Ý
kiến, quan điểm, . . . bày tỏ trên trang Diễn Đàn Tự Do là của
các tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của
Phù Sa. |
Bài bênh vực nhân phiên toà phúc thẩm
Chồng tôi yêu nước,
chồng
tôi vô tội
Vào ngày 11.5.2007, Toà án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã kết án
chồng tôi, luật sư Nguyễn Văn Đài, 5 năm tù và 4 năm quản chế
vì tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”. Ngay sau
khi chồng tôi bị bắt giữ vào ngày 6.3.2007, nhiều cơ quan
truyền thông của Đảng và Nhà nước đã mở chiến dịch nói xấu
chồng tôi, để đưa ra hình ảnh của một con người xấu xa, phản
bội tổ quốc. Họ xuyên tạc những hoạt động nhân quyền của chồng
tôi bằng cách tuyên truyền rằng chồng tôi “tổ chức thu thập
thông tin về mặt chính trị, xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực
tôn giáo để cung cấp cho nước ngoài xuyên tạc, bôi nhọ Việt
Nam” (SGGP online, 12.4.2007).
Xuất phát từ lòng yêu nước, chồng tôi đã nhiều lần công khai
phê phán những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của những
nhân viên và cơ quan nhà nước. Tôi cho rằng những hoạt động về
nhân quyền của chồng tôi trên thực tế đã giúp Việt Nam cải
thiện tình trạng nhân quyền và nâng cao uy tín với thế giới.
Chồng tôi không nói sai sự thực. Là một luật sư về nhân quyền,
chồng tôi đã tiếp nhận nhiều bằng chứng về việc xâm phạm quyền
tự do tôn giáo ở các địa phương. Đó là những tài liệu về việc
giải tán các buổi nhóm tôn giáo, tịch thu tài sản của tín đồ,
người Hmông bị chính quyền địa phương bắt bỏ đạo hay những tín
đồ Tin lành bị cán bộ công an đánh đập có thương tích. Chồng
tôi đã viết đơn thư khiếu nại hợp pháp và thường chọn con
đường đối thoại ôn tồn với các cấp thẩm quyền trước khi đưa
vấn đề ra công luận. Trong một số trường hợp, nhờ sự lên tiếng
báo động của chồng tôi mà chính quyền trung ương mới khám phá
ra những việc làm vi phạm luật pháp của giới chức địa phương
và đã có biện pháp can thiệp. Ở một vài nơi, tình hình được
cải thiện khi sự chú ý của quốc tế đã khiến chính quyền trung
ương hoặc địa phương phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề. Một
phần nhờ chồng tôi mà Việt Nam đã cải thiện được tình hình tự
do tôn giáo. Vì thế Hoa kỳ rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách
CPC vào tháng 11.2006 vừa qua. Nhờ những người như chồng tôi
mà chính quyền cũng đã bớt nghi ngờ đạo Tin lành là đạo Mỹ, là
đạo phản động và cho phép tín đồ Tin lành được sinh hoạt bình
thường. Từ khi các điểm nhóm Tin lành được phép sinh hoạt bình
thường từ giữa năm ngoái thì rõ ràng các sự cố gây căng thẳng
đã giảm, giảm đi rất nhiều. Việc làm này đã góp phần làm ổn
định xã hội. Cho nên những tiếng nói của những người như chồng
tôi rất cần thiết, cho dù điều này không làm vừa lòng một vài
nhân viên chính quyền.
Việc các cơ quan truyền thông nhà nước, bản cáo trạng và bản
án sơ thẩm đồng loạt cho rằng chồng tôi là luật sư nhưng“chưa
bao giờ bào chữa cho ai kể từ ngày mở văn phòng luật sư cho
đến ngày bị bắt” là một sự xuyên tạc vô cùng ác ý, làm cho
quần chúng có cái nhìn sai lầm về chồng tôi. Ác ý này càng lộ
rõ khi bản án sơ thẩm ghi sai sự thật rằng chính chồng tôi đã
khai nhận điều này trong phiên xử. Để phản biện, tôi chỉ cần
nêu một số trường hợp mà ai cũng có thể kiểm chứng được. Ít
nhất, chồng tôi đã bào chữa cho chị Nguyễn Thị Thuý là Quản
nhiệm Hội thánh Ngũ Tuần ở thành phố Việt Trì vào đầu năm
2000, đã bào chữa cho mục sư Nguyễn Hồng Quang là tổng thư ký
của Giáo hội Mennonite Việt Nam hồi tháng 04.2005 và đã can
thiệp pháp lý cho mục sư Thân Văn Trường thuộc Giáo hội Báp
Tít Liên hiệp Việt Nam khi ông bị giam giữ vô cớ trong bệnh
viện tâm thần Biên Hoà từ tháng 09.2004 đến tháng 09.2005.
Chồng tôi đã làm Uỷ viên Pháp chế Hội đồng Quản trị Sản nghiệp
của Tổng hội Tin lành Miền Bắc và đã tư vấn miễn phí cho rất
nhiều người.
Trên những bài báo trong thời gian vừa qua đã không thiếu
những thông tin sai lạc như trên. Việc loan tin xấu đã tạo ra
thành kiến xấu về chồng tôi, gây cho dư luận cảm tưởng rằng
chồng tôi thực sự có tội và cuối cùng tạo thuận lợi cho việc
kết án chồng tôi. Theo tôi, các cơ quan điều tra, kiểm sát và
toà án đã chỉ làm việc với mục đích kết án chồng tôi.
Việc kết án chồng tôi trong phiên xử sơ thẩm ở Toà án Nhân dân
thành phố Hà Nội đã dựa trên những suy diễn sai lầm, hậu quả
của cách làm việc cẩu thả và có thiên kiến của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Trước và trong phiên xử sơ thẩm, các cơ
quan này đã vi phạm nghiêm trọng nhiều nguyên tắc cơ bản của
Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam. Cho nên toà đã không tìm
được sự thật của vụ án.
Vì vụ án của chồng tôi cần được nhìn trong một tổng thể lớn
nên trong phần trình bày dưới đây tôi sẽ đóng góp những ý kiến
để làm sáng tỏ một số vấn đề về quyền công dân trong Hiến pháp
1992 (HP) và các Điều ước Quốc tế trước khi mổ xẻ về những cáo
buộc đối với chồng tôi về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước
CHXHCN Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
1) Cần huỷ bỏ bản án sơ thẩm vì các cơ quan tiến hành tố tụng
đã vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của
Bộ luật Tố tụng Hình sự
a) Trong giai đoạn trước khi bị xét xử
Ngay ở Điều 1 của Chương I, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTSHSHhh
HS) đã xác định nhiệm vụ của bộ luật này là xử lý công
minh, không làm oan người vô tội và bảo vệ lợi ích hợp pháp
của công dân. Muốn thế BLTTHS phải được xây dựng trên những
nguyên tắc cơ bản như được ghi trong chương II. Nhưng ngay từ
trước khi chồng tôi bị đưa ra toà, các cơ quan tiến hành tố
tụng đã vi phạm nặng nề những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS.
Tôi xin đơn cử như sau:
Trên nguyên tắc, chồng tôi phải được xem là vô tội cho đến khi
nhận được một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Do
đó mọi hành vi kết tội trước đó của cá nhân, tổ chức hay cơ
quan đều vi phạm quyền được suy đoán vô tội (Đ.72, HP)
và quyền được tôn trọng về danh dự và nhân phẩm (Đ.71,
HP) của chồng tôi. Thế nhưng khi gặp tôi ngay sau khi chồng
tôi bị bắt giam, các nhân viên công an đã khẳng định rằng
chồng tôi sẽ không thoát khỏi án tù. Dù toà chưa xử, công an
đã biết rằng chồng tôi sẽ bị kết án, đã xem chồng tôi là người
có tội, đã đối xử với chồng tôi như đối với người có tội khi
bắt chồng tôi mặc quần áo phạm nhân để đưa lên truyền hình .
Công an cũng đã cung cấp thông tin, hình ảnh về hồ sơ vụ án
của chồng tôi cho các cơ quan truyền thông nhà nước để những
nơi này khởi động một chiến dịch bôi nhọ thanh danh và xúc
phạm nhân phẩm của chồng tôi. Tôi đã gửi thư đến 17 cơ quan
truyền thông để yêu cầu họ phải điều tra kỹ lưỡng trước khi
loan những tin xấu như vậy nhưng đến nay chưa nhận được bất cứ
một sự đáp ứng nào. Đoàn Luật sư Hà Nội đã dựa vào sự kiện
chồng tôi bị tạm giam để ra quyết định thu hồi thẻ luật sư của
chồng tôi và Bộ Tư pháp đã dựa vào đó để thu hồi Giấy phép
hành nghề của Văn phòng luật sư Thiên Ân. Những cơ quan trong
ngành luật này đã không cho chồng tôi có được cơ hội biện hộ
và không cần chờ quyết định có hiệu lực của toà án. Như vậy
các cơ quan truyền thông, cơ quan công an điều tra, Viện kiểm
sát, Đoàn luật sư Hà nội và Bộ tư pháp đã vi phạm các nguyên
tắc tố tụng cơ bản là:
•
„Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật“
(Đ.9, BLTTHS)
•
„Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của
công dân“
(Đ.7, BLTTHS),
Các cơ quan tiến hành tố tụng đã không
có thái độ vô tư
như luật pháp đòi hỏi. Sự vô tư của các cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng thể hiện ở việc họ thực hiện
đúng, đầy đủ và khách quan nhiệm vụ của mình theo luật định
trong quá trình tố tụng. Tôi thấy có nhiều chỉ dấu về sự thiếu
vô tư của Viện Kiểm sát và Toà án Nhân dân Thành phố Hà Nội.
Từ ngày nhận hồ sơ chồng tôi vào ngày 19.4.2007 đến khi viết
xong cáo trạng vào ngày 23.4.2007, Viện Kiểm sát Nhân dân Hà
Nội đã chỉ cần vỏn vẹn có 4 (bốn) ngày để hoàn thành tất cả
trách vụ được qui định trong Đ.23 BLTTHS. Viện kiểm sát đã
không tận dụng thời hạn 30 ngày mà BLTTHS dự trù cho những vụ
án rất nghiêm trọng như vụ của chồng tôi (Đ.166, BLTTHS). Theo
tôi, thời gian 4 ngày đã không đủ để cho cơ quan này kiểm soát
kỹ lưỡng tính hợp pháp của các thủ tục truy tố trong một vụ án
có số lượng vật chứng khá lớn (6 CPU, 1 máy tính xách tay, 2 ổ
cứng, 121 tài liệu). Đáng lẽ khi nhận được 2 (hai) đơn thư của
tôi khiếu nại về những cản trở trái pháp luật trong việc mời
luật sư, Viện kiểm sát đã phải có ngay sự điều chỉnh cần
thiết. Nhưng Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội đã không
cứu xét những thư khiếu nại của tôi mà vẫn tiếp tục cách làm
việc vội vã một cách khó hiểu để đưa ra một bản cáo trạng với
nhiều nhận định thiếu cơ sở thực tế. Phiên xử sau này
đã sử dụng những nhận định này để đưa ra những kết luận sai
sót. Viện kiểm sát đã viết vội vàng đến nỗi quên đánh
số công văn và quên đề ngày tháng trên bản cáo trạng, khiến
cho bản cáo trạng này trên nguyên tắc phải bị toà án xem là
không hợp lệ vì đã vi phạm qui định trong Đ. 167 BLTTHS.
