Vô hữu
khủng bố
Bầy
chim sẻ lại sà xuống, xúm xít quanh đĩa bánh mì vụn. Tiếng chíu chít
làm rộn cả vườn sau như lời chào một bình minh rạng rỡ buổi tàn
xuân. Một bình trà buổi sáng mùa xuân, nắng ấm. Bầu trời trong xanh,
chỉ gợn vài đám mây mỏng. Hương thơm của nhiều loài hoa trong vườn
tỏa nhẹ. Bầy chim sẻ vô tư, không sợ hãi, vừa ăn vừa trò chuyện tíu
tít, nhảy nhót lăng xăng bên cạnh một người ngồi bất động.
Chẳng có gì mà phải sợ hãi. Tôi vẫn thường tự nhắc mình như thế.
Nhắc bằng sự ám thị, có khi bằng một câu kinh, một đoạn kinh, hay
một bài kinh ngắn. Thường xuyên nhất là một đoạn trong Bát-nhã Tâm
kinh. “Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn
ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết-bàn…” Thực sự là chẳng có
gì đáng phải sợ hãi nếu tâm không còn vướng mắc, ngăn ngại.
Ấy thế mà trên thực tế đời sống, vẫn còn rất nhiều điều làm cho mình
phải sợ, hay đúng hơn là e ngại, muốn né tránh, muốn được yên. Nhưng
những vị thầy của tôi thì không sợ hãi.
Một thời, hàng chục triệu người phải im hơi lặng tiếng, cúi đầu tuân
phục trước bạo lực, hàng trăm ngàn người phải bó tay trong các trại
lao cải, hàng triệu người khác đã ùn ùn rời bỏ quê hương, hoặc lặng
lẽ vượt thoát trên những chiếc thuyền lớn-nhỏ, thì những vị thầy của
tôi, đứng dậy, cất lên tiếng nói của lương tri, của lẽ phải. Rồi họ
đi tù, mang án tử hình, chung thân khổ sai, hoặc nhiều năm cấm cố.
Những vị thầy khác, để bảo vệ Phật giáo, người thì cứng rắn, một mực
duy trì cơ cấu và danh xưng của tổ chức truyền thống, người thì nhu
thuận chấp nhận sinh hoạt trong một tổ chức bị giới hạn bởi thế
quyền. Cứng rắn thì bị lưu đày, giam nhốt, quản thúc; mềm mỏng thì
bị lôi kéo, đẩy xô, mang tiếng nhục với đời. Cả hai thái độ, hai
cách hành xử ấy, đều nhằm mục đích bảo vệ Phật Pháp, đều là những
việc khó làm. Phải vượt qua được sự sợ hãi đối với cái chết, tù
ngục, khổ nhọc thân xác và tâm trí, cũng như nỗi đau nhục kéo dài
đối với dư luận, với miệng lưỡi thế gian mới có thể thực hiện được
những điều bất khả tư nghì như thế.
Mới đây, vào tháng 9 năm 2007, những vị thầy khác của tôi ở Miến
Điện, cũng đã đứng dậy, sẵn sàng đối diện với chết chóc và tù đày,
thay mặt toàn dân nói lên tiếng nói của công bình xã hội, của tự do
dân chủ, dấy lên một phong trào đấu tranh bất bạo động lan rộng trên
một đất nước lâu năm bị khống chế dưới chế độ quân phiệt. Quả nhiên,
chết chóc và tù đày đã đến với họ, những nhà sư hiền lành áo nâu.
Tiếng nói của họ bị bạo lực dập tắt thật nhanh, nhưng âm hưởng của
nó làm rung động lòng người trên toàn địa cầu.
