Sinh
tử đại sự
-
Fountain Valley, 15 tháng 6, 2007.
“Sinh tử thị ba đào” |
Công viên rộng một dặm vuông. Nhiều cây cao bóng mát vươn lên từ
những thảm cỏ xanh mướt. Nắng chưa lên mà đã có người đi bộ hoặc
chạy bộ lướt qua khu vực có hồ nước. Hồ nước này chiếm một góc công
viên; có nhà thủy tạ và nhiều băng ghế đá dọc theo bờ. Nước hồ không
luân lưu nên đục ngầu, thích hợp cho đời sống tù hãm thụ động của
một bầy lưa thưa vịt và ngỗng, cá và rùa được nuôi dưỡng bằng ngân
sách của công viên thành phố. Có lẽ thỉnh thoảng người ta cũng thay
nước mới cho hồ, nhưng thay bằng cách nào và lúc nào thì không làm
sao biết được. Chỉ biết là hồ nước hầu như lúc nào cũng đục và khi
gió thoảng qua, mùi rong rêu và sình lầy được đưa lên theo hơi nước.
Không khí quanh ven hồ vì vậy có vẻ gì như không khí của đồng nội,
mặc dù từ góc công viên, nơi ngã tư đường, với tám cột đèn xanh đỏ,
xe cộ vẫn nườm nượp qua lại.
Cuộc sống nơi đây có vẻ ổn định. Mọi thứ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng,
chu đáo, để có thể đi vào một thứ nề nếp tương đối nào đó mà mọi
người có thể an tâm để sống được. Chuẩn bị rất kỹ nhưng vẫn không
thể không có những lúc bất trắc xảy ra. Khi hệ thống đèn ngã tư bị
hỏng, người ta phải cho đèn đỏ chớp lên từ bốn hướng, xe cộ tắc
nghẽn, nối đuôi thành bốn con rồng châu đầu vào nhau. Phải lần lượt
thay phiên mà vượt qua ngã tư đường, cũng trong một trật tự nào đó.
Nghĩ về
sống-chết
Không phải người ta không dự tri về những bất trắc xảy ra trong cuộc
đời. Người ta đã chuẩn bị rất kỹ: viết di chúc, mua bảo hiểm sức
khỏe, bảo hiểm nhân mạng; lên xe hoặc lên máy bay thì tự động thắt
dây an toàn—không thắt cũng được nhắc nhở hoặc ép buộc phải thắt
bằng sự nghiêm phạt. Những chuẩn bị như thế đều cho thấy người ta
luôn ý thức về một tai nạn, hoặc cái chết, có thể xảy ra bất cứ lúc
nào. Nhưng khi tai nạn chưa xảy ra, nhiều lần, nhiều ngày như thế, ý
thức kia lờn đi và nhường chỗ cho vô thức, để rồi, khi thắt dây an
toàn, người ta chỉ thắt theo thói quen, và thắt để khỏi bị cảnh sát
phạt tiền. Người ta thực sự không muốn nhắc đến cái chết dù rằng
trong hành động mỗi ngày đều chuẩn bị cho cái chết.