Nhưng sự kiện sau đây đã khiến tôi cũng nghi ngờ luôn cả về sự
độc lập và vô tư của toà án. Vào
ngày 19.4.2007, hãng thông tấn AFP của Pháp đã dựa vào một
nguồn tin từ toà án để loan báo một cách vô cùng chính xác
rằng chồng tôi sẽ bị đưa ra xét xử vào ngày 11.5.2007. Cần lưu
ý rằng ngày 19.4.2007 chính là ngày mà Sở Công an Hà Nội
chuyển hồ sơ của chồng tôi sang cho Viện Kiểm sát Nhân dân Hà
Nội. Như vậy khi sở công an Hà Nội vừa kết thúc điều tra, Toà
án Nhân dân Hà Nội đã ấn định ngay ngày xử chồng tôi - cho dù
vào lúc đó viện kiểm sát chưa viết xong cáo trạng và vì thế
toà án cũng chưa nhận được hồ sơ của chồng tôi. Điều này cũng
cho thấy rõ ràng rằng toà án đã chỉ muốn đưa chồng tôi ra xét
xử chứ không cần cân nhắc đến những khả năng giải quyết khác
như đã được qui định trong Đ.176 BLTHS, thí dụ như khả năng
kiểm tra và trả hồ sơ về cho viện kiểm sát điều tra bổ sung
hoặc khả năng đình chỉ vụ án. Sự nghi ngờ này được xác nhận
một lần nữa khi báo Hà Nội Mới số ra ngày 25.4.2007 – nghĩa là
chỉ một ngày sau khi Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội chính
thức nhận được hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến - loan tin
rằng chồng tôi sẽ bị đưa ra xử vào ngày 11.5.2007. Tôi có cảm
tưởng rằng ngay từ đầu các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác
định chung phương hướng kết tội chồng tôi chứ không có mục
đích bảo vệ sự tự do của chồng tôi và tìm ra sự thật của vụ
án. Rõ ràng Viện Kiểm sát Nhân dân và Toà án Nhân dân Hà Nội
đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tố tụng cơ bản:
•
„Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng“
(Đ.14, BLTTHS)
Các cơ quan công an và kiểm sát đã cố tình cản trở việc bảo
vệ chồng tôi khi không cho chồng tôi được gặp luật sư
trong thời gian trước khi hồ sơ được chuyển sang toà án. Sự
gây cản trở bắt đầu từ những việc nhỏ như không giao cho chúng
tôi lệnh tạm giam, lệnh khám nhà, lệnh khám văn phòng, biên
bản thu giữ tài liệu và đồ vật theo đúng những qui định của
các điều 80, 85, 126, 145 BLTTHS, mặc dù tôi đã làm đơn khiếu
nại nhiều lần. Vì không có các giấy tờ này nên vợ chồng tôi đã
không biết chúng tôi bị thu giữ đồ vật gì và trong một thời
gian dài chúng tôi đã không biết một cách chính xác rằng chồng
tôi bị khởi tố về tội gì.
Ngay sau khi chồng tôi bị bắt vào ngày 6.3.2007, tôi đã nhiều
lần xin phép công an điều tra cho chồng tôi gặp luật sư nhưng
không được công an đáp ứng. Đến ngày 5.4.2007 luật sư của
chồng tôi gửi cho Sở Công an thành phố Hà Nội đơn yêu cầu được
cấp Giấy chứng nhận bào chữa. Công an điều tra viên chỉ trả
lời miệng rằng „vì chồng bà bị buộc tội trong nhóm tội xâm
phạm an ninh quốc gia nên luật sư không được tham gia trong
giai đoạn điều tra“. Nếu đúng như vậy thì chiểu theo Đ.58
BLTHS, chính Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà
Nội phải ra quyết định đó. Trên thực tế tôi đã không nhận được
bất kỳ một văn bản nào từ phía Sở Công an Hà Nội hay Viện Kiểm
sát Nhân dân thành phố Hà Nội trả lời về việc hạn chế tham gia
tố tụng của luật sư trong vụ án của chồng tôi. Việc mời luật
sư của chồng tôi đã bị treo lửng cho đến khi hồ sơ được chuyển
sang toà án. Vì luật sư của chồng tôi không được tham gia ngay
từ đầu vào việc tố tụng cho nên nhiều quyền lợi hợp pháp của
chồng tôi đã không được bảo vệ. Vì luật sư không nhận được bản
kết luận điều tra của Sở Công an thành phố Hà Nội (Đ.162,
BLTTHS) cũng như bản cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân
thành phố Hà Nội (Đ.166, BLTTHS) nên luật sư không kịp thời
biết được quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng về các
sự kiện xảy ra, các chứng cứ buộc tội và hướng giải quyết của
họ để bảo vệ cho chồng tôi một cách có hiệu quả.
Mãi đến ngày 2.5.2007 luật sư của chồng tôi mới được Toà án
Nhân dân thành phố Hà Nội cấp „Giấy chứng nhận bào chữa“.
Nếu tính đến ngày 10.5.2007 và trừ đi các ngày nghỉ cuối tuần,
luật sư của chồng tôi chỉ còn thời gian tổng cộng là 7 ngày
làm việc để chuẩn bị cho việc bào chữa cho chồng tôi và cô Lê
Thị Công Nhân. Rõ ràng thời gian này quá ngắn ngủi để luật sư
có thể chu toàn công việc xem xét số tài liệu lớn lao, gặp
thân chủ, thu thập chứng cứ để bào chữa (Đ.58, BLTHS). Nếu xem
đây là một vụ án phức tạp đã được hàng trăm bài báo, bài tường
thuật trên các phương tiện truyền thông nhà nước đề cập liên
tục trong nhiều tuần liên tiếp thì bên bị cáo đã bị lép vế rõ
ràng so với bên công tố vì thời gian dành cho việc điều tra và
buộc tội (từ 3.2.2007 đến 19.4.2007) dài gấp 10 lần so với
thời gian để chuẩn bị bào chữa. Tóm lại Sở Công an, Viện Kiểm
sát Nhân dân và Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội đã vi phạm
nguyên tắc tố tụng cơ bản về việc
•
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(Đ.11, BLTTHS)
Trong thời gian chồng tôi bị giam và chờ bị đưa ra xét xử, tôi
đã gửi tổng cộng 61 đơn
khiếu
nại
hoặc thư đề nghị, trong đó có 24 đơn gửi đến các cơ quan chức
năng liên hệ và 37 đơn gửi đến các cơ quan có nhiệm vụ lãnh
đạo, giám sát để yêu cầu tôn trọng hoặc can thiệp để bảo vệ
các quyền hợp pháp của chồng tôi. Nhưng đến nay tôi chưa nhận
được của các cơ quan giám sát một sự trả lời nào về các vấn đề
tố tụng. Vì những vi phạm này đã giới hạn nghiêm trọng quyền
bào chữa của chồng tôi nên tôi đã làm đơn xin hoãn phiên xử
vào ngày 4.5.2007. Đơn này được gửi đến 16 cơ quan chức năng
nhưng đến nay tôi đã không nhận được hồi âm. Như vậy các cơ
quan chức năng đã vi phạm các nguyên tắc tố tụng cơ bản:
• „Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân“
(Đ.4, BLTTHS),
• „Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự“
(Đ.31, BLTTHS),
• „Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với
hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng“ (Đ.32, BLTTHS)
b) Trong phiên xử sơ thẩm
Phiên xử sơ thẩm diễn ra vào ngày 11.5.2007 cũng đã vi phạm
nghiêm trọng những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS.
Phiên xử đã không đạt các tiêu chuẩn
công khai
mặc dù toà không thông báo xử kín. Khi tham dự, tôi có cảm
tưởng rằng những người có mặt hôm đó thuộc thành phần được
chọn lọc. Trong số những người tham dự tôi nhận thấy nhiều
khuôn mặt quen thuộc làm việc trong các cơ quan công an. Người
thân, người quen và bạn bè của các bị cáo đã không thể vào
tham dự phiên xử. Họ bị chặn lại ngoài cổng toà vì không có
giấy mời. Mỗi bị cáo chỉ có duy nhất một thân nhân trực hệ
được tham gia nhưng họ chỉ vào được phòng xử sau khi phiên toà
đã bắt đầu.
Họ bị đưa ngồi vào hàng ghế sau cùng của phòng xử nên không
thể nghe rõ hết phiên xử này. Các quan sát viên quốc tế và
phóng viên bị hạn chế sự quan sát vì họ bị đưa vào một phòng
riêng để theo dõi phiên xử qua màn ảnh truyền hình. Lời nói
trong phiên toà được phát qua hệ thống loa. Trong khi lời nói
của thẩm phán chủ toạ và kiểm sát viên luôn luôn được nghe
thấy rất đầy đủ thì nhiều lúc lời phát biểu của các luật sư và
bị cáo đã không nghe được rõ ràng. Sự kiện này đã khiến cho
người tham dự không hiểu đầy đủ lý luận của phía bị cáo và
luật sư, đã cười chế giễu và tạo nên một áp lực đè nặng lên
tâm lý các bị cáo và luật sư. Thẩm phán chủ toạ đã không can
thiệp để thay đổi tình trạng này. Như vậy Toà án Nhân dân
thành phố Hà Nội đã vi phạm nguyên tắc tố tụng cơ bản về:
•
Xét xử công khai
(Đ.18, BLTTHS).
Cách bố trí chỗ ngồi trong phòng xử đã tố cáo một
sự thiên vị
rõ ràng. Trong khi 2 kiểm sát viên được ngồi gần nhau trên bục
cao thì 2 luật sư của chồng tôi đã bị sắp xếp ngồi cách xa
nhau. Họ không thể trao đổi với nhau và với chồng tôi. Trong
phiên xử, các bị cáo không được đối xử bình đẳng vì họ không
được cho nghe phần xét hỏi các người làm chứng. Tất cả các
nhân chứng được thẩm phán chủ toạ mời ra xét hỏi đều là nhân
chứng buộc tội. Nhân chứng gỡ tội do chồng tôi mời đã không
được chủ toạ mời tham gia phần xét hỏi nhân chứng tại toà.
Thẩm phán chủ toạ cũng đã không mời luật sư xét hỏi các nhân
chứng.
Bị cáo và luật sư đã không được phép đề cập đến hoặc tranh
luận và bào chữa về các vấn đề tôn giáo, tổ chức chính trị và
đảng phái. Trong khi đó kiểm sát viên lại được nói về vấn đề
này, tạo ấn tượng sai lầm rằng chồng tôi chống Nhà nước một
cách có tổ chức.
Trong phần phát biểu sau cùng dành cho bị cáo, thẩm phán chủ
tọa đã nhiều lần cắt lời chồng tôi và mặc dù chồng tôi có yêu
cầu chủ toạ không được giới hạn thời gian phát biểu vì làm như
thế là vi phạm Đ.220 BLTTHS.
Bản án sơ thẩm đã phạm một lỗi lầm nghiêm trọng khi không ghi
trung thực lại diễn biến của phiên xử, đặc biệt ở những đoạn
liên quan đến lời khai của chồng tôi trước toà. Ở nhiều chỗ,
bản án ghi rằng chồng tôi đã khai nhận một việc nào đó mặc dù
tại phiên xử chồng tôi đã nói rõ ràng là hoặc không thừa nhận,
hoặc chỉ thừa nhận một phần hay không nhớ rõ điều đó. Việc ghi
sai này đã tạo ngộ nhận tai hại rằng chồng tôi đã thú nhận tội
lỗi và việc kết án của toà là đúng. Do đó Toà án Nhân dân
thành phố Hà Nội đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc tố
tụng cơ bản sau đây:
•
Xác định sự thật của vụ án
(Đ.10,BLTTHS)
•
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
(Đ.19,BLTTHS)
•
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(Đ.11,BLTTHS)
Như thế việc xét xử chồng tôi đã không diễn ra một cách công
bằng theo thủ tục luật định. Sự thật của vụ án do đó đã không
được xác định một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ vì
trong tiến trình tố tụng đã xảy ra những vi phạm nghiêm trọng
BLTTHS. Vì các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm nghiêm
trọng quá nhiều nguyên tắc cơ bản của BLTTHS nên toà phúc thẩm
không thể chỉ sửa mà cần huỷ bỏ toàn bộ bản án sơ thẩm (BAST).