Và trong thời gian tôi viết những dòng này, những vị thầy khác của
tôi ở Tây Tạng, một đất nước hiền hòa, linh thiêng, thơ mộng, nằm
trên chóp đỉnh của hành tinh, cũng đã và đang cất lên tiếng nói và
nguyện vọng chung của toàn dân, khiến cho cả thế giới chấn động, lên
tiếng ủng hộ. Bạo lực sắt máu đã đổ ập xuống những con người tay
không tấc sắt, những con người không bao giờ muốn tổn hại bất cứ
sinh vật nào, dù là những sinh vật bé xíu. Hàng trăm người chết và
hàng ngàn người bị bắt giam, vẫn không ngăn cản được bước tiến của
những nhà tu và phật-tử hướng về ước mơ tự do và dân chủ của họ.
Làm thế nào mà họ có thể làm được những điều người khác không dám
làm?
Chỉ nhờ ở nền tảng triết lý Phật giáo rất đơn giản này: khi vượt qua
được những rào cản của bản ngã, tâm họ hòa nhập với tâm của những
người khác, của số đông. Nhờ đó, họ không còn cô đơn; tiếng nói,
hành động và ước nguyện của họ không còn là của cá thể, mà là của
đại khối dân tộc, và trong nhiều trường hợp, là của toàn nhân loại.
Điều đơn giản như thế, nhưng không phải ai cũng làm được.
Nếu vì tham vọng cá nhân hay của bè phái thì dù mạnh dạn lên tiếng,
cũng không được sự ủng hộ của số đông, không gây ảnh hưởng lan rộng.
Nếu vì quan điểm cục bộ, thiển cận, thành kiến, thiên vị mà lên
tiếng, cũng không tác động đến lương tâm của dân tộc, chưa nói đến
lương tâm của nhân loại.
Điều đơn giản thứ hai, cũng từ nền tảng của triết lý Phật giáo, mang
tính xã hội phổ quát hơn, đó là: ý nghĩ, lời nói và hành động trung
thực. Người con Phật dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng phải giữ sự
trung thực. Ý nghĩ, lời nói và hành động trung thực, không trái
ngược mâu thuẫn nhau. Thấy sai thì nói là sai; thấy đúng thì nói là
đúng. Thấy xấu thì nói là xấu, thấy đẹp thì nói là đẹp. Thấy bất
công thì nói là bất công; thấy công bằng thì nói là công bằng. Không
vì bạo lực, khủng bố, danh vọng, quyền lợi, tư kiến và tình cảm mà
nói trái với sự thực.
Sống với tinh thần vô ngã, với sự thực, là sống với tâm thức tự do
cá nhân; trong tương tác xã hội, đó là sống trong dân chủ, công
bằng. Chỉ nhờ vậy mà những vị thầy của tôi vượt qua sự sợ hãi, có
thể với hai bàn tay không, đứng vững trước phong ba, bạo lực.
Thế nên, nhìn sâu vào cuộc đấu tranh bất bạo động của người Tây
Tạng, chúng ta thấy, những người biểu tình đòi tự do cho Tây Tạng và
chống xâm lăng đàn áp của Trung Hoa không phải lúc nào cũng thuận ý
với Đức Đạt-lai Lạt-ma, có khi còn mâu thuẫn rõ rệt. Trong khi ngài
luôn kiên trì chủ trương tự trị cho Tây Tạng thì nhiều người khác
quyết liệt đòi độc lập; trong khi ngài vẫn tôn trọng và chưa hề có ý
phản đối việc tổ chức thế vận hội Olympic 2008 tại Trung quốc thì
nhiều người chống Trung quốc đã kêu gọi tẩy chay. Một vài vụ ném đá
từ phía người biểu tình khi bị cảnh sát và quân đội Trung quốc tấn
công tàn bạo khiến Đức Đạt-lai Lạt-ma buồn lòng. Lễ châm lửa Thế vận
tại Olympic, Hy Lạp, bị số người biểu tình phản đối. Cuộc rước đuốc
Olympic ở London và Paris cũng bị ngăn trở bởi những người ủng hộ
Tây Tạng. Vài vận động viên các nước tuyên bố tẩy chay rước đuốc. Đệ
tử thân tín của Đức Đạt-lai Lạt-ma là tài tử Richard Gere cũng kêu
gọi tẩy chay Olympic 2008. Nhưng Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn luôn từ bi,
ôn tồn nói rằng chính quyền Trung quốc xứng đáng được ủy nhiệm tổ
chức thế vận hội, và trên một tỷ ba trăm triệu dân Trung Hoa cũng
xứng đáng được hưởng niềm vinh hạnh đón chào cả thế giới qua thế vận
hội này. Dù có những mâu thuẫn như thế, Đức Đạt-lai Lạt-ma không bao
giờ chê trách, ngăn cản hoặc ra lệnh cấm chỉ những biểu hiện yêu
nước nhiệt tình của giới trẻ Tây Tạng cũng như của những người ủng
hộ ngài. Ngài và các phong trào đấu tranh cho Tây Tạng luôn tôn
trọng nhau, dù cách ứng xử và quan niệm có khác. Đó là nếp nghĩ và
hành xử văn minh của sinh hoạt dân chủ.