Cuộc sống như thế có một vẻ mâu thuẫn một cách buồn cười. Chúng ta
chuẩn bị rất kỹ cho một bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, xem
ra thì giống như nhà đạo ý thức về vô thường; mà kỳ thực, những
chuẩn bị này chỉ là để tiếp tục vui sống trong ảo tưởng về một cuộc
đời chắc thật, bền vững. Chúng ta chuẩn bị, nhưng chẳng chuẩn bị gì
cả. Hăm hở chạy theo những kéo lôi của ngoại cảnh và sự thúc giục
của dục vọng bản năng. Thành tựu được tí ti đã mừng rỡ, huênh hoang;
mất đi chút xíu đã buồn rầu, áo não. Kỷ niệm ngày sinh thì tưng bừng
tiệc tùng, quà bánh, rượu chè, chúc tụng không ngớt—làm như là sự có
mặt của mình trong cuộc đời đã thay đổi được thế giới tốt đẹp hơn,
hoặc mang lại lợi ích cho muôn loài vậy! Ngày chết thì than khóc sầu
bi thống thiết—làm như là sinh ra ở đời để mà bất tử trường sanh
vậy! Sinh thì cười, tử thì khóc. Được thì mừng, mất thì khổ. Thắng
thì vui, thua thì buồn. Sắc thân, cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và
ý thức của chúng ta sao mà tội nghiệp, cứ bấp bênh bập bềnh như bèo
bọt mây nổi! Vậy mà rồi, sự sinh và sự tử, trong tư tưởng cũng như
trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, trở thành chuyện lớn. Mà
chuyện lớn ở đây lại không giống như chuyện lớn của thiền gia. Chúng
ta không biết, hoặc giả vờ không hay biết, rằng ngày sinh chẳng qua
là ngày đánh dấu một bước gần hơn với ngày tử. Ngày ấy, sau một năm
dài, hẳn là thành kiến, tư dục sẽ nhiều hơn năm trước. Những vọng
chấp về bản ngã và những thuộc tính của ngã hẳn là dày thêm một lớp.
Có chi để mừng vui! Thế rồi, chuyện sinh-tử trong mọi thời đại, mọi
xứ sở, luôn là cơ hội cho những thành tựu của thương nghiệp: thiệp
chúc, quà tặng, bệnh phí, áo quan và những buổi tiệc vui, buồn…
Một
triết gia phương tây từng nói, “hãy sống như thể ngày mai mình sẽ
chết.” Sống như thế nào mới gọi là sống? Hay là ý thức về cái
chết của ngày mai như thế chỉ khiến chúng ta mất ngủ từng đêm vì
không làm được gì xứng đáng ngày hôm nay?
Người Tây Tạng cũng thường chiêm nghiệm trước giấc ngủ, “ngày mai
hay đời sau, chưa biết cái nào sẽ đến trước.” Thế nhưng, mỗi sớm
mai thức dậy, chúng ta tiếp tục một ngày mới với những hăng say miệt
mài tom góp, tích lũy, giành giật, tranh thắng, mưu lợi, thù ghét,
hờn giận… đâu biết rằng một đêm dài kia có thể là khoảng thời gian
bước vào đời sống sau trong mê mờ mộng tưởng.
Đó
là nhận thức về vô thường và cái chết. Nhận thức như vậy không phải
để buông xuôi, thụ động, hoặc vội vàng thụ hưởng để rồi gieo rắc
nhân khổ cho mình và cho người, mà chính là để hướng về cái chân
thường, bất diệt, bất sinh. Cái gì có sinh tất có diệt, có tụ tất có
tán. Không làm gì có một cái sinh ra mà còn mãi. Cũng không làm gì
có một cái mất đi mà vĩnh viễn tiêu tán. Nếu sinh là vô thường thì
diệt cũng vô thường. Nếu vui là vô thường thì khổ cũng vô thường.
Niềm vui thông thường của chúng ta mà thường hằng thì khi vui sẽ vui
mãi; cũng vậy, nỗi khổ mà thường hằng thì khi khổ sẽ khổ suốt không
bao giờ dứt. Nhờ vô thường mà có vui có khổ, có sự hết vui và hết
khổ. Do đó, cũng nên cảm ơn vô thường, xem vô thường như người bạn
thiết trong cuộc đời cũng như trong nẻo đạo.
Nhưng cũng đừng dể duôi khi gần gũi với người bạn thiết này, vì y có
thể mang lại niềm vui đồng thời cũng làm cho ta khổ đau không ít nếu
việc sinh-tử không được thấu đạt.
Nhà thiền thường nói “sinh tử đại sự” – sinh tử là việc lớn.