2) Chồng tôi đã thực thi các quyền công dân được ghi trong
Hiến pháp CHXHCNVN 1992 và được bảo đảm bởi các điều ước quốc
tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia ký kết
Theo Hiến pháp CHXHCNVN 1992 (HP 1992), công dân có các
quyền hiến định về dân sự như quyền tự do ngôn luận, quyền
tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền lập hội theo qui
định của pháp luật (Đ.69, HP), quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo (Đ.70, HP), quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm
(Đ.71, HP), quyền nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt
động văn hoá (Đ.60, HP), quyền được tham gia thảo luận các vấn
đề chung của cả nước (Đ.53, HP) và quyền khiếu nại (Đ.74, HP).
Chồng tôi trong tư cách là một luật sư có ý thức về chức năng
xã hội của mình đã cương quyết thực thi và bảo vệ đầy đủ những
quyền hiến định này vì đây là những thành tựu của quá trình
dân chủ hoá đất nước.
Trong HP 1992 và các văn bản quy phạm luật Việt Nam người ta
không tìm thấy định nghĩa về quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên
vì Việt Nam đã gia nhập Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và
Chính trị (CƯQT
QDSCT)
vào ngày 24.9.1982 và vì Việt Nam không đưa ra bảo lưu nào khi
ký kết Công ước này cho nên các định nghĩa về quyền tự do
ngôn luận trong Điều 19
CƯQT QDSCT
mặc nhiên được áp dụng một cách đầy đủ và trọn vẹn
cho các quyền dân sự tương ứng ghi trong HP 1992 như quyền tự
do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền
tự do tôn giáo, quyền nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt
động văn hoá và quyền được tham gia thảo luận các vấn đề chung
của cả nước.
Ngoài ra, Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước Quốc tế
do Quốc hội Việt Nam ban hành ngày 14.06.2005 định nghĩa rất
rõ rằng “Gia nhập là hành vi pháp lý do Quốc hội, Chủ tịch
nước hoặc Chính phủ thực hiện để chấp nhận sự ràng buộc của
điều ước quốc tế nhiều bên đối với nước CHXHCNVN” (Đ.2
K10). Luật này cũng qui định việc ưu tiên áp dụng điều ước
quốc tế tại Điều 6: “Trong trường hợp văn bản quy phạm
luật và điều ước quốc tế mà CHXHCNVN là thành viên có quy định
khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước
quốc tế”. Như vậy Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận cho mọi
công dân Việt Nam quyền tự do ngôn luận đầy đủ theo như quy
định của điều 19
CƯQT QDSCT.
Điều 19 CƯQT QDSCT quy định rằng:
(1)
Mỗi người có quyền giữ vững quan điểm mà không bị ai can
thiệp;
(2)
Mỗi người có quyền tự do bày tỏ; quyền này bao gồm quyền tự do
tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại thông tin và ý kiến
bằng cách truyền khẩu, bằng bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức
nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông tự chọn
khác, không kể biên giới quốc gia;
(3)
Việc hành sử những quyền được ghi tại khoản 2 nêu trên đòi hỏi
đương sự phải có những trách nhiệm và bổn phận đặc biệt. Do đó
quyền này chỉ có thể chịu một số giới hạn nhất định nào đó,
nhưng những giới hạn này phải được qui định bởi luật pháp và
vì nhu cầu:
a)
tôn trọng quyền tự do và thanh danh của người khác;
b)
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ công cộng
và đạo lý công cộng .
Article 19
International Covenant on Civil and Political Rights
1.
Everyone shall have the right to hold opinions without
interference.
2.
Everyone shall have the right to freedom of expression; this
right shall include freedom to seek, receive and impart
information and ideas of all kinds, regardless of frontiers,
either orally, in writing or in print, in the form of art, or
through any other media of his choice.
3.
The exercise of the rights provided for in paragraph 2 of this
article carries with it special duties and responsibilities.
It may therefore be subject to certain restrictions, but these
shall only be such as are provided by law and are necessary:
(a) For respect of the rights or reputations of others;
(b) For the protection of national security or of
public order (ordre public), or of public health or
morals.
Uỷ ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (Human Rights Committee) là
cơ chế được LHQ giao cho nhiệm vụ giám sát việc thi hành CƯQT
QDSCT ở tại các quốc gia thành viên và nhiệm vụ diễn giải tổng
quát về các điều khoản trong Công ước này. Những diễn giải này
sẽ giúp cho các quốc gia thành viên thực thi Công ước một cách
đúng đắn hơn. Các quốc gia thành viên có trách nhiệm phải gửi
báo cáo định kỳ về việc thực thi CƯQT QDSCT đến Uỷ ban Nhân
quyền LHQ này. Trong văn bản CCPR/C/21/Rev.1 (19.05.1989) Uỷ
ban này đã giải thích rõ về các khoản 1, 2 và 3 trong Điều 19
CƯQT QDSCT về quyền tự do ngôn luận như sau (trích đoạn):
1)
Khoản 1 (của Điều 19 CƯQT QDSCT, tôi chú thích)
đòi hỏi phải bảo vệ “Quyền giữ vững quan điểm mà không bị
ai can thiệp”. CƯQT QDSCT không chấp nhận bất cứ một hạn chế
hoặc ngoại lệ nào đối với quyền này (...)
2)
Khoản 2 qui định về việc bảo vệ quyền tự do bày tỏ. Quyền này
không chỉ bao gồm “quyền phổ biến mọi loại thông tin và ý
kiến” mà còn gồm cả quyền tự do “tìm kiếm” và “tiếp nhận”
những thông tin và ý kiến này dưới bất kể hình thức nào, “bằng
cách truyền khẩu, bằng bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ
thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông tự chọn khác,
không kể biên giới quốc gia”(…)
3)
…
4)
Khoản 3 đặc biệt nhấn mạnh rằng việc thực thi quyền tự do bày
tỏ cũng gắn liền với những trách nhiệm và bổn phận đặc biệt.
Vì thế CƯQT QDSCT cho phép (các quốc gia thành viên,
tôi chú thích) đặt ra một số hạn chế đối với quyền này trong
trường hợp có liên quan đến quyền lợi của các cá nhân khác
hoặc quyền lợi của toàn thể cộng đồng. Tuy nhiên nếu một quốc
gia thành viên muốn giới hạn quyền tự do bày tỏ thì việc đó
không được phá hỏng tự thân quyền này. Khoản 3 đặt ra những
điều kiện và chỉ cho phép (quốc gia thành viên, tôi chú thích)
đưa ra những hạn chế trong (khuôn khổ của, tôi chú thích) các
điều kiện này: việc hạn chế phải được “qui định bằng một đạo
luật”; những hạn chế này chỉ được đặt ra vì một trong các mục
đích qui định bởi điểm a và b của khoản 3; và quốc gia thành
viên phải biện minh được “sự cần thiết” của những hạn chế này
vì các mục đích đó.
Text of general comment :
1.
Paragraph 1 requires protection of "the right to hold opinions
without interference". This is a right to which the Covenant
permits no exception or restriction. The Committee would
welcome information from States parties concerning paragraph
2.
Paragraph 2 requires protection of the right to freedom of
expression, which includes not only freedom to "impart
information and ideas of all kinds", but also freedom to
"seek" and "receive" them "regardless of frontiers" and in
whatever medium, "either orally, in writing or in print, in
the form of art, or through any other media" of one's choice.
Not all States parties have provided information concerning
all aspects of the freedom of expression. For instance, little
attention has so far been given to the fact that, because of
the development of modern mass media, effective measures are
necessary to prevent such control of the media interfere with
the right of everyone to freedom of expression in a way that
is not provided for in paragraph
3.
Many reports of States parties confine themselves to
mentioning that freedom of expression is guaranteed under the
Constitution or the law. However, in order to know the precise
regime of freedom of expression, in law and in practice, the
Committee needs in addition pertinent information about the
rules which either define the scope of freedom of expression
or which set forth certain restrictions, as well as any other
conditions which in practice affect the exercise of this
right. It is the interplay between the principle of freedom of
expression and such limitations and restrictions which
determines the actual scope of the individual's right.
4.
Paragraph 3 expressly stresses that the exercise of the right
to freedom of expression carries with it special duties and
responsibilities and, for this reason certain restrictions on
that right are permitted which may relate either to the
interests of other persons or to those of the community as a
whole. However, when a State party imposes certain
restrictions on the exercise of freedom of expression, these
may not put in jeopardy the right itself. Paragraph 3 lays
down conditions and it is only subject to these conditions
that restrictions may be imposed: the restrictions must be
"provided by law"; they may only be imposed for one of the
purposes set out in subparagraphs (a) and (b) of paragraph 3;
and they must be justified as being "necessary" for that State
party for one of those purposes.
Việt Nam đã sống trong hoà bình và đã phát triển ổn định từ
năm 1975. Trong những năm qua Việt Nam không có cuộc bạo loạn
nào ở tầm mức quốc gia. Do đó theo quan điểm của luật quốc tế,
Việt Nam không nằm trong tình trạng mà cả nước bị đe doạ về
mặt chính trị hoặc an ninh hay trật tự. Ngoài ra, cũng theo
quan điểm này, sự kiện Việt Nam không ban hành một đạo luật
riêng biệt nào để giới hạn quyền tự do ngôn luận theo các mục
đích được ghi rõ trong Điều 19, Khoản 3, điểm a và b của CƯQT
QDSCT là một chứng cứ cho thấy Nhà nước CHXHCNVN đã mặc nhiên
công nhận cho công dân Việt Nam có đầy đủ quyền tự do có
quan điểm riêng và quyền tự do bày tỏ theo Điều 19 khoản 1 và
2 của CƯQT QDSCT mà không chịu bất cứ một giới hạn luật
định nào cả. Nói cách khác, nếu có một văn bản luật hay
dưới luật nào giới hạn quyền tự do ngôn luận thì văn bản này
phải bị xem vi phạm việc ký kết gia nhập và chính CƯQT QDSCT.
Việc chồng tôi có quan điểm chính trị riêng, việc chồng tôi sử
dụng quyền bày tỏ một cách ôn hoà qua những bài viết hoặc phát
biểu hay trao đổi, hành động tiếp nhận và phổ biến bài viết
hoặc ý kiến với người khác, dù người đó đang ở bất cứ nơi nào
trên thế giới là những điều hoàn toàn phù hợp với quyền tự do
ngôn luận trong Hiến pháp 1992 và CƯQT QDSCT của LHQ. Như đã
nêu ở trên, khi Việt Nam đã hội nhập thế giới và gia nhập
những điều ước quốc tế, thì lý luận cho rằng nếu là công dân
Việt Nam thì chồng tôi “phải tuyệt đối chấp hành pháp luật
của Việt Nam, nếu vi phạm thì sẽ phải bị nghiêm trị theo quy
định của pháp luật Việt Nam” (BAST, tr. 10) là một lý luận
cần nhưng không đủ. Không đủ vì ở đây toà sơ thẩm chỉ muốn
giới hạn vào luật hình sự mà không xét đến các bộ luật khác và
không xét đến sự mâu thuẫn có thể xảy ra giữa luật hình sự và
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Muốn cho đầy
đủ thì cần phải xem Luật quốc tế và Luật Việt Nam như là
một kết cấu chặt chẽ được ràng buộc bằng Luật Ký kết, Gia nhập
và Thực hiện Điều ước Quốc tế 2005. Nếu luật Việt Nam đã
được thích ứng với điều ước quốc tế thì sự phân biệt giữa luật
Việt Nam và luật quốc tế không cần phải đặt ra nữa. Còn trong
trường hợp luật Việt Nam chưa thích ứng được với điều ước quốc
tế thì điều 6 của Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước
Quốc tế cho phép ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế. Một cách cụ
thể, nếu xét thấy Đ.88 Bộ luật Hình sự (BLHS) không phù hợp
với điều ước quốc tế thì Nhà nước Việt Nam sẽ phải huỷ bỏ hay
ngưng thi hành nó.