Qua những điểm nêu trên, có thể nhìn thấy một vài sai khác nào đó
giữa người phật-tử Tây Tạng và Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho tự
do dân chủ của xứ sở mình.
Vị lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng và những người Tây Tạng
lưu vong, suốt 59 năm đất nước bị Trung quốc xâm chiếm, vẫn thường
vận động tổ chức các hội đoàn, tổ chức, công khai hoặc ngấm ngầm
thực hiện các chương trình văn hóa, giáo dục, từ thiện xã hội, nhằm
bảo vệ nền văn hóa truyền thống Tây Tạng, đối kháng trường kỳ với
chủ trương Hán-hóa của Trung quốc. Cuộc đấu tranh gian lao, khổ
nhọc, phải đổi nhiều xương máu và nước mắt, nhưng những vị thầy của
tôi nơi xứ sở ấy vẫn theo gương Đức Đạt-lai Lạt-ma, luôn giữ gìn
lòng từ bi, chủ trương đấu tranh bất bạo động, không những bất bạo
động trong hành xử và lời nói, mà còn ngay trong ý niệm: vẫn xem
người Trung quốc nhiều tham vọng, bất hảo, là “những người anh em”
trong cộng đồng nhân loại. Đối với Trung quốc, Đức Đạt-lai Lạt-ma
vẫn giữ niềm tôn trọng, chưa hề khởi tâm sân hận, chưa hề nguyền rủa
hoặc nặng lời phê phán, huống chi là đối với đồng bào của ngài, cho
dù giữa các thế hệ già-trẻ trước-sau có những sai biệt về quan điểm
và phương thức hành động. Trong khi đó thì người phật-tử Việt Nam
vẫn thường có khuynh hướng loại trừ, phân liệt, không chấp nhận
nhau; có khi không còn xem nhau như là anh em, đồng đạo; những ai
không suy nghĩ giống mình, không hành động và phát ngôn như mình,
thì đẩy hết về phía đối nghịch, nghĩa là đồng hóa họ với những người
mà mình cho là kẻ thù.
Không những khác với phật-tử Tây Tạng, phương cách đấu tranh cho tự
do dân chủ của phật-tử Việt Nam cũng khác với tín đồ của tôn giáo
bạn. Chúng ta mưu cầu phúc lạc cho toàn dân, nhưng thường khi lại
chẳng quan tâm đến số đông, chỉ nhìn thấy cái xấu-ác của thiểu số.
Những cơ hội tốt đẹp có tính cách quốc tế, rộng mở, thì chúng ta cục
bộ, khép chặt, chống đối, ngăn trở. Những chương trình dài hạn, cần
từng bước xây dựng, un đúc, khai triển, thì chúng ta phá đổ, san
bằng, cố tình bóp chết không cho khởi phát. Như một con bệnh mê
sảng, chúng ta sẵn sàng đánh đổ bất cứ ảnh tượng nào vừa xuất hiện.
Chúng ta không có viễn kiến.
Chúng ta chỉ nhìn được cái gì tức thời, ở trước mắt.
