về già, cáo quan về
lại Côn Sơn, ta thấy Nguyễn Trãi đã xác nhận lại một lần nữa
rằng, chính "đất Bụt” đã làm
thức tỉnh tâm hồn mình, và ý thức nhập cuộc cứu đời
cũng bắt nguồn từ mảnh đất ấy:
Ao quan thả gởi hai bè muống
Ðất Bụt nương nhờ một luống mồng
Còn có một lòng âu việc nước
Ðêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung
( Thuật Hứng 23 )
Hiện chưa có sử liệu
nào xác nhận hay phủ nhận Nguyễn Trãi có đến Trung Quốc hay
không? Nhưng tôi nghĩ rằng Nguyễn Trãi có đi hay không thì cũng
chẳng quan trọng gì lắm, điều quan trọng nhất vãn là Nguyễn Trãi
đã làm một cuộc hành trình tâm linh, đến tận nơi phát xuất dòng
suối Tào Khê, nơi mà Lục Tổ Huệ Năng
đã chỉ rõ "bản lai diện mục", tức cái khuôn mặt muôn đời
của mọi sinh linh đau khổ trên cuộc đời phù du này. Vì
dòng suối ấy, không chỉ đã nuôi dưỡng sức sống cho
2 triều đại Lý Trần, hai triều đại được xem là đỉnh cao của văn
hóa Việt Nam, mà dòng suối ấy còn chảy đến tận Cao Ly và
nhất là Nhật Bản, đã trở thành cây đại thọ mà cành lá của nó đã
phủ mát cả đất trời Á Ðông. Ðể rồi cuối cùng đến những thập niên
của thế kỷ 20, sau khi nhân loại đã
chịu đựng sự đau khổ đến cùng cực bởi 2 cuộc thế chiến,
thì dòng suối Tào Khê lại bắt đầu
đâm rễ ở các nước Phương Tây.
Bởi vậy khi vừa đến
đứng trước dòng suối Tào
Khê, Nguyễn Trãi đã viết:
Bán sinh khâu hác tiện u thê
Thiền
pháp phân minh thính điểu đề
Vạn lý Nam lai sơn thủy viễn
Nhất sinh năng kỷ quá Tà o
Khê
( Nửa đời chỉ thích nương thân cảnh
suối gò vắng vẻ
Noi gương Thiền nghe rõ tiếng chim kêu
Sông núi xa xôi, muôn dặm từ phương Nam
đến
Một đời người đã được mấy lầ n
qua suối Tào Khê? )
( Ðề Nam hoa thiền phòng )
Câu: Nhất sinh nhân kỷ quá Tào Khê
( Một đời người đã được mấy lần đến suối
Tà o Khê? )
Có thể thấy sự biểu lộ
niềm vui mừng khôn xiết, sự hân hoan vô bờ bến.
Vì sao Nguyễn Trãi lại
vui mừng đến gần như rơi lệ khi đến
được suối Tào Khê như vậy? Bài thơ sau đây
có thể biết được vì sao Nguyễn Trãi lại vui mừng đến như
vậy:
Thần tích phi lai kỷ bách xuân
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu;
Vô thụ phi đà i
ngữ nhược tân.
Ðiện tắt khởi lâu tàng Phật bát;
Khám trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
( Gậy thần tích bay đến đây đã mấy trăm xuân rồi
Hương hỏa chùa Bảo Lâm họp cùng nhân
duyên trước.
Rồng giáng, hổ phục, mấy huyền vi thật
thần diệu
“Không cây, cũng không đà i"
lời nói nghe như mới
Bên điện dựng lầu giữ gìn bát Phật
Trong hộp còn ghi dấu nhưng chân thân
đã giải thoát
Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa
Rửa sạch bụi bám
đời đời cho nhân gian)(16)
( Du Nam Hoa tự )
Phải
đau khổ đến tận cùng, phải chết đi
sống lại nhiều lần thì Nguyễn Trãi mới thấy được sự mầu
nhiệm của dòng suối Tào Khê:
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần
( Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa
Rửa sạch bụi bám đời đờ i
cho nhân gian )
Trong việc rửa sạch
những vết thương nhức nhối của lòng mình hay tuyệt đến như vậy.
Cũng như Vương Duy, Tô
Ðông Pha của Trung Quốc hay Basho của Nhật Bản, Nguyễn Trãi
không chỉ thường lui tới cửa chùa, Thiền viện hay vân du rày đây
mai đó trên khắp các nẻo đường của
quê hương đất nước, mà còn thường xuyên gặp gỡ các Thiền
Sư, có thể là bạn mà cũng có thể là thầy để học phật và đàm đạo
về đạo Thiền nữa:
Ký tằng giảng học thập dư niên
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự;
Cánh tầm thạch thượng thoại tiền duyên.
Minh triêu Linh phố hoàn phi tích;
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệt Thượng Thừa Thiền
( Nhớ từng giảng học hơn mười năm
Nay lại gặp nhau ngủ một đê m
với nhau
Vả mừng trong mộng bỏ hết việc tục;
Lại tìm lên núi để nói chuyện tiền
duyên.
Rạng mai sẽ bay gậy về bến Chí Linh;
Ngày nào mới cùng nghe suối ở Côn Sơn
được?