Không phải là xem trọng cái ngày mình sinh ra hoặc là mừng ngày kỷ
niệm tròn tuổi sinh ra, dù là một tuổi, ba mươi tuổi, năm mươi tuổi
hay trăm tuổi, với tiệc mừng linh đình, hỉ hả. Cũng không phải lấy
làm hệ trọng cái việc tử biệt, bày biện hình thức lễ nghi, chôn cất,
xây mồ xây mả uy nghi bề thế. Sinh tử sở dĩ là việc lớn đối với
người thế tục là vì nó chi phối hầu hết cuộc sống, bao gồm niềm vui
nỗi khổ, thắng trầm, thành bại… từ lúc sinh ra cho đến khi chết; còn
đối với nhà đạo thì nó không nằm ở nơi việc sinh hay tử mà chính là
“thoát ly sinh tử.” Đại sự của hành giả tu tập là vượt lên sống-chết
chứ không gì khác. Cho nên, nói “sinh tử đại sự” là vì từ nơi
sống-chết có thể liễu ngộ được tính chất không thực, huyễn hóa của
mọi sự mọi vật; nói cách khác, từ nơi tính không mà vượt lên
sống-chết, bởi vì bản chất của sống-chết vốn là không.
Đức
Phật nói mạng sống nằm trong hơi thở. Nói vậy cho dễ hình dung. Còn
nói một cách triết lý là sát-na sinh diệt—vạn hữu sinh diệt trong
từng sát-na. Người đời đối với việc sống thì ham, đối với việc chết
thì sợ; do đó mà bày tỏ cảm giác mừng-lo với sinh-tử. Nhà đạo nhìn
thấy sinh-tử trong từng hơi thở, có gì để mừng vui hay lo lắng!
Cho
nên, thật là cảm động là trong xã hội hiện đại, có một bậc thầy, khi
sống thì mấy chục năm đạm bạc nơi tịnh thất, chỉ chăm lo việc đào
tạo tăng tài và phiên dịch kinh điển; trước khi mất thì di chúc là
không cần xây tháp mà dùng tiền xây tháp để tài trợ cho việc trước
tác dịch thuật và ấn hành kinh sách. Sinh và tử như thế là sự ra-vào
tự tại của một lữ khách trong tam giới.
Nghĩ về
ngày Tam Hợp
Theo truyền thống Nam tông (Theravada), cuộc đời đức Phật có ba sự
kiện hệ trọng được ghi nhận là xảy ra trong cùng ngày rằm tháng tư
(Vesàkha). Ba sự kiện ấy là đản sinh, thành đạo và nhập niết-bàn.
Mỗi năm, khi truyền thống Bắc tông tổ chức kỷ niệm lễ Phật Đản vào
ngày rằm tháng tư thì cũng trùng hợp với lễ Tam Hợp của Phật giáo
Nam tông. Phật-lịch cũng được căn cứ theo Lễ Tam Hợp mà tính.
Cuối năm 1999, vào ngày 15 tháng 12, Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết
công nhận Lễ Tam Hợp là ngày lễ quốc tế. Như vậy, về mặt nội dung,
dù Liên Hiệp Quốc có công nhận hay không, Phật giáo vẫn là Phật
giáo, là tôn giáo của từ bi, giác ngộ, khoan dung và hòa bình từ hơn
2500 năm qua; nhưng về mặt hình thức, Phật giáo chính thức bước vào
cộng đồng quốc tế vào thế kỷ 21, tức từ năm 2000 trở đi. Đây là một
bước đi khá chậm trễ, nhưng trong một ý nghĩa nào đó, người ta có
thể suy diễn rằng trong chiều hướng khủng hoảng, xung đột trầm trọng
và có nguy cơ cho thế chiến thứ ba phát sinh từ sự bất khoan dung
tôn giáo từ đầu thế kỷ này, sự góp mặt lên tiếng của Phật giáo là
điều cần kíp, thích ứng, nhằm khai mở con đường của khoan dung, từ
ái thực sự.