Hãy nhìn về phía tôn giáo bạn: Đức Giáo hoàng John Paul II tiền
nhiệm đã từng viếng thăm Ba Lan năm 1979, một năm sau khi đăng ngai,
và hai mươi năm sau, đã chính thức viếng thăm Cuba vào tháng 01 năm
1998. Sau khi Đức Giáo hoàng viếng thăm hai nước cộng sản này, một
nước đã được chuyển hóa, thay đổi, và một nước vẫn còn trơ lì với
thứ chủ nghĩa thối trào, lạc hậu. Thay đổi hay không thay đổi khó
lòng tiên liệu được, nhưng không phải vì vậy mà ngài không đến. Cũng
không ai vì việc Đức Giáo hoàng viếng thăm các nước cộng sản mà lên
án, chống đối, cản ngăn hay chụp mũ, xuyên tạc. Dù ông Fidel Castro
và chính phủ Cuba có thu được những lợi ích nào đó về mặt ngoại
giao, tháo gở được phần nào những bế tắc về kinh tế, cấm vận, hoặc
chứng minh giả tạo về tự do tôn giáo ở nước họ, nhưng lợi ích tinh
thần cho hàng trăm ngàn con chiên và hàng chục triệu người dân của
đất nước đói khổ triền miên và thiếu tự do vẫn là điều Đức Giáo
hoàng nhắm đến. Người Thiên Chúa giáo, hay không-Thiên-Chúa-giáo,
chẳng ai chống đối việc Giáo hoàng thăm viếng các nước cộng sản,
trái lại, còn vui mừng, tán trợ, và nuôi hy vọng nào đó. Nếu nay
mai, Đức Giáo hoàng đương nhiệm Benedict XVI hoặc khâm sứ Tòa thánh
thăm viếng Cuba, Bắc Hàn, Trung quốc hay Việt Nam, người ta cũng sẽ
có thái độ tôn trọng, gián tiếp hoặc trực tiếp ủng hộ. Không ai có
lý do thích đáng nào để cản ngăn người khác mang ánh sáng vào nơi
tăm tối.
Phật giáo không có giáo hoàng, cũng không có vị lãnh đạo tối cao đại
diện Phật giáo đồ khắp thế giới. Vậy thì, Đại lễ Vesak Liên Hiệp
Quốc (Lễ Tam Hợp - kỷ niệm Đức Phật Đản Sinh, Thành Đạo và Niết Bàn
trong cùng tháng 5 dương lịch) có thể nói là ánh sáng của Đức Phật,
chuyên chở lý tưởng hòa bình, tinh thần từ bi và khoan dung của Phật
giáo đến với bất cứ quốc gia nào đăng cai. Ai cũng biết, Lễ Vesak
Liên Hiệp Quốc trở thành sinh hoạt văn hóa quốc tế chính thức kể từ
năm 2000, bước vào thiên kỷ thứ ba của nhân loại. Đây là niềm vinh
hạnh của phật-giáo đồ khắp năm châu. Không có quyết định của Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc về lễ quốc tế Vesak, phật-giáo đồ khắp thế giới
sẽ tiếp tục tổ chức lễ Phật Đản riêng biệt của từng quốc gia. Thông
qua Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc, phật-giáo đồ các nước có cơ hội
chung lòng tưởng niệm, vinh danh Đức Phật trong cùng một địa điểm,
một thời gian, công bố thông điệp hòa bình và khoan dung của Phật
giáo đến khắp thế giới.