Già rồi hay nói cuồng, đừng lạ ta
Từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ tu đạo
Thiền Thượng Thừa)(17)
( Tống tăng Ð ạo
Khiêm qui sơn )
Thiền sư Ðạo Khiêm chắc
chắn phải là một Thiền sư lỗi lạc ở thời sơ Lê, nhưng cũng như
bao nhiêu Thiền sư trác việt khác, họ như "nhạn quá trường
không". Nên ngày nay ta không còn tìm thấy bất cứ một tư liệu
nào nói về họ. Sở dĩ ta có thể kết luận Ðạo Khiêm là vĩ đại bởi
lẽ một người như Nguyễn Trãi, một bậc anh hùng vừa lãnh đạo
giải phóng đất nước ra khỏi cảnh nô lệ lại nhà một nhà tư
tưởng, một thi sĩ lớn của thời đại thì không thể kết bạn với
những vị sư bình thường như mọi nhà sư khác được.
Bài thơ ghi lại cuộc đời
của một người đã giải phóng mọi hệ lụy của cuộc sống và
cũng nói lên sự khao khát một ngày nào đó
tác giả cũng đến được chân trời tự do ấy. Nhưng dường như vẫn có
một chút ngậm ngùi trong đó, hay đúng hơn là tự trách
mình sao lại còn quá nhiều ràng buộc với cuộc đời
đến như vậy:
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
(Già rồi hay nói cuồng, đừng lạ ta )
Tuy nhiên, khi đứng
nhìn người bạn của núi rừng khuất sau rặng núi rồi, tâm hồn
Nguyễn Trãi lại bồi hồi xúc động và
tự hứa với chính mình rằng:
Lâm kỳ ngã diệt Thượng Thừa Thiền
(Từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ tu đạo
Thiền Thượng Thừa)
Có một số nhà nghiên
cứu về Nguyễn Trãi nói rằng, câu trên chứng tỏ Nguyễn Trãi đã
"ngộ" (Satori) theo cách gọi thông dụng của Thiền.
Nguyễn Trãi có ngộ
Thiền hay không? Có lẽ vấn đề ấy ngoài sự phán xét của chúng ta.
Nhưng có những bài thơ mà đọc vào ta thấy Nguyễn Trãi đã đạt
đến một tiến trình tâm linh rất cao, như bài sau đây
chẳng hạn:
Ðoản trạo hệ tà dương
Thông thông yết thượng phương
Vân quy Thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương.
Nhật mộ viên thanh cấp;
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàng vương
( Mái chèo ngắn buộc trong bóng xế
Vội vàng lên chùa lễ Phật
Mây kéo về làm lạnh giường Thiền
Hoa rụng xuống khiến dòng suối thơm.
Chiều hôm tiếng vượn kêu rộn
Núi trống bóng trúc dài ra;
Trong cảnh ấy thật có ý
Ta muốn nói ra bỗng lại quên lời )
( Tiên Du tự )
Chừng như một mình
trong núi vắng vẻ, nhìn bóng trúc ngả dài theo bóng chiều,
Nguyễn Trãi như chợt nhận ra chân ảnh của chính mình vừa thoáng
hiện về từ những tiền kiếp xa xôi?
Qua bài thơ trên, ta
tuyệt nhiên không còn thấy nỗi sầu tê tái chất chứa trong hồn
của những buổi chiều xa xưa, hay những đêm nằm nghe tiếng mưa
rơi mà bàng hoàng trước vũ trụ mênh mông, xa lạ và lạnh lùng,
rồi xót xa cho thân phận bi thảm của chính mình:
Lão ngã thế đồ nan hiểm thục
Trung tiêu bất mị độc thương tình
( Ta đã
già trên đường
đời, nỗi gian hiểm đều thuộc cả
Giữa đê m
không ngủ, một mình xót thương )(18)
( Tầm Châu )
Bài thơ sau đây mới nói
lên tất cả những gì tinh hoa nhất của một dân tộc đã thấm nhuần
tư tưởng Bát Nhã của Phật Giáo. Nói theo thiền sư Huyền Quang
đời Trần thì dân tộc ấy lúc nào cũng:
Khuya sớm sáng chong đèn Bát
Nhã, hôm mai rửa sạch nước Ma Ha:
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén, Bụt làm lòng.
Chiều mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không
( Cây Mộc Cẩn )
Ta tưởng tượng khi làm
4 câu thơ ấy, Nguyễn Trãi đang đi
dạo trên một con đường quê thấy bụi dâm bụt mọc cạnh hồ
nước bên vệ đường, thi nhân đứng
lại xem. Không ngờ đó cũng là lúc Nguyễn Trãi chợt "ngộ"
ra rằng, tất cả tam thiên đại thiên thế giới, tất cả càn khôn vũ
trụ, hay tất cả những sự phân biệt của ý thức nhị nguyên như:
"Sách và không, thường và vô thường, luân hồi và Niết Bàn, sát
na và vĩnh cửu, đau khổ và hạnh phúc", đều
nằm gọn trong đóa dâm bụt “chiều mai nở chiều hôm rụng” này.
Nếu thi hào Nguyễn Du
ở thế kỷ 18 đã có lần nói rằng:
Ngã độc Kim Cang thiên biến linh
( Ta đã đọc kinh Kim Cang hơn cả
ngàn lần )
Thì Nguyễn Trãi ở thế
kỷ 15, qua 4 câu thơ Nôm trên, ta đoán là Nguyễn Trãi có thể
cũng đã trì tụng một ngàn lần hoặc hơn thế nữa.