Không phải chỉ có một mình chồng tôi nhận thấy rằng hiện Việt
Nam ta có nhiều quy phạm luật và quy phạm dưới luật về quyền
con người và quyền công dân chưa hoàn toàn phù hợp với quy
phạm của Hiến pháp. Quan điểm này được nhiều nhà nghiên
cứu chia xẻ, thí dụ như PGS TS Nguyễn Văn Động viết trong sách
“Quyền Con Người, Quyền Công Dân Trong Hiến Pháp Việt Nam”
(nxb Khoa học Xã hội, 8.2005). Cũng như nhiều người khác,
chồng tôi cũng nêu lên những ý kiến về việc phải có một Toà
án Hiến pháp để phán xét về tính hợp hiến của các quy phạm
luật và dưới luật. Một vấn đề lớn khác đang được xã hội thảo
luận là việc nội luật hoá trong Hiến pháp và luật pháp
các điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập mà, theo PGS TS Nguyễn Văn Động, việc tôn
trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các điều ước là nghĩa vụ của
nhà nước và nhân dân (sđd, tr. 231). Do đó những phát biểu và
bài viết của chồng tôi liên quan đến các vấn đề trên cần được
xem là những đóng góp xây dựng để hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam và để Việt Nam hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng
quốc tế.
Cũng cần nhấn mạnh rằng chồng tôi không phải là người duy nhất
thực thi các quyền công dân hiến định. Từ trước khi chồng tôi
bị giam giữ cho đến nay, đã có rất nhiều trí thức, nhà nghiên
cứu, luật sư, chuyên viên, cán bộ cao cấp, đại biểu quốc hội
và những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước khác – dù còn tại chức
hay đã về hưu – đã thực hiện quyền tự do ngôn luận hiến định
này trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trong cũng như
ở ngoài nước. Không khác gì chồng tôi, họ cũng tham gia đóng
góp nhũng ý kiến sôi nổi về các vấn đề như Điều 4 Hiến Pháp,
quan niệm đảng lãnh đạo, đa nguyên, đa đảng, dân chủ, nhân
quyền, hoà giải với cộng đồng người Việt hải ngoại. Thông
thường, Nhà nước cần khuyến khích một nền văn hoá trao đổi
quan điểm một cách ôn hoà như thế về những vấn đề của đất
nước.
3) Chồng tôi không vi phạm điều 88 của Bộ luật hình sự
a) Bản án dựa trên nhiều kết quả điều tra thiếu chính xác để
kết luận hàm hồ
Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2007/HSST đã dựa trên thiên kiến
buộc tội và những điều tra cẩu thả của cơ quan công an nên có
nhiều kết luận hàm hồ đến mức phi lý.
Ngay trong phần mở đầu, bản án đã cố tình tạo ra ấn tượng phạm
tội bằng một sự kiện bắt quả tang: “Sáng ngày 03.02.2007,
tại văn phòng luật sư Thiên Ân - số 10 Đoàn Trần Nghiệp, Cơ
quan an ninh điều tra Công an thành phố Hà Nội và Bộ Công an
phát hiện Lê Thị Công Nhân đang tuyên truyền chống Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xuyên tạc các chủ trương
chính sách của nhà nước ta về dân chủ, nhân quyền cho 03 sinh
viên Khoa Báo chí Trường Cao đẳng phát thanh truyền hình I Hà
Nam” (BAST, tr. 2). Đây là một xác định ngây ngô. Sự thật
là vào ngày 3.2.2007, luật sư Lê Thị Công Nhân chỉ vừa kịp
chào hỏi và phát bài viết “Nhân phẩm, nền tảng của nhân quyền”
cho 3 sinh viên Hà Nam thì công an đã ập vào.
Theo lời khai thống nhất của Lê Thị Công Nhân, Phạm Văn Trội
và Bạch Ngọc Dương, mọi việc diễn ra trong khoảng thời gian
chưa đầy 5 (năm) phút thì công an đã đến giải tán vào lúc
10g10’. Ngay cả Giáp Văn Hiếu là người được Viện Kiểm sát mời
ra làm nhân chứng cũng khai trước toà rằng ông “chưa kịp đọc
tài liệu thì công an đã vào bắt”. Năm (5) phút là thời gian
rất ngắn ngủi và chắc chắn không thể đủ để cho Lê Thị Công
Nhân làm công việc to tát kinh khủng là “tuyên truyền chống
Nhà nước … và xuyên tạc các chủ trương chính sách của nhà nước
ta về dân chủ, nhân quyền”. Cũng cần nói thêm rằng bài
“Nhân phẩm, nền tảng của nhân quyền” là một bài nghiên cứu học
thuật của tiến sĩ triết học Đỗ Mạnh Tri ở Pháp. Tính học thuật
thể hiện ngay tại đầu bài khi tác giả Đỗ Mạnh Tri ghi rõ
“cách trình bày dùng phương pháp phân tách, lồng vào phương
pháp lịch sử. Nói cách khác: dựa vào một vài mốc lịch sử để
tiếp cận ý niệm nhân phẩm và dẫn chứng tính cách nền tảng của
ý niệm này trong tiến trình nhận thức và đề cao nhân quyền”.
Về nội dung, bài này đã dùng một số ý niệm triết học và thần
học và không có một ý nào hoặc một chữ nào đả động đến Việt
Nam. Khi toà chấp nhận một kết luận hoàn toàn không có cơ sở
thực tế, không hợp lý và sai sự thật như vậy, tôi cho rằng toà
đã có sẵn thành kiến với các bị cáo.
Toà sơ thẩm đã tiếp nhận một cách thiếu suy xét nhiều ý kiến
khác của cơ quan điều tra. Cũng giống như cáo trạng, bản án đã
gộp chung nhiều người, nhiều việc không liên quan vào với nhau
để tạo cảm tưởng về sự nghiêm trọng và rằng chồng tôi là người
cầm đầu xúi giục. Bản án viết: “cơ quan an ninh điều tra
còn xác định Phạm Văn Trội và 4 nhân viên văn phòng luật sư
Thiên Ân là: Phạm Sỹ Nguyên, Nguyễn Xuân Đệ, Trần Thanh và
Nguyễn Thị Hương Lan do bị Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân
tuyên truyền lôi kéo nên đã tham gia vào các hoạt động tuyên
truyền xuyên tạc chống nhà nước“ (BAST, tr. 3). Trước hết,
những nhân sự trên không làm việc trên cùng lãnh vực với nhau.
Ông Phạm Văn Trội là thành viên của Uỷ ban Nhân quyền Việt
Nam. Ông Nguyễn Xuân Đệ là nhân viên lái xe và bà Trần Thanh
là nhân viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Luật. Chỉ
riêng bà Nguyễn Thị Hương Lan là kế toán viên và ông Phạm Sỹ
Nguyên là nhân viên của văn phòng luật sư Thiên Ân. Năm người
này có những công việc làm hàng ngày khác nhau, có người chỉ
làm những việc rất chuyên môn như lái xe hay kế toán. Những
nhân viên thuộc 2 văn phòng khác nhau của chồng tôi đã khai
rằng họ không có hoạt động tuyên truyền xuyên tạc chống Nhà
nước và do đó cũng không bị ai lôi kéo cả. Ông Trội là người
hoạt động độc lập và cũng khai không bị chồng tôi lôi kéo.
Việc thẩm phán chủ toạ Nguyễn Hữu Chính không mời ông Phạm Văn
Trội và các nhân viên của chồng tôi tham gia phần xét hỏi nhân
chứng tại phiên toà ngày 11.05.2007 đã khiến cho sự thật của
vụ án bị bóp méo theo hướng bất lợi cho chồng tôi.
b) Điều 88 BLHS có nhiều khái niệm quá mơ hồ và bao quát
Từ ngày BLHS 1999 được ban hành đến nay, Nhà nước đã chưa có
văn bản pháp luật nào để hướng dẫn về nội hàm của các hành vi
được ghi trong Chương “Xâm phạm An ninh Quốc gia” của bộ luật
này, ở đây cụ thể là các hành vi theo Đ.88 BLHS. Thế nào là
chống? Chống Nhà nước, chống chính quyền là gì? Hành vi như
thế nào và ở mức độ nào thì bị gọi là chống Nhà nước, chống
chính quyền? Tuyên truyền là gì, hoạt động ở mức độ nào thì bị
xem là tuyên truyền? Phê bình chính sách của Đảng hoặc của Nhà
nước, phê bình hoặc tố cáo các hành vi vi hiến, vi luật của
cán bộ Đảng, cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, nêu lên
những sự thật lịch sử có bị xem là hành vi xuyên tạc, phỉ báng
chính quyền không? Như thế nào là tuyên truyền những luận điệu
chiến tranh tâm lý? Tuyên truyền như thế nào thì bị xem là gây
hoang mang trong nhân dân? Hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành
các tài liệu là gì và ở mức độ nào thì bị xem là phạm luật?
Những khái niệm này đến nay vẫn còn rất mơ hồ và bao quát
khiến ai muốn hiểu thế nào cũng được. Nói chung các luật gia,
các nhà nghiên cứu ở Việt Nam vẫn còn xem những vấn đề vừa kể
thuộc vào loại chính trị “nhạy cảm” nên đã tránh né các vấn đề
này và không có công trình nghiên cứu làm sáng tỏ các khái
niệm trên. Họ vẫn còn mang mặc cảm sợ sệt mà quên rằng Việt
Nam đang ở trong hoàn cảnh mới, đang hội nhập quốc tế, đang
xây dựng Nhà nước pháp quyền và đang cần tìm sự hoà hợp giữa
những điều khoản trong Chương Xâm phạm An ninh Quốc gia của
BLHS, những quyền công dân trong Hiến pháp và nhân quyền trong
điều ước quốc tế. Vì luật pháp không rõ ràng, vì không có cách
hiểu chính thống nên trong xã hội đã có nhiều cách hiểu khác
nhau. Công dân nào bạo dạn thì cho rằng mình có quyền làm
những gì mà pháp luật không cấm, công dân nào yếu đuối thì bị
hoang mang không dám sử dụng quyền công dân hiến định của mình
một cách đúng mức. Còn cơ quan thực thi pháp luật lại có cách
hiểu riêng, áp dụng co giãn tuỳ tiện, khi bắt giam người này
khi làm ngơ người kia, lúc đưa ra truy tố lúc lại áp dụng biện
pháp hành chánh, khiến cho việc áp dụng luật không được nghiêm
minh, làm cho dân chúng hoang mang vì không biết hành động thế
nào cho đúng ý Nhà nước. Theo tôi, Nhà nước pháp quyền Việt
Nam không thể để cho một điều luật quan trọng như Đ.88 BLHS bị
diễn giải tuỳ tiện như thế được. Do đó các cơ quan nhà nước có
chức năng lập pháp phải có nhiệm vụ mau chóng làm rõ các khái
niệm của Đ.88 BLHS. Trong khi chờ đợi, Nhà nước có thể tạm
hoãn áp dụng Điều 88 này dựa trên nguyên tắc “Không có tội khi
không có luật” (Đ.2 BLHS). Trong phiên xử sơ thẩm, tuy
kiểm sát viên có thú nhận sự thiếu sót của BLHS, nhưng lại đưa
ra những diễn giải riêng để kết tội chồng tôi. Do đó tôi xin
phản bác như sau.
c) Chồng tôi không chống Hiến pháp và không chống Nhà nước
CHXHCNVN
Trong phần trình bày dưới đây tôi sẽ chủ yếu sử dụng những
định nghĩa của Tự điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam (BKTT). Đây
là bộ tự điển được xem là chính thống ở Việt Nam vì nó được
soạn thảo bởi một cơ quan chính phủ. Tự điển này đã định nghĩa
khái niệm Nhà nước một cách rất trừu tượng: “Nhà nước là tổ
chức chính trị của xã hội, công cụ cơ bản của quyền lực chính
trị trong xã hội có giai cấp” (BKTT Tập 3, 2003). Trong
khi đó, theo
Đ.2 HP
1992 thì “Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.(…)
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp
1992 qui định rõ các cơ quan nhà nước là Quốc hội
(Đ.83, HP),
Chủ tịch nước (Đ.101, HP), Chính phủ (Đ.109, HP), Hội
đồng nhân dân (Đ.119, HP), Toà án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân (Đ.126, HP).