Lễ Vesak do Liên Hiệp Quốc chủ trương và chính phủ Việt Nam đăng
cai, sẽ được tổ chức tại Hà-nội vào tháng 5, 2008, qui tụ ít nhất là
600 phái đoàn với hàng ngàn đại biểu đến từ 90 quốc gia trên thế
giới. Đối với Liên Hiệp Quốc, Vesak là cơ hội để giới thiệu, cổ súy
lý tưởng hòa bình, giá trị đạo đức và văn hóa của Phật giáo đến với
thế giới đầy những bạo động, chấp tranh, khủng bố, kỳ thị; đối với
phật-giáo đồ khắp năm châu, là cơ hội để vinh danh Đức Phật, hoằng
truyền chánh pháp, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm hành đạo, đóng
góp các nguyên lý thực tiễn của Phật giáo đối với những vấn nạn của
môi trường hành tinh và đời sống nhân loại, trình bày bản sắc văn
hóa của mỗi quốc gia ảnh hưởng Phật giáo, kết chặt mối tương giao
của người con Phật khắp nơi; đối với phật-tử Việt Nam, là cơ hội để
trình bày nền văn hóa sáng đẹp của Phật giáo vốn đã song hành với
dân tộc gần hai mươi thế kỷ, tạo sự đoàn kết hòa hợp của mọi hệ
phái, giáo hội đang hành hoạt trong lẫn ngoài nước, vực dậy niềm tin
và trí tuệ của phật-giáo đồ cả nước để trùng hưng nền Phật giáo Việt
Nam; đối với nhân dân trong nước nói chung, là cơ hội để đất nước mở
cửa đón chào những quan khách đại diện tầng lớp tinh hoa của Phật
giáo từ các nước, trực tiếp hoặc gián tiếp trình bày về đời sống
thực của xã hội Việt Nam qua văn hóa, tôn giáo, kinh tế, văn mỹ
nghệ, kiến trúc, ẩm thực, v.v…; và đối với nhà nước Việt Nam, chủ
nhà đăng cai tổ chức, là cơ hội để chứng tỏ sự rộng mở về mặt ngoại
giao quốc tế, chứng minh chính sách khoan dung và thiện chí giúp đỡ
đối với tôn giáo.
Mục tiêu mà các tập thể, tổ chức nhắm đến qua Lễ Vesak Liên Hiệp
Quốc, có nhiều điểm tương đồng, tất nhiên cũng có nhiều điểm dị
biệt. Đi sâu vào chi tiết, đối với cá thể mà nói, còn có những mục
đích nhỏ hẹp hơn, chẳng hạn lợi nhuận thu được qua một dịp lễ quốc
tế suốt gần một tuần lễ đối với các công ty du lịch, khách sạn, nhà
hàng, các tiệm buôn bán, xe cộ vận chuyển của công ty hay tư nhân,
v.v... Sau một đêm dài, bình minh rực rỡ sẽ thúc đẩy mọi người, mọi
loài thức dậy, theo nhu cầu và mục đích của mình mà tiếp nhận ánh
sáng mặt trời; nhờ ánh sáng mà dễ dàng thực hiện những việc họ muốn
làm. Có thể có sự lợi dụng hay hậu ý nào đó của nhà nước đối với
Vesak 2008. Nhưng xét cho cùng, tất cả đều mong cầu lợi ích, nhiều
hay ít, tinh thần hay vật chất, trong một lễ hội qui mô quốc tế do
chính Liên Hiệp Quốc chủ trương, kêu gọi.
Ánh sáng từ bi trí tuệ của Phật giáo không thể vì lý do gì mà không
chiếu rọi đến những nơi tăm tối, nơi mà hàng mấy chục triệu người
đang cố gắng ngoi mình dậy từ hậu quả chiến tranh, nghèo đói, bất
công, đạo đức băng hoại... Phật tử Việt
Nam
không thể vì hai triệu đảng viên mà bỏ quên tám chục triệu người
dân. Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng không vì 60 triệu đảng viên cộng sản mà
chối bỏ 1 tỉ 240 triệu người dân Trung Hoa. Đức Giáo Hoàng John Paul
II cũng không vì 700 ngàn đảng viên mà không quan tâm đến 10 triệu
người dân
Cuba.
