Ý
kiến, quan điểm, . . . bày tỏ
dưới đây là của
tác giả,
Phù Sa hoàn toàn không có trách nhiệm. |
Chính sách di dân và
lấn chiếm biên giới của Tung Cộng
Lời Di chúc của vua Trần Nhân Tông :
"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ,
trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một
nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi
thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên,
khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn
trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để
tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm
nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ
cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người
phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để
lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời
nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
Gần đây nhà cầm quyền Hà Nội quyết định miễn chiếu khán
nhập cảnh cho khách du lịch người Trung Quốc khi vào Việt
Nam.
Đây là một quyết định
đầy bất trắc cho tương lai dân tộc. Chúng ta
hãy nhìn lại những gì Trung Quốc đã làm trong quá khứ với các
nước láng giềng của họ trong chánh sách di dân và biên giới.
Trung Quốc và Liên Sô
có chung chiều dài biên giới khoảng 4,300 cây số. Họ đã
có một cuộc chiến đẫm máu vào năm 1969 giữa hai người đồng
minh ruột thịt vì Trung Quốc đã xua quân chiếm vùng sông Amur
của Liên Sô, mà họ cho là thuộc chủ quyền của họ. Liên Sô
phải dùng đến hỏa tiễn để tiêu diệt quân Trung Quốc. Sau đó
hai người bạn tiêu biểu cho thành trì Xã Hội Chủ Nghĩa đã ký
một hiệp định về biên giới năm 1977, nhưng Trung Quốc vẫn lén
lút cho quân lính lấp đá và dồn bao cát bỏ xuống bờ sông Amur
bên phía Trung Quốc để lấn ranh Liên Sô.
Khi Liên Sô xin gia nhập vào cơ quan Mậu Dịch Thế Giới
(WTO), Trung Quốc chỉ đặt có một điều kiện duy nhất để hỗ trợ
Liên Sô đó là cho phép người lao động Trung Quốc được vào
Liên Sô miễn chiếu khán nhập cảnh.
Một khi họ đã vào được Liên Sô, họ dùng mọi cách để ở lại
hợp pháp. Ông Andrei Chernenko, vụ trưởng vụ Di Trú Liên Sô
đã từng phát biểu rằng người Trung Quốc dùng mọi hình thức để
hợp pháp hóa sự hiện diện của họ, chẳng hạn như kết hôn với
người bản xứ, hoặc kinh doanh để tạo sản nghiệp lớn để dễ dàng
trong việc lưu trú vì tài sản lớn của họ.
Mặc dù đã ký kết hiệp định với Liên Sô, nhưng những vị
lãnh đạo của Trung Quốc như Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình vẫn
khẳng định rằng vùng đất Vladivostok và Khabarovsk vẫn là của
họ, và trong trường học họ vẫn tiếp tục dạy học sinh rằng Liên
Sô đã dùng bạo lực chiếm những vùng đất trên của họ.
Hơn thế nữa, họ đưa ra những bằng cớ về Nhân Chủng Học để
chứng minh rằng những bộ lạc Trung Hoa có mặt ở đó rất lâu
trước khi người Liên Sô tới.
Sự di dân của người Trung Quốc qua đường biên giới vẫn là
nỗi ám ảnh của chính quyền Liên Sô. Theo ước tính của các
chuyên gia thì đến năm 2010 dân số Trung Quốc tại vùng Cận
Đông của Liên Sô sẽ lên đến 10 triệu người (hiện tại khoảng
3,26 triệu) và kiểm soát từ 30 đến 40 phần trăm nền kinh tế
của vùng nầy. Vì vậy gần đây ông Viktor Ishayev, toàn quyền
vùng Khabarovsk quyết định không cấp quyền công dân cho người
Trung Quốc dù đã kết hôn với người Liên Sô tại địa phương ông,
mặc dù người ngoại quốc khác được hưởng quyền nầy.
Với Ấn Độ,
bắt đầu từ năm 1950 đã có những sự căng thẳng giữa hai
quốc gia, nhất là vào những năm 1956-1957 khi Trung Quốc xây
dựng trục giao thông quân sự trên vùng đất đang tranh chấp
Aksai, phía tây Tân Cương. Ấn Độ lên án Trung Quốc xâm lăng
vùng đất này của họ. Tiếp theo là cuộc đàm phán giữa đôi bên
kéo dài trong ba năm không mang lại kết quả nào cả. Tháng Mười
năm 1962 Trung Quốc đưa chín sư đoàn chiếm đóng dọc theo biên
giới 3,225 kí-lô-mét vùng biên giới Hy Mã Lạp Sơn và Trung
Quốc. Hai nước đã nổ ra một cuộc đụng độ về biên giới rất
khốc liệt. Kết qủa là Trung Quốc đã đẩy lùi Ấn Độ sâu 50
kí-lô-mét vào vùng đất Aksai mà Ấn Độ cho là thuộc chủ quyền
của họ, và Trung Quốc đơn phương tuyên bố ngưng chiến. Mười
hai năm sau khi ngưng chiến, một cuộc họp song phương cao cấp
về biên giới giữa hai quốc gia được tổ chức tại Tân Đề Ly (Ấn
Độ) vào tháng Hai năm 1994. Một giai đoạn mới về sự bang giao
giữa hai nước bắt đầu, tuy vấn đề biên giới giữa hai nước vẫn
xảy ra những mâu thuẩn gay gắt.