Cần xác
định rằng, theo HP 1992, Đảng Cộng sản Việt
Nam tuy là “lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”
(Đ.4, HP) nhưng không được xem là cơ quan nhà nước. Do đó nếu
có một công dân Việt Nam nào chống đảng Cộng sản Việt Nam thì
sự chống đối này cũng không thể bị đem đồng hoá với việc chống
Nhà nước.
Chống nhà nước được hiểu là chống một hay nhiều cơ quan nhà
nước hiến định kể trên. “Chống” là làm trái lại, ngược lại.
Theo nghĩa chính trị, chống là “Chống đối”, nghĩa là chống lại
với thái độ đối địch. Vấn đề đầu tiên cần đặt ra ở đây là nếu
một công dân Việt Nam có quan điểm (trong đầu) trái với quan
điểm của Nhà nước Việt Nam thì công dân đó có phạm tội hình sự
không? Các vị lãnh đạo nhà nước Việt Nam trả lời là không.
Bằng chứng là các vị luôn luôn khẳng định rằng chính quyền
Việt Nam không giam giữ ai vì lý do bất đồng chính kiến hoặc
Việt Nam không có tù nhân chính trị mà Việt Nam chỉ giam giữ
những người vi phạm luật pháp. Vậy câu hỏi tiếp theo là khi
một công dân đã có quan điểm “chống đối” thì hành vi nào của
công dân này bị xem là phạm tội và hành vi nào là hành vi được
bảo vệ bởi quyền hiến định về tự do ngôn luận (và như thế
không phạm tội)? Vì Đ.88 BLHS xem ý thức chống Nhà nước là yếu
tố chủ quan của tội phạm cho nên điều luật này rất dễ bị lạm
dụng khi được áp dụng trong thực tế. Luật quốc tế giải quyết
vấn đề này một cách đơn giản hơn khi phân biệt rõ ràng rằng
các hành vi chống đối bằng bạo lực là hành vi phạm tội hình sự
và hành vi bày tỏ ý kiến chống đối một cách ôn hoà là không
phạm tội hình sự. Để tôn trọng việc gia nhập CƯQT QDSCT, Nhà
nước Việt Nam phải xem những hành động đấu tranh, phê bình,
chỉnh sửa một cách ôn hoà, bằng lời nói hay bằng chữ viết của
công dân đối với các cơ quan hoặc nhân viên nhà nước là những
hành vi hợp pháp vì được bảo vệ bởi quyền công dân trong Hiến
pháp (Đ.50, Đ.69 HP) và quyền tự do ngôn luận trong CƯQT QDSCT.
Quyền này cũng đang được bảo vệ và khuyến khích ở mọi quốc gia
khác trên thế giới.
Chồng tôi đã nhiều lần khẳng định - cả trong phiên xử sơ thẩm
- rằng chồng tôi không chống Nhà nước
CHXHCNVN
mà chỉ thực hiện các quyền công dân hiến định. Nhưng toà sơ
thẩm vẫn cứ dựa vào những suy đoán hời hợt để kết luận rằng
chồng tôi chống nhà nước. Toà sơ thẩm đã đưa ra 3 lý do để
kết tội chồng tôi chống Nhà nước: vì chồng tôi chống Hiến
pháp, vì có liên lạc với những người chống Nhà nước và vì là
cảm tình viên hoặc thành viên của các tổ chức chống nhà nước.
Cả 3 lý do này đều không vững.
Nếu xét kỹ thì lập luận của toà sơ thẩm nhằm chứng minh rằng
chồng tôi chống Hiến pháp 1992 đã dựa trên một tiền đề sai.
Tôi khẳng định rằng chồng tôi không chống mà còn thường có
hành vi bảo vệ tinh thần của Hiến pháp 1992, đặc biệt tinh
thần tôn trọng quyền công dân trong hiến pháp này. Trong bài
viết “Quyền Tự do Thành lập đảng ở Việt Nam” được toà xem là
một chứng cớ tiêu biểu, chồng tôi nhận xét rất chính xác rằng
Hiến pháp 1992 không có điều khoản nào ngăn cấm việc thành lập
các chính đảng khác bên cạnh đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó -
dưới cái nhìn của một luật gia - chồng tôi cho rằng công dân
Việt Nam có quyền thành lập chính đảng. Chồng tôi đã áp dụng
nghiêm túc một nguyên tắc chính yếu của Nhà nước pháp quyền,
đó là nguyên tắc “người dân có quyền làm mọi điều mà pháp luật
không cấm” (BKTT, sđd). Theo BKTT, “Nguyên
tắc này thể hiện nội dung dân chủ của nhà nước, phát huy mọi
sáng tạo của các chủ thể phục vụ lợi ích của xã hội, của Nhà
nước và của công dân”.
Trên thực tế, Hiến pháp 1992 không còn qui định rằng Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội
nữa. Đây là một thay đổi lớn vì Hiến pháp 1980 còn qui
định rằng Đảng cộng sản Việt Nam là “lực lượng duy nhất
lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội” (Điều 4, HP1980). Vào thời
điểm năm 1980, trên chính trường Việt Nam, ngoài đảng Cộng sản
còn có thêm hai đảng Dân chủ và đảng Xã hội, và hai đảng này
còn tồn tại đến năm 1988. Như vậy trong 8 năm thực thi Hiến
pháp 1980 với một qui định rõ ràng về sự lãnh đạo duy nhất của
đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam cũng không xem đảng Dân chủ
và đảng Xã hội là những đảng bất hợp pháp. Xin nhấn mạnh rằng
hai chính đảng này được thành lập vào các năm 1944, 1946 và đã
tự ý giải thể vào năm 1988 chứ không phải bị chính quyền giải
tán hay cấm hoạt động. Ngày nay, khi Điều 4 Hiến pháp 1992 đã
bỏ đi chữ “duy nhất” trong cụm từ “lãnh đạo duy nhất” của Điều
4 Hiến pháp 1980, thì mọi suy diễn về sự duy nhất của đảng
Cộng sản Việt Nam trên chính trường Việt Nam và từ đó cho rằng
hoạt động của các đảng phái khác là bất hợp pháp đều không có
cơ sở lý luận và thực tế vững chắc. Vì đã dùng một tiền đề sai
về tính
chất “duy nhất” (“Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng duy nhất lãnh đạo Cách mạng Việt Nam”)
cho nên toà sơ thẩm đã liên tiếp kết luận sai khi cho rằng
“mọi đảng phái, hoạt động (chép theo đúng
nguyên bản, tôi ghi chú) đều là vi phạm, đều là bất hợp pháp“
và “mọi hành vi phê
phán Đảng Cộng sản … là vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp”
(BAST, tr. 6). Bản án đã dựa trên lập luận sai này nên đã kết
án chồng tôi một cách phi lý về tội chống Nhà nước.
Viện Kiểm sát Nhân dân và Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội đã
tiếp nhận thiếu suy xét những suy đoán hàm hồ của cơ quan an
ninh điều tra. Toà sơ thẩm đã dựa vào sự kiện là chồng tôi có
liên lạc với các Việt kiều hải ngoại như các ông Vũ Quốc Dụng,
Nguyễn Đình Thắng và Trần Ngọc Thành để kết luận rằng chồng
tôi chống Nhà nước (BAST,
tr. 6). Cả bản cáo trạng lẫn bản án đã có kết luận
vơ đũa rằng họ là “những phần tử người Việt
Nam lưu vong ở nước ngoài có ý thức chống đối Nhà nước ta
quyết liệt”
(BAST,
tr. 6). Nhưng bản án sơ thẩm không dẫn
chứng được rằng trong số những người nêu trên có người nào đã
làm gì để bị toà xem là “phần tử có ý thức chống đối Nhà nước
ta quyết liệt”. Những người kể trên là những nhân vật hoạt
động công khai trong nhiều lãnh vực khác nhau ở nước ngoài
trong đó có hai người làm việc trong những tổ chức phi chính
phủ quốc tế. Toà đã không nghiên cứu kỹ về họ nên đã viết sai
cả tên họ cũng như tên của tổ chức của họ. Một người tên Vũ
Quốc Dụng và đang là Trưởng ban Á châu của Hiệp hội Nhân quyền
Quốc tế (International Society for Human Rights, ISHR) chứ
không phải là Vũ Đức Dụng của Mạng lưới Nhân quyền Quốc tế.
Cái tên “Mạng lưới Nhân quyền Quốc tế” thoát thai từ định kiến
sai lầm rằng “Vũ Quốc Dụng là người cầm đầu Mạng lưới Nhân
quyền Việt
Nam ở Mỹ”
(báo An ninh Thế giới online ngày 22.4.2007 và nhiều báo
khác). Người kia, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng là Giám đốc Điều
hành của Uỷ ban Cứu Người Vượt Biển (Boat People SOS) chứ
không phải là “người cầm đầu Uỷ ban Cứu trợ Thuyền nhân Việt
Nam ở Mỹ”. Chữ cầm đầu dùng trong câu này cố ý gây cảm tưởng
rằng uỷ ban này là một tổ chức bất hợp pháp. Trên thực tế hai
tổ chức phi chính phủ này đã hoạt động uy tín lâu năm tại quốc
gia sở tại mà họ đăng ký tổ chức cũng như tại nhiều quốc gia
khác. Cho đến nay không có bằng chứng nào cho thấy rằng các tổ
chức này chủ trương hay có hoạt động chống đối bất cứ một nhà
nước cá biệt nào. Ngoài ra, tổ chức ISHR đã được Liên Hiệp
Quốc cấp cho Quy chế Tham Vấn (Consultative Status) nên không
thể vượt ra ngoài phạm vi của Hiến chương LHQ để hoạt động lật
đổ chính quyền của một quốc gia thành viên của LHQ được. Do đó
kết luận rằng chồng tôi có ý định cùng với những người này –
mà không xác định cụ thể là ai - “thành lập một số tổ chức,
đảng phái chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, chống lại nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (BAST,
tr. 6) là một cáo buộc hoàn toàn vô căn cứ và phi
thực tế.
Bản án còn cáo buộc chồng tôi là thành viên của tổ chức “Công
đoàn Độc lập”, “Đảng Thăng tiến” và “Khối 8406”, và là cảm
tình viên của “Đảng Dân chủ 21”. Tại phiên xử, thẩm phán chủ
toạ đã không cho chồng tôi và các luật sư bào chữa được tranh
luận về vấn đề đảng phái mặc dù đây là vấn đề quan trọng, có
mục đích qui kết về ý thức chống Nhà nước có tổ chức của chồng
tôi. Đây là một thiếu sót lớn. Tôi sẽ không xét đến cáo buộc
rất yếu liên quan đến vấn đề “cảm tình viên của Đảng Dân chủ
21”. Cáo buộc này rất yếu vì khi chính Nhà nước chưa truy cứu
trách nhiệm pháp lý của các thành viên lãnh đạo của đảng Dân
chủ 21 này, nghĩa là chưa xem đảng này là bất hợp pháp, thì
chưa thể kết tội một người bị cáo buộc là cảm tình viên như
chồng tôi . Bản án đã xác định một cách nhập nhằng và cẩu thả
rằng “Bị
cáo đã tham gia và ủng hộ tích cực cương lĩnh hoạt động của
cái gọi là „Đảng Thăng Tiến Việt Nam“ và „Khối 8406“ của
Nguyễn Văn Lý - một tổ chức hoạt động bất hợp pháp tại Việt
Nam”
(BAST,
tr. 6). Viết như thế là sai. Thứ nhất,
việc gộp
chung Khối 8406 và đảng Thăng Tiến vào làm một tổ chức là sai
vì ai cũng biết rằng
Khối 8406
và Đảng Thăng tiến là 2 thực thể khác nhau. Thực tế đã cho
thấy rằng có nhiều người nằm trong Khối 8406 nhưng không phải
là đảng viên của đảng Thăng Tiến. Thứ nhì, chồng
tôi không hề tham gia đảng Thăng tiến mà
chỉ tham
gia Khối 8406. Vậy cáo buộc rằng chồng tôi tham gia đảng Thăng
tiến là sai. Khối 8406 gồm những người ký tên ủng hộ “Tuyên
ngôn Tự do Dân chủ” và không phải là của riêng của linh mục
Nguyễn Văn Lý. Cần xác định rằng Khối 8406 không có cương lĩnh
và cũng không có chương trình làm việc thống nhất vì Khối 8406
không phải là một đảng chính trị. Có khi, có những người trong
nhóm này có quan điểm hành động khác nhau. Thí dụ, trong vấn
đề bầu cử Quốc hội khoá 7,
linh mục Nguyễn Văn Lý chủ trương tẩy chay cuộc bầu cử này và
đã có nhiều văn bản kêu gọi cho việc này. Trong khi đó ai cũng
biết rằng chồng tôi là người công khai tuyên bố không
tẩy chay bầu cử và ủng hộ việc công dân ra ứng cử độc lập.