Nói
theo phương châm “sinh tử đại sự” thì sự việc này cũng chẳng có gì
đáng để mừng vui hay tủi nhục đối với hành giả đang hạ thủ công phu,
quyết tâm giác ngộ. Nhưng trong tâm thức thông thường của người con
Phật khắp nơi, Lễ Tam Hợp của Liên Hiệp Quốc quả là dấu hiệu tốt đẹp
cho sứ mệnh hòa bình của Phật giáo, và trên hết, cho sự hoằng truyền
của chánh đạo trên cõi đời ô trược vô minh.
Sinh được như đức Phật, thị hiện nơi đời để soi sáng con đường giải
thoát giác ngộ cho sinh linh vạn đại; tử được như đức Phật, an nhiên
dưới cội ta-la với những lời giáo huấn tối hậu khai mở con đường
siêu xuất thênh thang, thì hãy vui mừng, ca tụng tán thán, vì cái
sinh cái tử như thế, đều là sự tỏa chiếu rạng ngời của tuệ giác siêu
việt mà ngài đã chứng nghiệm dưới cội bồ đề.
Lễ
Tam Hợp quốc tế lần đầu tiên được chính thức tổ chức tại trụ sở Liên
Hiệp Quốc tại Nữu Ước, Hoa Kỳ năm 2004; ba năm tiếp theo, 2005, 2006
và 2007 đều được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan.
Nói
một cách biểu trưng, hình thức, Lễ Tam Hợp của Liên Hiệp Quốc tổ
chức nơi đâu thì ngọn đuốc giác ngộ của Phật giáo soi chiếu nơi đó.
Thái Lan là một nước Phật giáo truyền thống lâu đời, thắp ngọn đuốc
giác ngộ nơi đó cũng là chuyện bình thường. Cần nhất là thắp lên ở
những nơi u tối, nơi mà ánh sáng giác ngộ chưa hề soi đến, hoặc đã
được thắp sáng nhưng bị bao phủ bởi cuồng tín, vô minh.
Vậy
thì, thật là vui khi nghe tin chính phủ Pakistan chính thức tổ chức
lễ Phật Đản tại quốc gia Hồi giáo này trong tháng 5, năm 2007 vừa
qua. Chính phủ này cũng đã tài trợ cho việc phục hồi các thánh tích
quan trọng của Phật giáo trên toàn xứ sở; ngoài ra, còn sẽ chủ trì
cho Hội nghị thường niên của Phật giáo Quốc tế tổ chức tại
Islamabad, thủ đô của Cộng Hòa Hồi Giáo Pakistan vào tháng 10 năm
2007.
Và
cũng thật là vui khi nghe tin chính phủ Việt Nam đã đăng cai tổ chức
Lễ Tam Hợp của Liên Hiệp Quốc lần thứ 5, vào tháng 5 năm 2008 tại Hà
Nội, và đã được đại hội chính thức chuẩn thuận thông qua Tuyên ngôn
Bangkok 2007.
Người ta có thể nhăn mặt lên án, chỉ trích, xuyên tạc niềm vui này,
cho rằng nó thuần túy quá, hoặc không sáng suốt vì chưa được thông
qua những lớp vỏ của tính đấu tranh, chiến lược, quan điểm chính
trị, xã hội… và bức tường thành của nghi kỵ, ngờ vực, hận thù, v.v…
Có lẽ vì e ngại sự lên án này mà thông tin về Lễ Tam Hợp của Liên
Hiệp Quốc lần thứ 5 tại Việt Nam không được đón nhận và truyền bá
rộng rãi trên các phương tiện truyền thông tại hải ngoại, dù là của
Phật giáo hay không Phật giáo.