Với Mông Cổ,
sau 11 năm làm chủ Hoa Lục, tháng Năm 1960, Thủ Tướng Chu
Ân Lai của Trung Quốc thăm Ulaanbaatar (U-Lan-Ba-To) của Mông
Cổ để bàn về hiệp định hợp tác song phương, và cả hai bên đã
đạt được một hiệp uớc về biên giới. Trong buổi tiệc khoản đãi
lãnh đạo Mông Cổ tại Bắc Kinh ngày 27 tháng 12 năm 1960, Chu
Ân Lai tuyên bố: “Sự nhanh chóng giải quyết êm đẹp vấn
đề biên giới giữa hai quốc gia không những đánh dấu sự củng cố
và phát triển tình hữu nghị giữa hai quốc gia, mà còn tạo
gương sáng trong mối quan hệ giữa hai nước xã hội chủ nghĩa
anh em”. Tiếc thay kỷ nguyên hợp tác thân thiện này
tồn tại không lâu.
Mặc dù hiệp định về biên giới được ký kết chính thức năm
1962, nhưng mãi đến 1982 mới được thực hiện. Trong khoảng
thời gian 20 năm đó Trung Quốc luôn tìm cách lấn biên giới và
cho di dân sang Mông Cổ. Năm 1981 dấy lên phong trào trục
xuất người Trung Quốc ra khỏi Mông Cổ đã bùng nổ. Thêm vào
đó, Liên Xô tố giác Trung Quốc đã vi phạm hiệp định về biên
giới với Mông Cổ tất cả hơn 400 lần chỉ riêng trong năm 1969.
Tờ New York Times, ngày 27 tháng 5 năm 1983 chạy trang đầu tin
Mông Cổ trục xuất nhiều ngàn công nhân Trung Quốc ra khỏi nước
họ. Ngày 2 tháng 9 năm 1964, tờ Pravda, cơ quan ngôn luận
chính thức của đảng cộng sản Liên Xô loan tin rằng Mao Trạch
Đông rất hối tiếc vì không tranh thủ được sự đồng tình của
Liên Xô để Trung Quốc chiếm Ngoại Mông. Trung Quốc, một quốc
gia rộng mênh mông, nhưng người cầm quyền của họ luôn luôn tìm
cách lấn chiếm lân bang mình dù chỉ năm, mười ngàn cây số !
Với Bắc Hàn,
trong hai điện tín gởi cho Stalin vào tháng 10 năm 1950, Mao
Trạch Đông khẳng định rằng nếu toàn bộ Đại Hàn bị Mỹ chiếm
đóng, và lực lượng cách mạng Đại Hàn bị hủy diệt, bọn xâm lược
Mỹ thêm kiêu căng, và toàn bộ vùng bắc Á sẽ bất lợi cho chúng
ta (Liên Xô và Trung Quốc). Sau khi thấy Stalin ngần ngại
trong việc gởi không lực yểm trợ, Mao kết luận rằng chúng ta
phải tham chiến, tham chiến sẽ rất có ích lợi và ngược lại sẽ
rất tai hại. Mao không ngần ngại tuyên bố mục tiêu của Trung
Quốc trong việc xua quân chiếm Bắc Hàn là không những bảo vệ
biên giới và cứu vãn chế độ Bình Nhưỡng. Mao hứa với Stalin
là sẽ gởi 12 sư đoàn vào Bắc Hàn vào tháng 10 năm 1950 và sẽ
tiếp tục gởi thêm 24 sư đoàn nữa vào mùa xuân và hè năm 1951.
Với chiêu bài “Mặt Trận Giải Phóng” của thế giới, Mao
quyết định chiếm Bắc Hàn để bảo vệ mặt trận giải phóng của
xứ này, bảo vệ cả mặt trận giải phóng Trung Quốc và thế giới
nữa. Mao lạc quan tin rằng Hoa Kỳ sẽ bị bại trận tại Bắc Hàn,
hậu quả sẽ thuận lợi cho mặt trận giải phóng quốc tế. Rõ ràng
là Trung Quốc nhận ra cuộc chạm trán giữa họ và Hoa Kỳ là
không thể tránh được, nhất là khi hạm đội thứ bảy của Hoa Kỳ
bắt đầu bỏ neo ngoài khơi Đài Loan trong lúc quân đội Liên
Hiệp Quốc can thiệp vào cuộc chiến Triều Tiên. Họ muốn đem
chiến tranh ra ngoài nước họ, và Bắc Hàn là nơi Trung Quốc lựa
chọn cho cuộc chiến. Tóm lại, mục tiêu của họ [Trung
Quốc] khi xua quân vào Bắc Hàn không phải vì bảo vệ nước xã
hội chủ nghĩa anh em, mà là chiếm nước anh em làm chiến trường
để đọ sức với địch thủ. Họ luôn coi các nước láng giềng là
“ao nhà” và có quyền xử dụng vào bất cứ mục tiêu nào họ muốn.