Vậy, việc qui kết chồng tôi ủng hộ tích cực “cương lĩnh hoạt
động của Khối 8406”, một cái không hiện hữu, cũng hoàn toàn
sai.
Việc cáo buộc chồng tôi là thành viên của tổ chức “Công đoàn
Độc lập” cũng dựa trên cách lập luận cẩu thả tương tự. Thay vì
chứng minh bằng cách đưa ra danh sách thành viên của tổ chức
này, toà
sơ thẩm
đã dựa
vào những dấu hiệu mơ hồ như “Theo lời khai của
nhân chứng Trần Văn Hoà khẳng định tháng 9 năm 2006, Đài yêu
cầu Hoà lên Hà Nội để cùng Đài sang Trung Quốc gặp người có
tên là Trần Ngọc Thành là Việt kiều ở Ba Lan sang bàn về thành
lập cái gọi là „Tổ chức Công đoàn" (BAST,
tr. 7). Toà đã không cho kiểm chứng lời khai này.
Sau này nhân chứng Trần Văn Hoà đã cho biết rằng ông ta bị
công an tra tấn để mớm cung và ép cung trong thời gian bị giam
giữ từ ngày 21.9.2006 đến ngày 3.10.2006 (lời khai ngày
13.7.2007). Do đó trên nguyên tắc, các lời khai mà công an lấy
được của ông Hoà trong thời gian này phải bị xem là vô giá trị
trước toà. Ông Hoà cho biết rằng dù bị ép cung ông đã chỉ khai
về những việc liên quan đến chính mình. Ông Hoà khẳng định,
ông không hề khai rằng chồng tôi đã yêu cầu ông ta lên
Hà Nội để đi cùng đi với chồng tôi sang Trung quốc. Trên thực
tế, chồng tôi cũng không có dự định đi Trung quốc vào ngày
21.9.2006 vì đã chuẩn bị đi du lịch Thái Lan vào ngày
23.9.2007. Nhưng chuyến đi Thái Lan vào hôm ấy cũng như chuyến
đi sang Ấn Độ được dự định thực hiện vào ngày 25.10.2006 sau
đó đã bất thành. Cơ quan điều tra có thể kiểm chứng một cách
dễ dàng sự kiện chồng tôi bị công an chặn không cho xuất cảnh
tại phi trường Nội Bài vào 2 ngày ấy. Cáo buộc chồng
tôi là thành viên của tổ chức Công đoàn Độc lập là võ đoán và
do đó vô căn cứ.
d) Cần có đánh giá thật chính xác về các vấn đề “tuyên truyền
xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân” và “làm ra, tàng
trữ, lưu hành tài liệu chống Nhà nước”
Như đã phân tích ở trên, đối với chồng tôi, tội phạm theo Đ.
88 BLHS không được cấu thành vì thiếu yếu tố chủ quan là động
cơ chống Nhà nước.
Tuy nhiên tôi xin được bàn thêm về những khái niệm được nêu
lên trong các điểm a và c của khoản 1 Đ.88 BLHS vì tôi có cảm
tưởng rằng toà sơ thẩm đã có quan niệm rất tuỳ tiện, làm cho
quyền tự do ngôn luận hiến định bị mất đi ý nghĩa đích thực
của nó. Theo
tự điển BKTT (sđd),
tuyên truyền là “hành vi phổ biến một chủ
trương, một học thuyết để làm chuyển biến thái độ của quần
chúng và thúc đẩy quần chúng hành động theo một đường lối và
nhằm một mục đích nhất định”.
Trước hết cần xác định rằng tuyên truyền là một từ ngữ được
dùng riêng trong lãnh vực chính trị với một nội hàm nhất định
nên không thể bị đem ra sử dụng một cách bừa bãi được. Cách
nói “ông bạn A tuyên truyền với ông bạn B rằng …” hay “ông bố
tuyên truyền với đứa con rằng …” là lối dùng từ bừa bãi. Tuy
nhiên tuỳ cách nhìn từ các nền văn hoá hoặc thể chế chính trị
khác nhau mà bản thân từ tuyên truyền mang nghĩa tiêu cực hay
tích cực. Trong những nền văn hoá xem trọng nhân phẩm của con
người cá nhân ở phương Tây, hành vi tuyên truyền - với bất kể
nội dung tuyên truyền nào - luôn mang nghĩa tiêu cực vì bản
thân hành vi này đã có chủ ý lèo lái đối tượng về một lối suy
nghĩ hoặc hành động mà chính đối tượng đó không muốn có. Trong
cách hiểu này, tuyên truyền là nhồi sọ hoặc che lấp khả năng
phê phán của đối tượng. Trong khi đó, trên các phương tiện
truyền thông đại chúng ở Việt Nam, tuyên truyền được sử dụng
với nghĩa trung dung. Theo đó, hành vi tuyên truyền được đánh
giá xấu hay tốt là tuỳ vào nội dung được tuyên truyền. Người
nào tuyên truyền tốt cho chính sách của Nhà nước Việt Nam thì
là người tốt, người nào tuyên truyền chống đối nó thì bị xem
là phạm pháp. Nhưng dù hiểu thế nào, hành vi tuyên truyền cũng
có một số đặc điểm chung khiến người ta không
thể lầm lẫn nó với các hành vi truyền thông khác.
Về mặt nội dung,
những điều được đem ra tuyên truyền phải xuất phát từ một học
thuyết hoặc chủ trương, tức là tập hợp những suy tư có hệ
thống lớp lang. Không ai gọi sự bày tỏ những ý nghĩ vụn vặt,
nông cạn hay ngẫu hứng là tuyên truyền. Hiện nay cộng đồng
nhân loại có chung quan điểm chống lại một số chủ trương như
chủ trương diệt chủng, chống nhân loại, chống hoà bình, kỳ thị
chủng tộc, khủng bố. Do đó mọi hành vi tuyên truyền cho chúng
và thực hiện chúng cũng bị cấm. Thông thường, muốn cấm một đề
tài chính trị, các Nhà nước pháp quyền phải đưa ra luật để
định nghĩa rõ ràng về đề tài bị cấm đó. Luật pháp cũng sẽ phải
ấn định thật rõ những phương tiện nào bị cấm dùng để tuyên
truyền cho đề tài này. Thí dụ có thể chỉ cấm dùng tài liệu,
phim ảnh hoặc dấu hiệu nhưng không cấm lời nói. Như vậy không
phải bất cứ một hành vi nào liên quan đến một đề tài bị cấm
tuyên truyền thì cũng đương nhiên bị cấm. Luật pháp nhiều nước
còn nêu rõ cả các trường hợp ngoại lệ, thí dụ qui định rõ việc
cho phép sử dụng những phương tiện tuyên truyền - chẳng hạn
như tài liệu, phim ảnh - cho những đề tài bị cấm khi chúng
được dùng trong mục đích giải thích, giáo dục quần chúng, nghệ
thuật, nghiên cứu, tường thuật về lịch sử,…Thí dụ trong một
bài nghiên cứu về lịch sử chủ nghĩa Apartheid thì được sử dụng
những hình ảnh, trích dẫn lấy từ những tài liệu về chủ nghĩa
kỳ thị người da đen ở Nam Phi.
Về mặt hình thức,
người tuyên truyền luôn luôn tìm cách đưa ra thông tin một
cách thiên vị để dễ lèo lái đối tượng. Những thông tin này
không nhất thiết phải sai lạc. Chúng có thể đúng ở một mặt nào
đó nhưng nhất định không thể hiện vấn đề một cách trọn vẹn và
đầy đủ. Ngoài ra, để dễ kích động quần chúng, người tuyên
truyền thường dùng cách trình bày giản lược, có khuynh hướng
đánh động vào những cảm xúc hơn là khơi dậy sự suy xét của đối
tượng. Phương tiện tuyên truyền là tờ rơi, bích chương, phim
ảnh, báo chí, truyền hình, radio và các phương tiện truyền
thông đại chúng khác. Để thực hiện hiệu quả việc tuyên truyền,
chủ thể tuyên truyền đặt ra một kế hoạch quy mô để lập
đi lập lại vấn đề một cách có hệ thống trên các phương tiện
truyền thông.
Nếu thiếu một hay nhiều đặc điểm về nội dung, phương
thức thực hiện và cả về sự qui mô nêu trên thì một hành vi sẽ
không còn được gọi là tuyên truyền nữa. Thí dụ, nếu thiếu đặc
điểm thiên vị và đánh động cảm tính thì phương cách trình bày
sẽ có thể được gọi là một bài thuyết trình khoa học, bài
nghiên cứu hay lý luận học thuật. Nếu thiếu tính chất hệ thống
thì người ta gọi là lời phát biểu ngẫu hứng hay ý kiến riêng.
Nếu (trong lãnh vực kinh tế) có một món hàng được trình bày
lập đi lập lại nhiều lần trên bích chương dán trên đường phố
thì người ta có thể gọi đó là quảng cáo. Trong lãnh vực giáo
dục và tôn giáo người ta dùng chữ truyền bá hay truyền giáo.
Nếu không có sự qui mô về nội dung và hình thức, thí dụ như
trong trường hợp của một người phát biểu ngẫu hứng về một đề
tài thời sự trước vài người bạn trong một buổi gặp gỡ riêng
thân mật, thì một hành vi cũng không thể gọi là tuyên truyền.
Cả sự gộp chung tất cả những phát biểu rời rạc ấy cũng không
thể gọi là tuyên truyền.
Chủ thể của hành vi tuyên truyền có thể là một chính quyền,
một tổ chức hay một chính đảng. Lịch sử ngày nay còn nhắc đến
những chủ thể tuyên truyền nổi tiếng như nhà nước Liên Xô, Đức
thời Quốc Xã, Cộng hoà Dân chủ Đức. Trên thực tế, nếu xét về
mặt hiệu quả, tầm mức quy mô và tầm mức ảnh hưởng, cũng chỉ có
một nhà nước mới có khả năng tuyên truyền một cách hữu hiệu vì
chỉ có nhà nước mới có đủ phương tiện để phổ biến chủ trương
hoặc học thuyết một cách có hệ thống, trong thời gian lâu dài,
bằng các phương tiện truyền thông đại chúng, đến đông đảo quần
chúng để làm chuyển biến thái độ của quần chúng và thúc đẩy
quần chúng hành động theo một đường lối nhất định. Để tuyên
truyền, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng một bộ máy khổng lồ gồm
khoảng 700 cơ quan truyền thông làm việc có qui củ dưới sự
lãnh đạo rất chặt chẽ của các cơ quan văn hoá, thông tin và tư
tưởng. Để tuyên truyền cho một chính sách hoặc chủ trương, các
cơ quan nhà nước Việt Nam thường cho phổ biến hẳn một kế hoạch
về tuyên truyền trong đó ấn định rõ mục đích, yêu cầu, nội
dung, hình thức, phương tiện thực hiện và bộ phận chỉ đạo.