Riêng tôi, không thể không ghi lại niềm vui của mình nơi đây, niềm
vui của một người con Phật, nhìn thấy ánh đạo vàng của bậc đại giác
soi tới những nơi cần thiết nhất. Bóng tối đã phủ lấp hơn nửa thế kỷ
trên quê hương thống khổ. Bạn đã làm gì để phá đi bóng tối ấy? Nếu
bạn không thắp sáng được vì đèn đuốc của mình quá yếu, tại sao không
vui khi người trong bóng tối tự thắp sáng cho chính họ bằng ánh sáng
của đức Thế Tôn? Phản đối hoặc lên án ngoại đạo và kẻ ác khi họ làm
điều lành chẳng khác gì nhân danh người lành mà làm việc ác; cũng
chẳng khác gì lên tiếng với kẻ vô minh rằng, này quý vị, đừng sử
dụng ánh sáng của Phật, hãy sáng lên hoàn toàn đi, rồi chúng tôi sẽ
mang ánh sáng giác ngộ của ngài đến cho quý vị. Nếu họ đã sáng rồi
thì không cần ánh sáng của Phật nữa. Chính vì thế gian tăm tối cuồng
vọng mà đức Phật thị hiện đản sanh. Ánh sáng giác ngộ của Phật không
ngại gì bóng tối thế gian mà không đến. Chẳng có bóng tối nào có thể
làm giảm đi năng lượng và giá trị của ánh sáng. Người con Phật với
tâm lượng từ bi, khoan dung sẵn có, không thể tự cho mình đặc quyền
thủ đắc việc vinh danh những giá trị nhân bản phổ quát mà Phật giáo
đã mang lại cho thế gian đầy bạo động và thống khổ này.
Điều cần làm là mỗi cá nhân tăng sĩ hay phật-tử Việt Nam trong và
ngoài nước, phát huy nội lực tự thân, tỏa sáng năng lượng từ bi,
kham nhẫn, bình đẳng và giải thoát của mình để cúng dường đức Phật
trong ngày Lễ Tam Hợp sắp tới, giới thiệu nền văn hóa Phật giáo đặc
thù của dân tộc đến với phật-giáo đồ và nhân loại khắp năm châu.
Phật giáo Việt Nam, tự hào với lịch sử 2000 năm và 80 phần trăm dân
số, phải là ngọn đuốc sáng ngời phẩm tính giác ngộ giải thoát, trước
hết là để chánh pháp xương minh trường tồn, thứ nữa là góp phần kiến
tạo một thế giới hòa bình, an lạc tại nhân gian. Được vậy sẽ không
cô phụ “đại sự nhân duyên” của đức Phật trong việc thị hiện đản
sanh, thành đạo và niết-bàn từ hơn 2500 năm trước.
Một
con chim bồ câu đáp xuống bên bờ hồ, lững thững qua lại chỗ mấy con
vịt và ngỗng đang chăm chú mổ những mẩu bánh nhỏ của một cụ già ngồi
ghế công viên. Bồ câu có vẻ lạc lõng nơi cuộc sống ao hồ tù đọng.
Nhưng chỉ một thoáng sau, đã thấy có nhiều bồ câu khác đáp xuống.
Chúng đến đây không phải để tìm thức ăn. Có vẻ như là một cuộc ghé
ngang, ngơi nghỉ. Những bộ lông trắng sáng lên giữa trời nắng hạ.
Tôi
vẫn suy nghĩ về sự đục ngầu của nước hồ nơi đây. Tại sao người ta
không làm cho nước lưu thông nhỉ? Nếu được lưu thông, nước hồ sẽ
trong mát hơn, và mùi sình lầy sẽ giảm đi. Có lẽ những người có
trách nhiệm của công viên thành phố, một lúc nào đó cũng phải tìm ra
một phương cách để làm cho nước sạch hơn.
Nơi
nhà thủy tạ phơ phất gió, thỉnh thoảng có thể thoáng ngửi được hương
mộc lan từ xa lan đến. Nhìn xuống hồ nước đục ở một độ nghiêng, tôi
thấy mặt hồ bóng lên như gương; nơi đó, phản hiện một bầu trời xanh
ngát.
Fountain Valley, 15 tháng 6, 2007.
|