Với Ngô Thì Nhậm có lẽ
cuộc đời tương đối bằng phẳng hơn
Nguyễn Trãi, nên ta thấy cuộc hành trình đi tìm kiếm một
quê hương tâm linh cũng ít gian nan hơn. Tất nhiên, ngoại trừ
những năm cuối đời, nghĩa là
sau khi Nguyễn Huệ mất, ông không còn chỗ dựa vững chắc để
đem hết tài hoa của mình ra mà phục vụ cho Tổ quốc nữa.
Ngô Thì Nhậm vốn sanh
ra trong gia đình có truyền thống
cực đoan về Khổng giáo, cực đoan đến nỗi Ngô Thì Sỹ đã viết một
bảng gần như lời “di chúc” để giáo dục con cái, trong đó có mấy
câu như thế này:
"Không thể cầm cày bừa
Không thể làm họ Lão, họ Thích"(19)
Chỉ đến cuối đời thì
Ngô Thì Sỹ mới bỏ bớt cực đoan, và
bắt đầu hướng về Phật Giáo và tự xưng là Nhị Thanh Cư Sỹ
trong bài Ký động Nhị Thanh ông viết: "Ðạo chỉ có một.
Phật và Lão và tên khác thôi. Thực ra cũng là Nho cả".
Ngô Thì Nhậm cũng đứng
trên lập trường ấy của cha để giải thích Phật Giáo. Nhưng có hai
câu thơ mà có lẽ Ngô Thì Nhậm đã làm trong lúc ông lánh nạn để
tránh cảnh tranh giành giữa các phe chúa Trịnh ở Thăng Long, thì
ta có thể thấy là chính Phật Giáo mới là nơi để Ngô Thì Nhậm trở
về để an thân lập mệnh chứ không phải Nho Giáo.
Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên
Kim thu thôn tự nhất tham Thiền
( Bấm đốt ngón tay tính ra phiêu bạt đã năm năm nay
Mùa thu này lại tìm đến một ngôi chùa làng
để tham Thiền)(20)
Bài thơ sau đây của Ngô
Thì Nhậm, có lẽ là kết quả của những năm dài đến tu Thiền tại
ngôi chùa ở một làng quê vắng vẻ gần kinh thành Thăng
Long chăng?
Thủy bản vô thanh, khướt hữu thanh
Thanh oanh giang thượng vị thùy minh?
Trường lưu thuận chú nguyên thường tĩnh
Ðoạn thạch hoành lan nãi bất bình.
Ngạnh vị khứ thời ưng hữu nộ,
Lượng năng vô xứ tiện vô tranh.
Thái hòa quân tử tu tiềm hội
Thấu triệt ngân hoa đáo để minh
( Nước vốn không có tiếng mà lại có tiếng
Vì đâu dậy
sóng đùng đùng trên sông?
Thuận dòng chảy xuống vẫn thường im lặng,
Có hòn đá chắn ngang liền sanh bất bình.
Chưa cuống bỏ được vật chướng ngại, tất phải nổi giận,
Chỗ nào cương có thể chứa thì không tranh
giành.
Người quân tử phải trầm lặng mà thể hội
cái lẽ thái hòa
Ánh bạc của nước, trong suốt đến tận đáy )(21)
Ngô Thì Nhậm đã từng
phát biểu rằng: “Chân thánh không
cần đội mũ nhà Chu, chân Nho không cần đội mũ nhà Nho,
chân Thiền không cần mặc áo cà sa"(22)
Câu trên mang âm hưởng
câu chuyện quan trọng trong Trung bộ Kinh (Majjihima – Nikaya)
của Phật Giáo:
"Một hôm Ðức Phật ở
lại đêm trong xưởng một người thợ làm đồ
gốm. Cũng trong xưởng ấy có một ẩn sĩ trẻ tuổi đến đấy trước Ngài.
Họ không biết nhau. Ðức Phật quan sát người ẩn sĩ và tự nhủ:
"Thanh niên này có những cử chỉ ngộ thay. Ta nên hỏi xem về
người này". Bởi thế Ðức Phật liền hỏi:
"Hỡi bạn, nhân danh ai
mà bạn đã từ bỏ gia đình? Ai là thầy của bạn? Bạn thích lý
thuyết của ai?"
Chàng ẩn sĩ trẻ tuổi
đáp: "Ồ bạn ơi, có ẩn sĩ Cồ Ðàm dòng họ Thích Ca, đã từ bỏ gia
đình để trở thành một ẩn sĩ. Người ta đồn
rằng đó là một vị A La Hán (Arahant), một bậc Toàn Giác,
chính nhân danh con người thánh thiện ấy mà tôi đã trở thành một
ẩn sĩ. Người là thầy của tôi và tôi thich lý thuyết của Người".
- Vậy chớ con người thánh thiện ấy, vị A La
Hán, đấng Toàn Giác ấy bây giờ đang ở đâu?
- Ở các xứ về phương
Bắc, hới bạn có một đô thị gọi là Xá Vệ (Sàvatthi) chính
đấy là nơi đấng
Thế Tôn, vị A La Hán, đấng Toàn Giác đang ở.
- Bạn có khi nào thấy
vị ấy chưa? Ðấng Thế Tôn ấy? Nếu gặp Người, bạn có thể nhận ra
Người ấy hay không?
- Tôi chưa bao giờ
thấy Ðức Thế Tôn ấy. Nếu gặp Người tôi cũng sẽ không làm sao
nhận ra được.
Ðức Phật nhận ra rằng
chính nhân danh Ngài mà người thanh niên xa lạ này đã từ bỏ gia
đình và trở thành một ẩn sĩ. Nhưng vẫn không để lộ tông tích,
Ngài bảo:
- Hỡi ẩn sĩ, tôi sẽ
giảng cho bạn lý thuyết, hãy chú ý lắng nghe. Tôi sẽ nói.