Nói theo cách của Đức Đạt-lai Lạt-ma, trên một tỉ người dân Trung
Hoa, “xứng đáng được làm nước chủ nhà của cuộc tranh tài Thế Vận
Hội,” thì trên 80 triệu dân Việt Nam bao gồm 60 - 70% là
phật-tử, xứng đáng được làm nước chủ nhà cho Lễ Vesak 2008 của Liên
Hiệp Quốc. Những người đấu tranh vì tự do dân chủ cho Tây Tạng và
Việt Nam có quyền ở nơi bất cứ diễn đàn nào, phản đối chính sách đàn
áp và kiểm soát tôn giáo, vi phạm nhân quyền, độc tài và bất công,
của các nhà cầm quyền cộng sản; nhưng hãy tôn trọng cơ hội và ý
nguyện của số đông, của quần chúng thầm lặng đối với các lễ hội quốc
tế hãn hữu xảy ra trên đất nước của họ. Hãy tiếp tục lên án, chống
lại sự xấu-ác, nhưng đừng bao giờ ngăn cản những cơ hội cho lẽ thiện
bừng tỏa. Không thể vì việc nhỏ mà trùm lấp hết việc lớn. Không thể
vì cái hạn cuộc nhất thời mà che chắn sự tỏa chiếu của ánh sáng vô
hạn, vô biên.
Người phật-tử, dù ở bất cứ quốc gia nào, hoàn cảnh nào, thời gian
nào, nên sung sướng hãnh diện về một lễ hội Vesak do Liên Hiệp Quốc
đề xướng nhằm tôn vinh con đường hòa bình và giáo lý thậm thâm vi
diệu của Đức Phật. Và nếu cần phải nói lên một sự thực, có thể nói
rằng, dù tham dự hay không tham dự lễ Vesak, dù tán đồng hay bất
đồng với nhà nước đăng cai, chúng ta, những người con Phật, trên
khắp thế giới, đều thấy vinh hạnh và cảm động khi lễ hội ấy được
Liên Hiệp Quốc chấp thuận tổ chức ngay trên quê hương mình.
Con đường hòa bình của Phật giáo là con đường như thế nào mà Liên
Hiệp Quốc cần đến, cần tôn vinh và truyền rộng cho toàn cầu? – Là
trung đạo. Là con đường mà trải hơn hai mươi lăm thế kỷ, phật-giáo
đồ đã kinh qua trong việc hành trì và truyền bá để đem lại niềm an
lạc và hạnh phúc chân thực cho mình và cho người. Là con đường tránh
xa các cực đoan; vượt trên những quá khích, cuồng vọng, bảo thủ, bạo
hành, cuồng tín; vượt trên tham lam, sân hận, si mê; vượt khỏi những
giới hạn của bỉ-thử, nhân-ngã. Chỉ có con đường ấy, qua kinh nghiệm
của lịch sử nhân loại, mới chứng minh được tính cách hòa bình, nhân
ái, khoan dung, khả dĩ cứu vãn sự sống còn của hành tinh, của nhân
loại trước viễn ảnh ngày càng xung đột, bất an, biến động thật trầm
trọng khởi sinh từ tham vọng và cố chấp của những thế lực chính trị
hoặc tôn giáo cực đoan trên thế giới. Chỉ có con đường ấy mới giúp
nhân loại không còn bị sợ hãi, khủng bố.
Phật-tử Việt Nam, các giáo hội Phật giáo tại Việt Nam, nhà nước Việt
Nam, hãy thành tâm thể hiện đúng mức tinh thần từ bi, khoan dung và
hòa bình của Phật, trước, trong và sau Lễ Hội Vesak Liên Hiệp Quốc.
Như vậy sẽ xứng hợp với vai trò những người của nước chủ nhà đăng
cai tổ chức. Và được như vậy thì đất nước và dân tộc chắc chắn có
thái bình an lạc thực sự.
Hãy chắp tay cầu nguyện cho sự thành công tốt đẹp của Lễ Vesak tại
Việt
Nam,
hay tại bất cứ quốc gia nào được ủy nhiệm tổ chức. Và xin mượn lời
nhà thơ
Nhất Hạnh, “Chắp tay cầu nguyện cho bồ câu trắng hiện.”
|
|
|
|