Trước ưu thế ấy, một cá nhân ở Việt Nam khó có thể làm được
công việc tuyên truyền hoặc phản tuyên truyền cho có kết quả.
Theo tôi, các cơ quan điều tra đã thổi phồng quá đáng về
qui mô cũng như tầm ảnh hưởng của các hoạt động của chồng tôi
khi cho rằng chồng tôi tuyên truyền chống chính quyền. Khi
xem xét vụ việc của chồng tôi, các cơ quan này đã không áp
dụng cùng một tiêu chuẩn đánh giá như đối với các cơ quan Nhà
nước. Cơ quan điều tra không chứng minh chồng tôi đã có kế
hoạch tuyên truyền cho học thuyết nào, với mục đích, yêu cầu,
nội dung, hình thức, phương tiện hoạt động và bộ phận chỉ đạo
ra sao. Trong phiên xử sơ thẩm, danh từ tuyên truyền đã bị
hiểu đơn giản là hành vi nói hay viết một điều gì đó cho người
khác nghe một vài lần. Nếu hiểu tuyên truyền theo nghĩa đó thì
bất cứ ai trao đổi điều gì với người khác cũng có thể bị xem
là phạm pháp nếu công an cho rằng điều đó có mục đích chống
Nhà nước.
Hiểu theo nghĩa đó thì bất cứ lời phát biểu bất mãn nào dù ở
trong quán nhậu hay phạm vi gia đình đều là hành vi phạm pháp.
Với cách hiểu như thế, số người vi phạm pháp luật ở Việt Nam
sẽ rất lớn . Hậu quả là các cơ quan thi hành luật sẽ xử lý
không xuể các trường hợp phạm tội. Việc phải nhắm mắt làm ngơ
đối với số đông và chỉ xử lý chọn lọc một số trường hợp đã đẻ
ra tình trạng áp dụng luật một cách tuỳ tiện hoặc độc đoán.
Nếu như vậy thì Đ. 88 BLHS này – ít nhất trong phiên bản hiện
nay – đã không khả thi nữa. Khi thấy có một điều luật bị vô
hiệu hoá như vậy thì trên nguyên tắc cơ quan làm luật Việt Nam
cần phải xét đến việc sửa đổi điều luật đó như thế nào đế việc
áp dụng được thực hiện nghiêm minh và tạo niềm tin hơn vào
công lý pháp quyền.
Về mặt hình thức, những điều mà chồng tôi đã làm không có qui
mô của hành vi tuyên truyền, nếu hiểu từ ngữ này theo đúng
nghĩa của nó. Chồng tôi chỉ mới gặp có một lần cả 3 người sinh
viên Hà Nam, trong đó có một người đã gặp 3 lần, mỗi lần từ 30
đến 90 phút, trong đó nội dung trao đổi luôn bị thay đổi, bao
gồm nhiều lãnh vực khác nhau từ hỏi thăm cá nhân, tư vấn pháp
lý, các vấn đề triết học, nhân quyền và thời sự. Toà dẫn chứng
rằng chồng tôi đã viết 2 bài “Quyền tự do thành lập đảng” và
“Dân trí Việt Nam có đủ khả năng xây dựng chế độ đa đảng” và
gửi đăng trên đài BBC ở Anh Quốc. Nhưng 2 bài này không mang
nội dung chống Nhà nước, như tôi đã phân tích trong vấn đề
Đảng và Hiến pháp ở trên. Những bài này, rõ ràng nhất là bài
thứ 2, mang tính cách đóng góp cho một cuộc thảo luận công
khai trên một trang web truyền thông và không mang tính tuyên
truyền. Như đã đề cập ở trên các nhân viên của chồng tôi đều
khai rằng họ không hoạt động tuyên truyền và không bị chồng
tôi lôi kéo vào các hoạt động này. Ông Phạm Văn Trội cũng khai
rằng ông tự ý tìm đến chồng tôi để nhờ tư vấn về nhân quyền và
pháp luật chứ không phải để hoạt động tuyên truyền. Tất cả
những người này đều có trình độ đại học nên biết rõ điều họ đã
làm.
Về mặt nội dung, bản án ghi rằng chồng tôi đã viết một số bài
và trả lời phỏng vấn trên một vài trang internet và kết luận
chung chung rằng những điều chồng tôi nói hoặc viết là
“sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền tại
Việt Nam, kích động nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng
sản Việt Nam, kêu gọi thay đổi chế độ, v.v…” (BAST,
tr. 7). Toà sơ thẩm không vạch được ra những điều
cụ thể nào do chồng tôi trực tiếp viết hoặc nói ra mà bị toà
xem là “xuyên tạc chính quyền nhân dân”. Theo BKTT
(sđd), xuyên tạc là “trình bày sai sự thật với dụng ý xấu”,
còn chính quyền là “bộ máy điều hành, quản lí công việc
của nhà nước”. Như vậy nếu điều được trình bày là đúng sự
thật thì đó không phải là xuyên tạc. Ngay cả khi điều được
trình bày đúng sự thật ấy có nhằm phê phán chính quyền thì
hành vi này cũng không nằm trong phạm vi truy tố của điểm a
Khoản 1 của Đ.88 BLHS vì điều này chỉ qui định về việc xuyên
tạc. Trong lãnh vực nhân quyền, tôi có thể khẳng định rằng
những điều mà chồng tôi từng phát biểu đều có cơ sở thực tế,
có chứng cứ, có nhân chứng nên không thể sai sự thật. Chồng
tôi vốn biết rằng nhân quyền là lãnh vực mà chính quyền xem là
nhạy cảm nên đã làm việc rất cẩn thận và trung thực, không bao
giờ dám phóng đại hoặc vu cáo. Nếu toà sơ thẩm mà để cho
chồng tôi tranh luận về đề tài này thì chắc chắn toà đã không
thể kết luận hàm hồ như thế. Tương tự, vì toà sơ thẩm không
nêu được chứng cứ cụ thể về việc chồng tôi “phỉ báng chính
quyền” nên lời cáo buộc này cũng không đứng vững. Phỉ báng là
“chê bai, nói xấu” (sđd) và thường tuỳ thuộc vào quan
điểm cá nhân. Theo tôi, đối với bất cứ việc làm nào cũng có
người khen kẻ chê. Cho nên đòi hỏi không có lời chê là một đòi
hỏi không thực tế. Toà đã dẫn chứng rằng chồng tôi “nói xấu
chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam” trong khi
vấn đề này lại hoàn toàn nằm ngoài phạm vi truy tố của Đ.
88 BLHS 1999. Tôi thiết nghĩ toà sơ thẩm đã không phân
biệt rạch ròi chính quyền với chế độ XHCN và Đảng CSVN. Cần
nói thêm rằng chỉ có BLHS của năm 1992 mới có tội danh “Tuyên
truyền chống chế độ XHCN” (Đ. 82) mà thôi. BLHS 1999 đã bỏ
điều này. Riêng cá nhân tôi còn cho rằng những người đứng ra
gánh vách việc nước – dù ở bất cứ nước nào - cũng cần phải
chấp nhận một mức độ bị phê phán cao hơn người thường vì có
như vậy họ mới nhạy bén đón nhận những bức xúc của nhân dân và
từ đó có thể làm tốt hơn công việc mà nhân dân giao phó cho họ
được.
Chồng tôi là một luật sư nhân quyền. Để giúp thân chủ đòi hỏi
quyền lợi chính đáng và hợp pháp, chồng tôi có quyền và có
trách nhiệm nâng cao sự hiểu biết của mình bằng cách nghiên
cứu các luồng tư tưởng và các quan điểm trên các lĩnh vực khác
nhau của xã hội. Luật khoa học và công nghệ cho biết:
“Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện
tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng
tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn” (Đ.2, Luật
khoa học và công nghệ). Toà sơ thẩm đã kết án chồng tôi vì tội
“tàng trữ, lưu hành tài liệu chống Nhà nước”. Theo tôi,
vì các nhà làm luật Việt Nam chưa làm rõ được các khái niệm
“tàng trữ và lưu hành” trong thời đại mới nên họ đã để cho các
qui định này của Đ.88 BLHS đục ruỗng nội dung của các quyền
hiến định về dân sự của công dân như quyền tự do ngôn
luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền nghiên
cứu khoa học và quyền được tham gia thảo luận các vấn đề chung
của cả nước. Tôi cho rằng nội dung của Đ.88 BLHS đang có
mâu thuẫn trầm trọng với nội hàm của quyền tự do nghiên
cứu và sáng tạo (Đ.51, Bộ luật Dân sự 2005) và chức năng xã
hội của luật sư (Đ.3, Luật Luật sư 2006), trong đó chức năng
xã hội của luật sư là “góp phần bảo vệ công lý, phát triển
kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” . Ở
đây rõ ràng các nhà làm luật Việt Nam cần cấp tốc điều chỉnh
các qui định khác nhau để bảo đảm tính nhất quán của các quyền
hiến định đối với các bộ luật con.
Để kết tội “làm ra, tàng trữ, lưu hành” của Đ.88 BLHS,
toà đã sử dụng 121 đầu tài liệu thu giữ được ở nhà hoặc văn
phòng của chồng tôi. Vợ chồng chúng tôi hiện không thể xác
nhận có phải tất cả 121 tài liệu này là của chúng tôi hay
không. Cá nhân tôi đã nhiều lần khiếu nại để xin công an gửi
cho tôi biên bản thu giữ đồ vật của chúng tôi nhưng vẫn chưa
được các cơ quan công an và giám sát trả lời. Toà đã không
phân loại tính chất và phân tích nội dung của 121 tài liệu này
nên tôi giả thiết rằng chỉ có một số tài liệu trong số này bị
toà xem là có “vấn đề” và được liệt kê trong bản án sơ thẩm.
Chồng tôi thừa nhận có viết 2 bài “Quyền tự do thành lập đảng”
và “Dân trí Việt Nam có đủ khả năng xây dựng chế độ đa đảng”
mà toà cho rằng “có nội dung bôi nhọ, hạ thấp vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho rằng trong điều kiện hiện
nay Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ năng lực để lãnh đạo cách
mạng nên cần phải có một đảng khác thay thế hoặc phải đa
nguyên, đa đảng mới đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo
đói” (BAST, tr. 4 và 5). Như đã xác định ở phần 2, việc
viết hai bài này hoàn toàn nằm trong phạm vi của quyền tự do
ngôn luận của chồng tôi là điều được Hiến pháp 1992 và Công
ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị bảo vệ. Ngoài ra theo
phân tích ở trên, toà sơ thẩm cũng đã không đưa đủ cơ sở lý
luận và thực tế để qui kết 2 bài này có tính cách chống Nhà
nước. Cách dùng từ như “bôi nhọ, hạ thấp vai trò lãnh đạo của
đảng Cộng sản Việt Nam” cho thấy toà đã tìm cách áp đặt quan
điểm chủ quan của mình và đi ra ngoài phạm vi truy tố của Đ.
88 BLHS. Ngoài ra bản án sơ thẩm đã kết luận rằng chồng tôi là
“người trực tiếp soạn thảo ‘Điều lệ Đảng Dân chủ’ … của
Hoàng Minh Chính” (BAST, tr. 6) mặc dù trong phiên xử, toà
đã không tìm đủ chứng cứ để buộc tội chồng tôi về điểm này. Dư
luận xã hội hiện đang đàm tiếu rất nhiều về việc
Nhà nước
đang làm chuyện ngược ngạo là khi chưa có biện pháp xử lý đối
với đảng Dân chủ 21 mà đã đi buộc tội chồng tôi về việc có
liên quan đến đảng này. Do đó cáo buộc chồng tôi
“làm ra tài liệu chống Nhà nước” là vô căn cứ.