- "Ðược bạn nói đi",
người trẻ tuổi chấp thuận.
Khi ấy Ðức Phật giảng
dạy cho người thanh niên bài thuyết pháp đặc sắc nhất về chân
lý.
Chỉ sau khi Ngài
thuyết pháp xong, người ẩn sĩ tên là Pukkusàti, mới nhận ra rằng
người nói với mình chính là Ðức Phật, người thanh niên cúi thấp
mình dưới chân Ðức Phật, và xin lỗi với Ngài vì đã không biết và
đã gọi Ngài là "bạn".
Qua câu chuyện trên ta
thấy rõ là khi Pukkusàti lắng nghe Ðức Phật và lãnh hội được
giáo pháp của Ngài, anh không hề biết Người đang nói với mình là
ai, hay đấy là giáo lý của ai. Anh ta tìm thấy chân lý, chỉ có
vậy, mọi nhãn hiệu đều phụ thuộc. Ngay cả nhãn hiệu Phật Giáo mà
ta đặt cho giáo lý của Ðức Phật cũng không mấy quan hệ. Cái tên
mà ta
đặt cho Phật là điều không thiết yếu “. ( Con đường thoát khổ –
Trí Hải dịch ).
Trong tinh thần không
cần nhãn hiệu Nho Giáo hay Phật Giáo đó, ta có thể giải thích
bài thơ trên của Ngô Thì Nhậm như thế nào?
Có lẽ ta phải hiểu như
thế này: nếu là một bậc Trượng Phu quân tử của Nho Giáo thì
"phải trầm lặng mà thể hội lẽ thái hòa của Trời Ðất". Còn nếu là
một Thiền sư của Phật Giáo thì khi đi sau vào Thiền Ðịnh sẽ trực
nhận được rằng:
Chư pháp tùng bổn lai,
Thường tự tịch diệt tướng
( Các pháp xưa nay
Thường tự vắng lặng )
Như hai câu kệ mà Kinh
Pháp Hoa đã mô tả.
Và đây là một bài thơ
khác nữa của Ngô Thì Nhậm. Bài thơ nói lên cái thấy của ông về
bản thể của vũ trụ, bản thể ấy vốn u huyền, lặng lẽ, nghĩa là
"nguyên thường tĩnh" nhưng đồng thời nó cũng "nguyên thường
động" cũng có nghĩa là rất lưu dộng, và biến thiên cùng khắp:
Càn khôn diệu ý bất thăng cùng
Vạn tượng thiên nghi vãn chiếu trung
Cao xứ sơn hoàng đê xứ thúy,
Tả biên thùy bích hữu biên hồng.
Ẩn ngư lân lập than đầu hỏa,
Quy điểu hà n
sinh mộc mạc phong.
Cánh hữu nhất ban thanh ý vị
Tùng lâm y ước sổ thanh chung
( Cái diệu ý của trời đất nói sao cho xiết
Muôn vạn hình tượng hòa hợp trong bóng
chiều
Chỗ cao thì núi vàng, chỗ thấp thì màu
biếc
Phía bên trái nước biếc, phía bên phải màu
đỏ.
Cá lặn chầu vây như ánh lửa đầu ghềnh
Chim về tổ vẫy cánh sinh gió trên ngọn cây
Lại còn có một ý vị trong trẻo hơn nữa:
Tiếng chuông chùa văng
vẳng điểm nhịp trong rừng thông)(23)
( Lệ giang vãn điếu )
Với Nguyễn Trãi có lẽ
ông làm thơ là vì sự rung động của
trái tim mỗi khi có đau khổ hoặc một niềm vui nhiều hơn là
muốn dùng thi ca để diễn tả tư tưởng hoặc triết lý. Mặc dù không
chính thức nhận mình là Thiền sư, nhưng trong thơ của Nguyễn
Trãi thì tư tưởng Phật Giáo ảnh hưởng mạnh mẽ hơn là tư tưởng
Khổng Giáo. Còn Ngô Thì Nhậm thì thi ca được xem như là phương
tiện để ông diễn đạt những suy tư
của ông về tư tưởng và triết lý. Và dù chính thức tự nhận
là Thiền sư (Hải Lượng) nhưng tư tưởng Khổng Giáo trong thơ văn
của ông có phần lấn lướt hơn là tư tưởng Phật Giáo.
Nhưng dù có khác nhau
đôi chút như vậy, nhưng trong thi ca của họ thì chỉ có hình ảnh
của những ngôi chùa giữa núi non tịch mịch hay trong thôn làng
vắng vẻ của quê hương đất nước mà thôi, chứ ta không hề thấy có
bất cứ một bài thơ nào ghi
lại những cảm xúc của họ về các văn miếu
hoặc những nơi thờ tự Khổng Tử cả.
Như vậy ta có thể kết
luận được là, tư tưởng Khổng Giáo chỉ tồn tại trong lý trí của
họ chứ chưa đi vào được trong tình
cảm, trong khi Phật Giáo thì đã chiếm trọn vẹn trái tim tình cảm
không chỉ Nguyễn Trãi mà còn cả Ngô Thì Nhậm nữa.
III.
Khi gặp Trần Thái Tông
trên đỉnh núi Yên Tử, quốc sư Trúc Lâm đã nói với nhà vua như
thế này:
"... Trong núi vốn
không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó
chính là chân Phật. Nay nếu bệ hạ
giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không cần khổ
công tìm kiếm bên ngoài"
Khi thấy vị vua trẻ
tuổi đang đau khổ muốn vứt bỏ ngai vàng như vứt “đôi dép rách”
nà y còn đang phân vân lưỡng
lự, thì vị Thiền sư "xương gầy, mặt vẽ, ăn
rau đắng, nếm trái cây, chơi cảnh rừng, uống nước suối, lòng
như mây nổi" liền nói tiếp:
"Phàm đã là bậc nhân
quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình. Lấy
tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay muôn dân đã
muốn đoán bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được! Duy có việc
nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng
chút xao lãng mà thôi" (24).
Không còn hồ nghi gì
nữa, chính hai câu nói đó của Quốc
sư Trúc Lâm đã là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ cho vương
triều Trần. Một triều đại mà tất cả sử gia dù thích hay không
thích Phật Giáo đều phải thừa nhận là độc
đáo nhất trong lịch sử 2000 năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc.
Vậy là nỗi phân vân
giữa "nhập thế" và "xuất thế" của các sĩ phu mà hầu hết đều xuất
thân từ "cửa Khổng sân Trình" đã được vị
Thiền sư vốn được nuôi dưỡng từ truyền thống tinh thần của Kim
Cang Bát Nhã, Duy Ma, Hoa Nghiêm, Thắng Man của Ðại Thừa
Phật Giáo đã tóm tắt lại chỉ trong hai câu ngắn gọn nhưng vô
cùng súc tích đã giải quyết được
vấn đề trọng đại ấy một cách dứt khoát và triệt để.
Trong bài Phú Cư
Trần Lạc Ðạo, người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
là vua Trần Nhân Tông cũng đã mở đầu bằng hai câu:
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
( Hội thứ nhất )
Nghĩa là xưa nay ai
cũng cứ nghĩ rằng phải bỏ tất cả để vào rừng núi thì mới đúng
nghĩa là đi tu, còn thành thị vốn được xem là nơi tranh giành
lợi danh của người thế tục. Nhưng qua hai câu này, Trần Nhân
Tông đã định nghĩa lại rằng, nếu một người ở thành thị, nhưng
làm việc hết mình vì sự an lạc của mọi người, bằng cái tâm trong
sạch nghĩa là làm việc với cái tâm không lợi không danh, không
đem lại lợi lộc về riêng cho bản thân mình, thì nhất định
kẻ ấy đã ở trên núi rừng rồi. Vì núi rừng là gì? Chẳng
phải núi rừng là nơi tiêu biểu cho sự thanh khiết và trong sạch
đó hay sao?
Bởi vậy Trần Nhân Tông
khẳng định tư tưởng nà y một
lần nữa rằng:
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết sức
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật cả đồ công
( Hội thứ 3 )
Hơn ai hết, Trần Nhân
Tông có thẩm quyền để nói như vậy, vì Trần Nhân Tông đã
từng làm vua, mà lại không phải một ông vua như bao nhiêu ông
vua tầm thường khác. Một ông vua đã đích
thân cầm quân đánh tan hai cuộc xâm lăng của đế quốc Nguyên
Mông, một đế quốc mà từ Ðông sang Tây, từ AÂu sang Á phải
run sợ mỗi khi nhắc đến. Một ông vua
đã đưa dân tộc từ một đất nước đã tan nát vì hai cuộc
chiến tranh trở thành một đất nước hùng mạnh, không phải chỉ
hùng mạnh trên phương diện quân sự không thôi mà trên tất cả mọi
phương diện khác nữa, nhất là phương diện văn học.
Tại Việt Nam, sau bao
nhiêu thập niên cố tình xuyên tạc cố tình kết án dòng văn học ấy
là gieo rắc sự bi quan, tiêu cực, yếm thế, nhưng dòng văn
học ấy đã không hề bị quên lãng mà vẫn tiếp tục âm thầm
nuôi dưỡng tinh thần cho những người con ý thức nhất của dân
tộc, giữa một dòng văn học hoàn toàn vắng bóng tình người. Một
dòng văn học chỉ biết “mạt sát”
hoặc “đề cao” mà thôi. "Mạt sát" những gì mà họ thấy là
có hại cho sự "độc quyền" và "đề cao" những gì mà họ nghĩ là có
lợi cho sự "độc quyền” ấy, chứ
không phải đứng trên tinh
thần khách quan để “mạt sát” hoặc “đề cao”. Khi một dòng văn học
mà chỉ biết lấy sự tuyên truyền ý thức hệ làm cứu cánh
thì tất nhiên dòng văn học ấy phải vắng bóng tình người và cả
tình nhân loại nữa, dòng văn học ấy
đến lúc phải trở thành lỗi thời, nhất là khi thấy đã đến
lúc phải đứng cùng với thế giới văn minh và tiến bộ của
loài người. Ðặng Thái Mai, trong bài
Mấy điều tâm đắc trong khi đọc lại
văn học của một thời đại
đã phải xác nhận lại rằng, nền văn học đời Trần đã ảnh hưởng một
cách tốt đẹp đên đời sống xã hội thời ấy như thế này:
"Bảo là đời sống hồi
này là một đời sống “tự do”, một
đời sống hoàn toàn "bình đẳng" thì e quá. Nhưng tôi thiết
tưởng rằng đời sống xã hội phong kiến thời này còn những ngày dễ
chịu, vui ve, gần gũi với nhau thì cũng không phải là ngoa. Ðây
là tâm lý chung của thời đại: vui
độc lập tự chủ của dân tộc. Hồi ấy người ta biết sống, biết sống
trong tình thân, trong vui vẻ, trong tin tưởng" (25)
Muốn có được một xã hội
tương đối lý tưởng ấy, Trần Nhân Tông dù đang là
một vị tổ sư khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử vẫn không chủ
trương "độc quyền" tôn giáo của mình mà đã thực hiện đúng tinh
thần của Phật Giáo là tự do, bình đẳng với mọi trào lưu tư tưởng
đương thời khác, khi Trần Nhân Tông viết:
Sạch giới lòng, dồi giới tướng
Nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm.