Tàng trữ
là việc cố ý “cất giấu cẩn thận, không muốn cho ai biết”
(BKTT, sđd). Ở đây, các tài liệu thu được tại văn phòng
cũng như nhà riêng của chồng tôi là những tài liệu được chồng
tôi sử dụng làm tài liệu nghiên cứu nên chồng tôi không có ý
định che giấu chúng. Các nhân viên công an theo dõi chồng tôi
trong những tháng qua có thể xác nhận rằng cửa của văn phòng
luật sư Thiên Ân lúc nào cũng rộng mở cho mọi người ra vào và
các máy tính ở đó cũng đã để cho nhiều người sử dụng chung cho
nên cáo buộc chồng tôi bí mật cất giấu tài liệu là một cáo
buộc phi thực tế. Khi công an đến khám xét văn phòng cũng như
nhà riêng của chồng tôi, các tài liệu này đang ở trong 5 máy
tính hoặc được để trên các giá sách và trong tủ tài liệu cùng
với các tài liệu nghiên cứu về pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế cũng như các hồ sơ của khách hàng. Tính chất sưu tầm
để nghiên cứu thể hiện rõ ở 2 điểm. Thứ nhất, những tài liệu
này thể hiện nhiều quan điểm khác nhau, có bênh có chống, nằm
lẫn lộn với những tác phẩm nghiên cứu và những tài liệu pháp
lý. Thứ hai,
chồng
tôi không nhất thiết phải có cùng quan điểm với những tài liệu
mà mình đang có. Thí dụ chồng tôi không chống bầu cử trong khi
vẫn giữ những tài liệu kêu gọi tẩy chay bầu cử của linh mục Lý.
Để nghiên cứu và tìm hiểu thấu đáo một vấn đề, chồng tôi không
thể chỉ nghe người khác nói không thôi hoặc chỉ đọc những tài
liệu được viết theo cùng một quan điểm. Khi biết chồng tôi
quan tâm đến một số vấn đề, nhiều người đã đem đến trao tận
tay hoặc gửi lại văn phòng một số tài liệu bị toà đánh giá là
“cực kỳ phản động, bóp méo, xuyên tạc sự thật” như
“Đảng cộng sản Việt Nam là nghiệp chướng”, “Nhật ký Dân
oan” hay tài liệu của Quốc-Quốc. Trong phiên xử sơ thẩm, chồng
tôi trung thực nhận có giữ những tài liệu này mặc dù có nhiều
tài liệu chồng tôi không hay biết là có trong văn phòng hoặc
chưa đọc qua. Điều này thể hiện rằng chồng tôi không có ý giấu
diếm – ngay cả đối với những tài liệu bị cáo buộc nặng nề nhất
– vì tin vào quyền tự do ngôn luận, quyền tự do nghiên cứu
hiến định của mình. Việc cáo buộc chồng tôi tàng trữ đã vi
phạm các quyền tự do hiến định này của chồng tôi.
Tôi xin nói thêm về khái niệm “tàng trữ tài liệu trong máy
tính”. Trong thời đại nối mạng toàn cầu ngày nay, khái
niệm này đã bị lỗi thời. Hàng ngày, dù muốn hay không, người
sử dụng email đã phải nhận hàng trăm tài liệu từ những người
quen lẫn người lạ. Nếu có siêng năng mà huỷ đi các tài liệu
này thì một người sử dụng máy tính bình thường cũng không thể
xoá sạch vết tích trên máy tính được. Thông thường, ít ai có
thể quản lý hữu hiệu được khối lượng email nhận được hàng
ngày. Ngoài ra mạng internet toàn cầu còn là một kho lưu trữ
thông tin khổng lồ. Bất cứ lúc nào người sử dụng cũng có thể
lên internet để lấy thông tin cần thiết, hoặc có thể lưu trữ
thông tin riêng trên internet, mà không cần phải “tàng trữ”
riêng trên máy tính cá nhân nữa. Do đó trong thời đại internet
hiện nay, việc ấn định biên giới địa lý trong việc lưu trữ tài
liệu là một hành động trái tự nhiên và không thể thực hiện hữu
hiệu được trong thực tế.
Trong bản án sơ thẩm không có một chỗ nào cáo buộc rõ chồng
tôi về hành vi “lưu hành các tác phẩm, văn hoá phẩm có
nội dung chống phá Nhà nước”. Lưu hành là “đưa ra sử dụng
rộng rãi từ người này, nơi này đến người khác, nơi khác trong
xã hội” (BKTT, sđd). Tuy nhiên trong phần xét về tội trạng
của chồng tôi ở trong BAST, tôi lại thấy có đoạn ghi: “Các
bị cáo đã phát tán các tài liệu này trên các phương tiện thông
tin cho các tổ chức phản động người Việt tại nước ngoài”
(BAST, tr. 5). Để loại bỏ mọi ngộ nhận, tôi giả thiết rằng toà
hiểu phát tán là lưu hành. Ngay cả trong giả thiết này, việc
cáo buộc đã thiếu hẳn sự chính xác cần thiết. Thay vì liệt kê
cụ thể rằng chồng tôi đã có những hành vi phạm tội gì, bằng
phương tiện nào và ở đâu thì toà lại mô tả sự việc bằng một
chuỗi những từ không xác định như “các bị cáo”, “các tài
liệu”, “các phương tiện thông tin”, “các tổ chức phản động”
trong câu nêu trên. Cũng như ở nhiều chỗ khác trong bản án sơ
thẩm, việc vơ đũa sự kiện ở đây đã làm vấn đề trở nên mơ hồ và
khó hiểu. Trong ngữ cảnh của bản án, cụm từ “các tài liệu này”
chắc đã được dùng để chỉ 2 tài liệu “Quyền tự do thành lập
đảng” và “Dân trí Việt Nam có đủ khả năng xây dựng chế độ đa
đảng” đã được liệt kê ngay trong đoạn viết trước đó. Như đã
phân tích ở trên, toà không có đủ lý luận để cáo buộc 2 bài
này có mục đích chống Nhà nước. Chồng tôi đã thừa nhận gửi
đăng hai bài này trên trang web của (MỘT) đài phát thanh BBC.
Đài BBC là một cơ quan truyền thông hoạt động có uy tín trên
thế giới từ nhiều năm qua và hiện có đại diện chính thức và
hợp pháp tại Hà Nội. Không ai có thể hàm hồ nói rằng đài BBC
là của người Việt ở nước ngoài hoặc là phương tiện thông tin
của CÁC tổ chức phản động người Việt tại nước ngoài. Nhiều
nhân viên cao cấp chính phủ, dân biểu, cán bộ nghiên cứu nước
ta đã thường lên đài này để phát biểu, trong số đó có nhiều ý
kiến phê phán chính quyền khá mạnh mẽ. Toà không có chứng cứ
nào về việc chồng tôi phát tán 2 tài liệu này đến các cơ quan
truyền thông khác. Trong thời đại internet, các tờ báo và
trang web có thể dễ dàng sao chép, sử dụng, nhân rộng các
thông tin có sẵn ở trên một trang web khác để làm rộng đường
dư luận mà không cần phải xin phép tác giả. Tóm lại kết luận
cho rằng chồng tôi đã thực hiện hành vi lưu hành tác phẩm có
nội dung chống phá Nhà nước là hoàn toàn vô căn cứ.
4) Kết luận và kiến nghị với toà án phúc thẩm
Chồng tôi là một người yêu nước. Là một luật sư nhân quyền,
chồng tôi đã hết lòng bảo vệ quyền công dân hiến định và đã
đấu tranh phê phán những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật
của những nhân viên và cơ quan nhà nước. Trên thực tế, những
đóng góp trong lãnh vực tự do tôn giáo của chồng tôi đã giúp
Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền và nâng cao uy tín
với thế giới. Những đóng góp này của chồng tôi cũng giúp cho
chính quyền hiểu hơn về những người theo đạo Tin lành và từ đó
giúp cho tình hình Việt Nam thêm ổn định.
Việc bắt giam và xét xử chồng tôi đã không được thực hiện một
cách hợp pháp và đúng thủ tục qui định. Cơ quan công an đã
điều tra cẩu thả về các việc làm của chồng tôi và đưa ra những
suy đoán buộc tội hàm hồ. Viện Kiểm sát Nhân dân và Toà án
Nhân dân thành phố Hà Nội đã tiếp nhận thiếu suy xét những kết
luận sai lầm này để buộc tội và kết án chồng tôi theo Đ.88
BLHS. Vì đã phạm quá nhiều sai sót về thủ tục và sẵn có thành
kiến với bị cáo nên phiên toà sơ thẩm ngày 11.5.2007 đã không
tìm ra sự thật của vụ án và kết án oan chồng tôi.
Chồng tôi đã thực thi có ý thức quyền tự do ngôn luận của
mình. Quyền dân sự của công dân này được bảo vệ bởi Hiến pháp
1992. Quyền hiến định này cũng được bảo vệ một cách vững chắc
về pháp lý bởi Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị
kể từ khi Nhà nước CHXHCNVN ký kết tham gia công ước này vào
năm 1982 và bởi Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước
Quốc tế vào năm 2005. Như thế, công dân Việt Nam được hưởng
đầy đủ và trọn vẹn quyền tự do ngôn luận theo qui định của
điều 19 của CƯQT QDSCT mà không chịu bất cứ một giới hạn luật
định nào khác.
Luật quốc
tế xem hành vi bày tỏ ý kiến phản đối chính quyền một cách ôn
hoà là không phải là tội phạm hình sự. Như vậy hành động đấu
tranh, phê bình, chỉnh sửa một cách ôn hoà, bằng lời nói hay
bằng chữ viết của chồng tôi đối với các cơ quan hoặc nhân viên
nhà nước cần được xem là những hành vi hợp pháp.
Dù đứng trên quan điểm của luật hình sự Việt Nam, những lý
luận buộc tội chồng tôi cũng không đứng vững. Để cáo buộc
chồng tôi tội chống Nhà nước CHXHCNVN, toà đã viện dẫn lý do
chồng tôi chống Hiến pháp, có liên lạc với những những người
Việt Nam lưu vong có ý thức chống Nhà nước quyết liệt và là
thành viên của những tổ chức chống Nhà nước CHXHCNVN. Nhưng
tất cả các cáo buộc này đều sai vì đã dựa trên một sự ngộ nhận
về tính duy nhất của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
dựa vào những suy luận, võ đoán, gán ghép vô căn cứ và phi
thực tế về một số cá nhân và tổ chức ở trong và ngoài nước. Vì
không chứng minh được rằng chồng tôi có ý thức chống Nhà nước
– là yếu tố chủ quan của tội phạm – nên hành vi phạm tội theo
Đ.88 BLHS cũng đã không được cấu thành.
Ngoài ra, như tôi đã phân tích ở trên, Nhà nước cần xét lại
toàn bộ nội dung của Đ.88 BLHS để bảo đảm tính nhất quán với
các bộ luật khác, với Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia ký kết. Đ.88 BLHS hiện có những khái niệm rất
mơ hồ và bao quát nên đã tạo cơ hội cho các cơ quan thi hành
pháp luật diễn giải sai, tuỳ tiện hay độc đoán khiến cho việc
áp dụng luật pháp không còn nghiêm minh nữa. Trong khi chờ đợi
sửa đổi và soi sáng điều luật này, tôi có đề nghị Nhà nước
ngưng thi hành Đ.88 BLHS.
Sau khi phân tích lại toàn bộ vụ án của chồng tôi, luật sư
Nguyễn Văn Đài, tôi kiến nghị toà phúc thẩm những điều sau
đây:
a)
Huỷ bản án sơ thẩm
mang số 153/2007/HSST và tuyên bố đình chỉ vụ án theo Đ.251
BLTTHS vì các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm nghiêm
trọng quá nhiều nguyên tắc cơ bản của BLTTHS và vì chồng tôi
thực sự vô tội theo nguyên tắc “Không có tội khi không có
luật” của Đ.2 BLHS;
b)
Trả tự do ngay cho chồng tôi;
c)
Hoàn trả cho chúng tôi mọi tài sản bị tịch thu;
d)
Phục hồi danh dự cho chồng tôi bằng cách huỷ bỏ quyết định thu
hồi thẻ luật sư và giấy phép hành nghề của văn phòng luật sư
Thiên Ân.
|