Ngay thờ Chúa, thảo thờ cha
Ði đỗ mới trượng phu trung hiếu
( Hội thứ 6 )
Vậy là không chỉ mẫu
người Bồ Tát trang nghiêm của Phật Giáo không thôi, mà Trần Nhân
Tông còn kết hợp cả mẫu người lý tưởng trượng phu quân tử, tức
là mẫu người lý tưởng của Nho giáo. Nhưng thế nào là mẫu người
trượng phu quân tử? Mạnh Tử đã định nghĩa như thế này: "Phú quý
bất năng dâm, bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” ( Giàu
sang không thể mê hoặc, nghèo hèn không thể lay chuyển, uy vũ
không thể khuất phục, đó gọi là Ðại Trượng Phu).
Ðối với mẫu người Bồ
Tát trang nghiêm theo lý tưởng Phật Giáo thì theo Trần Nhân Tông
phải là:
Dựng cầu đò ,
dồi chiền tháp
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỷ xả, nhuy ễn
từ bi
Nội tự tại kinh lòng hằng đọc
( Hội thứ tám )
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát thì:
"Thế rõ ràng con người Trượng Phu và con
người Bồ Tát phải kết hợp với nhau thành con người Phật Giáo của
Thiền Trúc Lâm" (25).
Còn một sự kiện quan
trọng nữa đã diễn ra trong buổi lễ Trần Nhân Tông trao truyền y
bát cho Pháp Loa làm tổ thứ 2 của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử,
được ghi lại trong Tam Tổ thực lục, mà có lẽ ít người lưu
ý tới, buổi lễ diễn ra một cách trang trọng như thế này:
"Vào tháng 5, Ðiều Ngự
lên ở am tại đỉnh núi Ngọa Vân.
Ngày rằm Bố Tát xong, đuổi tả hữu ra, đem y bát và viết
tâm kệ giao cho Sư, bảo phải giữ gìn. Ngày mùng một tháng giêng
năm Mậu Thân Hưng Long thứ 16 (1308) Sư vâng lệnh làm trụ trì
nối dòng Pháp ở Cam Lộ Ðường và làm lễ trao truyền,
vua cho đặt bài vị của liệt tổ, tấu đại nhạc, đốt hương thơm,
đánh trống Pháp, tập hợp đại chúng lên Pháp đường. Bấy giờ vua
Trần Anh Tông xa giá đến chùa. Sau khi đặt ngôi chủ khách xong,
vua Trần Anh Tông vì là đại
thí chủ của Phật Pháp đứng vào ngôi
khách ở Pháp đường, thượng tế Trần
Quốc Trấn đem bá quan đứng ở dưới sân. Ðiều Ngự lên tòa
thuyết pháp. Giảng xong, bèn đi
xuống đỡ Sư lên tòa. Ðiều Ngự đứng
chấp tay hỏi han, Sư đáp lễ xong nhận Pháp y mặc vào.
Ðiều Ngự bèn bước sang một bên, ngồi trên giường Khúc Lục, nghe
Sư thuyết pháp. Ðem chùa Siêu Loại của sơn môn Yên Tử sai Sư
thừa kế trụ trì, làm đời thứ 2 của dòng Trúc Lâm. Lại đem
Ngoại thư kinh sử 100 hộp và Ðại tạng 20 hộp nhỏ (...) để mở
rộng việc học nội và ngoại điển" (26).
Vậy là Trần Nhân
Tông không chỉ trao 20 hộp kinh đựng Ðại tạng Phật Giáo
thôi, mà còn trao cho Pháp Loa 100 hộp kinh sách của các tôn
giáo khác, trong đó chắc chắn phải
có các tác phẩm của các tác giả Trung Quốc nữa, một nước được
xem như kẻ thù không đội trời chung của nước Ðại Việt, mà
gần nhất là đã 2 lần đem quân xâm
lăng và đã bị Trần Nhân Tông đánh đuổi ra khỏi bờ cõi.
Vậy mà Trần Nhân Tông vẫn di chúc cho người kế thừa của mình
phải học hỏi và phổ biến nền văn hóa ấy trong chính dòng Thiền
của mình.
Trần Nhân Tông sinh
1258 và mất 1308, tức là thế kỷ thứ 13, thế kỷ mà lịch sử AÂu
Châu đang ở trong thời kỳ Trung Cổ. Thời kỳ mà ngoại trừ một số
nước ở Tây AÂu ra, còn tất cả các vùng thuộc Trung AÂu thì đang
chìm ngập trong bóng tối dày đặc. Nông nô quằn quại dưới ách
thống trị của các lãnh chúa, đặc biệt là học thuật tư tưởng đều
bị bóp chết, không có điều kiện để nảy nở. Tiếp đến là thế kỷ
16, năm 1542 Giáo Hoàng Paul đệ tam tái lập tôn giáo Pháp đình,
để bài trừ tự do tư tưởng. Ðến Giáo Hoàng Paul đệ tứ
(1559 – 1565), thì càng khủng khiếp hơn nữa, không chỉ dùng lửa
để hủy hoại phong trào cải cách thôi, mà Paul đệ tứ còn muốn bóp
chết luôn cả khoa học và triết học nữa. Rồi đến
năm 1559 thì sách vở được đem ra chất từng đống để đốt. Chính
trong thời gian này, nhà khoa học Galilee bị hạ nhục và
Bruno bị thiêu sống. Ðây là một vết nhơ nhục nhã trong lịch sử
truyền giáo của Thiên Chúa giáo vậy.
Vậy mà Trần Nhân Tông,
vị hoàng đế và Thiền sư của nước Ðại Việt vào thế kỷ thứ 13 đã
chủ trương tự do tư tưởng, tự do tôn giáo một
cách triệt để và dứt khoát bằng cách trao cho đệ tử kế thừa của
mình một 100 hộp kinh sách ngoại điển, nghĩa là không chỉ
học giáo pháp của Phật Giáo mà phải học và nghiên cứu các tôn
giáo khác nữa, kể cả nền văn hóa và nghệ thuật của ngoại bang,
dù nền văn hóa của nước đã đô hộ và
xâm lăng đất nước của chính mình.
Chính vì thế mà nước
Ðại Việt sau đời Trần, thời kỳ mà các sử gia gọi là thời "độc
tôn Nho giáo" thì tư tưởng của Trần Nhân Tông được thể hiện cụ
thể nhất qua Cư Trần lạc đạo Phú
vẫn tiếp tục duy trì và phát triển một cách mạnh mẽ. Có lẽ không
có một sử gia nào có thẩm quyền hơn là sử gia Lê Mạnh Thát trong
việc xác nhận ảnh hưởng này:
"... Có thể nói
Cư Trần lạc đạo Phú là
một bản tuyên ngôn của con đường
sống đạo, mà Phật Giáo Việt Nam đã
đề ra và đã chi phối cuộc
sống của hàng triệu người Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân
Tông và những thế kỷ sau. Nó cũng là một trong số ít tác phẩm
quyền uy, khi Thiền sư Chân Nguyên trình bày những vấn đề Phật
Giáo cho vua Lê Chánh Hòa vào khoảng năm 1692 trong Kiến Tánh
thành Phật lục" (27).
Và " trong vòng 300 năm
trở lại đây, Cư Trần lạc đạo Phú và Ðắc thú Lâm
tuyền thành đạo ca được in
nhiều lần. Ðiều này chứng tỏ
Cư Trần lạc đạo Phú
vẫn tiếp tục được học tập và
truyền bá dù Phật Giáo cũng như đất nước
đang chuyển mình qua một giai đoạn mới. Giá trị lý luận của
Cư Trần lạc đạo Phú, từ đó vẫn có sức hấp dẫn mạnh mẽ, đặc
biệt là vào cuối thế kỷ 18 với những chiến công Ngọc Hồi,
Ðống Ða oanh liệt của quân và dân Tây Sơn, trong đó nổi bật nhất
là những gương mặt Phật tử tự nhận mình là người kế thừa truyền
thống Trúc Lâm như binh bộ thượng thư tỉnh Phái Hầu Ngô Thì Nhậm
tức Hải Lượng Thiền sư, hương lĩnh bá tiến sĩ Nguyễn Ðăng Sở là
Hải AÂu Thiền sư..." (28).
Chính vì thế mà ta cũng
chẳng lấy gì làm lạ, khi Nguyễn Trãi vốn học Nho từ thời còn
niên thiếu, đã nhận ra rằng Nho giáo không những đã không giải
quyết nổi những vấn đề cho bản thân của mỗi người mà còn cho cả
giấc mộng kinh bang tế thế của mình nữa:
Thanh niên phương dự ái Nho lâm
Lão khứ hư danh phó mộng tầm.
Trượng sách hà tòng quy Hán thất;
Bảo cầm không tự tháo Nam âm.
( Lúc tuổi xanh tiếng thơm sực nức rừng
Nho
Già rồi, để mặc cho chiêm bao đi tìm cái
danh suông.
Chống roi ngựa làm gậy biết đâu tìm nhà
Hán
Ôm đà n
cuống gãy điệu phương Nam )(29)
( Mạnh thành 1 )
Và thốt lên một cách đau
đớn rằng:
Ta dư cửu bị Nho quan ngộ
( Thân ta bị cái mũ nhà Nho đánh
lừa đã lâu ) (30)
( Ðề từ trọng phủ canh ẩn đường )
Từ cái bế tắc đó Nguyễn
Trãi đã trở về con đường mà Trần Nhân Tông đã
vạch ra trong Cư Trần lạc đạo
Phú để tìm một hướng đi
chẳng những để có thể hoàn thiện cho chính bản thân mình
mà vẫn có thể phục vụ cho đất nước
nữa chăng? Bằng chứng là vào năm 1434, sau khi thấy triều
chính nhà Lê thối nát, Nguyễn Trãi xin về trí sĩ. Sau đó bị
triệu ra làm quan trở lại, Nguyễn Trãi đã viết bài
Biểu tạ được bổ lại chức
tạo chùa Tư Phúc ở Côn Sơn. Bài biểu mở đầu:
“Vĩnh lộc đại phu, kiêm hàn lâm viện thừa trí học sĩ, tri
tam quán sự, đề cử ở chùa Tư Phúc tại Côn Sơn, tử quốc tính tôi
là Lê Trãi kính cẩn dâng lời rằng ... " (31)
Ðọc các tư liệu như
Cương Mục, Toàn Thư, thì ta được biết chùa Tư Phúc là do Pháp
Loa, đệ nhị tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sáng lập. Vậy chắc
chắn Nguyễn Trãi là người thuộc dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Còn Ngô Thì Nhậm thì
sau khi chính sự triều đình
Tây Sơn xuống dốc và tư tưởng Nho Giáo lúc này đã lung lay đến
tận gốc rễ, không còn áp dụng được vào thức tế của đời sống nữa,
thì vào khoảng năm 1798 Ngô Thì Nhậm quay về mở Trúc Lâm Thiền
viện tại phường Bích Câu (gần văn miếu Hà
Nội hiện nay). Nơi đây, Ngô Thì
Nhậm đã kính cẩn ghi lại Tam tổ hành trạng (tức
hành trạng của 3 vị tổ Thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông,
Pháp Loa và Huyền Quang), đồng thời biên soạn Trúc Lâm Tông
Chỉ Nguyên Thanh, tự nhận là Hải Lượng Thiền sư, kế thừa
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên
Thanh, ta thấy Ngô Thì Nhậm đã cố đem
ánh sáng của tư tưởng Phật Giáo để rọi sáng cho ý thức hệ Nho
giáo, hầu mong giải quyết những vấn đề thực tiễn mà xã
hội cuối thế kỷ 18 đã đặt ra, mà Nho giáo
đã không giải quyết được (32)
Vậy là Nguyễn Trãi ở
thế kỷ 15 và Ngô Thì Nhậm ở thế kỷ 18, hai khuôn mặt lỗi lạc
nhất của thế kỷ 15 và hậu bán thế kỷ 18 đã cùng leo lên đỉnh núi
Yên Tử. Thế có nghĩa là cả hai đều
nhận ra rằng chỉ có con đường mà Trần Nhân Tông, vị tổ
khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã vạch ra là con đường
thực tiễn nhất để giải quyết sự mâu thuẫn và giằng co giữa hai
con đường là thành tựu tâm linh cho chính mình mà vẫn
phụng sự được
cho đất nước hay cho cả mọi sinh linh đang quằn quại trong đau
khổ nữa.
Và đây là bài thơ của
Nguyễn Trãi đã làm khi đã leo lên đến
đỉnh cao núi Yên Tử:
Yên sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đà m
nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không.
Nhân miếu đương niê n
di tích tại
Bạch hào quang lý đỗ trùng đồng
( Núi Yên Tử cao nhất trên dãy núi
Mặt trời đỏ rừng đầu trống canh năm
Phỏng mắt trong vũ trụ trong suốt ngoài
biển xanh
Tiếng người cười nói trong mây biếc
Trước cửa hộ vệ có nghìn mẫu giáo ngọc
xum xuê (trúc)
Ðã rủ những tua hạt châu rơi xuống lưng
chừng không.
Di tích vua Trần Nhân Tông còn đó mãi
Giữa bóng sáng lông mày trắng được
thấy trong đôi mắt (trùng đồng )(33)
( Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự )
Bài thơ nói lên cảnh
trí hùng vĩ của núi non Yên Tử mà cũng là sự lẫm liệt kỳ vĩ của
dòng Thiền đặc biệt của dân tộc Việt Nam do Hoàng Ðế kiêm Thiền
Sư Trần Nhân Tông sáng lập.
Dòng Thiền này đã soi
đường cho lịch sử của dân tộc từ 7 thế kỷ qua. Bởi vậy, chúng ta
có quyền hy vọng rằng, dòng Thiền Trúc Lâm cũng sẽ soi sáng tâm
thức không những chỉ cho Phật Giáo Việt Nam mà còn cho toàn dân
tộc Việt Nam trong thế kỷ mới này nữa.
Nha Trang, cu ối
năm Tân Tỵ
tháng 01/ 2002
Chú thích :
(I) Nguyễn Trãi toàn tập
NXB KHXH, Hà Nội 1976
tr. 364, (2) tr. 281, (3) tr. 22, (4) tr. 18, (5) tr. 19, (8)
tr. 77
(12) tr. 330, (13) tr. 266, (15) tr. 346, (16) tr. 352, (17) tr.
373
(18) tr. 380, (29) tr. 365, (30) tr. 340
Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tập 2. Nhiều tác giả
NXB TP. HCM 1999
(6) tr. 50 – 51, (7) tr. 50, (25) tr. 212
Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn của Mai Quốc Liên
NXB Thông tin văn hóa Nghĩa Bì nh
(9) tr. 91, (10) tr. 97 – 98, (11) tr. 178, (14) tr. 187, (19)
tr. 25
(20) tr. 68, (21) tr. 189, (22) tr. 113, (23) tr. 190
Thơ văn Lý Trần, tập 2
NXB KHXH, Hà Nội 1983
(24) tr. 28 – 29
Toàn tập Trần Nhân Tông của Lê Mạnh Thát
NXB TP. HCM, năm 2000
(25) tr. 312, (26) tr. 311, (27) tr. 271, (28) tr. 271
Nguyễn Trãi sinh thức và hành động của Võ Văn Ái
NXB Quê Mẹ, Paris 1992
(31) tr. 153, (33) tr. 231
Thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập
1
NXB KHXH, Hà Nội 1978
(32) tr. 10
|