Với Tây Tạng,
sau khi chiếm được Hoa Lục vào năm 1949, nhà cầm quyền
cộng sản Trung Quốc lập tức đòi Tây Tạng phải chấp nhận (1)
quốc phòng của Tây Tạng phải do Trung Quốc kiểm soát, (2) Tây
Tạng là một bộ phận của Trung Quốc. Dĩ nhiên đề nghị phi lý
này không được chấp nhận. Liền sau đó, ngày 7 tháng 10 năm
1950 Trung Quốc xua 40,000 quân đánh chiếm Chamdo, thủ đô miền
nam Tây Tạng. Mặc dù Ấn Độ, Hoa Kỳ, Anh Quốc cùng một số quốc
gia khác phản đối quyết liệt. Trung Quốc không những làm ngơ
mà còn thách thức quốc tế bằng cách đưa thêm một quân đoàn
tiến vào thủ đô Lhasa vào ngày 9 tháng 9 năm 1951. Lần lượt
các thành phố khác của Tây Tạng rơi vào tay quân Trung Quốc.
Mặc dù Tây Tạng đã anh dũng tạo ra hai cuộc khởi nghĩa vào các
năm 1956 và 1959, nhưng tất cả đều bị quân Trung Quốc đè bẹp.
Kết quả là hơn hai chục ngàn người Tây Tạng bị giết, khoảng 80
ngàn người cùng Đức Dalai Lama phải lưu vong sang Ấn Độ.
Sau hai thập niên bị thống trị bởi Trung Quốc, khoảng 1,2
triệu người Tây Tạng, tức 20% dân số đã bỏ mình trong các trại
tù hoặc tại các nông trường tập thể, hoặc bị thủ tiêu. Nhiều
tù nhân bị bỏ đói đến chết. Hơn 6,000 cơ sở văn hoá, đền đài,
chùa chiền, tu viện bị phá hủy. Để duy trì lực lượng thống
trị tại Tây Tạng, khoảng 300,000 binh sĩ và công an, phần lớn
lương thực bị thu mua, vì thế đã gây ra hai nạn đói vào các
năm 1958-1961 và 1966-1976
Nhưng âm mưu thâm độc nhất vẫn là chánh sách đồng hoá
cố hữu mà họ đã từng áp dụng không thành công tại Việt Nam khi
họ đô hộ ta hàng ngàn năm trước. Họ đưa đến Tây Tạng khoảng
7,5 triệu người Trung Quốc, vượt xa dân số Tây Tạng khoảng nửa
triệu. Người Tây Tạng trở thành dân thiểu số ngay trên
chính quê hương cuả họ. Họ thống trị Tây Tạng không những về
mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá và xă hội, mà còn
ngự trị về mặt ngôn ngữ, vì ngôn ngữ chính thức là tiếng
Trung Hoa, và Tây Tạng chỉ là ngôn ngữ địa phương.
Tây Tạng là bài học xương máu mà nhà cầm quyền Hà Nội phải học
để bảo đảm sự tồn tại, độc lập của đất nước.
Với Việt Nam,
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, tổ tiên chúng ta
trải qua muôn vàn khó khăn với nước lân bang khổng lồ Trung
Quốc. Với quan niệm Bắc địch, Tây rợ, Đông di, Nam man, các
triều đại vua chúa Trung Quốc luôn đánh phá, gây bất ổn để
đồng hoá, hoặc thôn tính Việt Nam. Cộng Sản Trung Quốc giữ
nguyên quan niệm Đại Hán lạc hậu đó.
Chỉ kể trong lịch sử cận đại, hai đảng cộng sản Việt Nam
và Trung Quốc rất thân thiện trong thời gian Việt Nam chống
Pháp, nhưng sau khi Stalin qua đời, người kế vị là Khrushchev,
quan niệm về cộng sản của ông khác hẳn, nhất là với Mao Trạch
Đông, từ đó đưa đến tình trạng căng thẳng giữa hai đảng cộng
sản anh em. Kể từ đó Việt Nam thân Liên Sô hơn Trung Quốc.
Nắm cơ hội này, Liên Sô viện trợ nhiều cho Việt Cộng để chống
Pháp, và hé lộ ý đồ giúp Việt Nam trở thành cường quốc cộng
sản trong vùng Đông Nam Á. Trung Quốc rất khó chịu khi nhận
ra điều này vì phía bắc của họ là Liên Sô, nếu phía nam Việt
Nam trở thành cườnng quốc thì họ bị kẹt vào chính giữa, sẽ
chận thế phát triển của họ về phía nam.
Phản ứng đầu tiên của Trung Quốc là bắt đầu liên hệ với
Hoa Kỳ vào cuối năm 60, đầu năm 70 trên cấp bực cao với ngoại
trưởng Henry Kissinger và rồi với Tổng Thống Nixon. Cùng lúc
đó họ bắt đầu hỗ trợ cho Cam-Pu-Chia dưới sự lãnh đạo của Pol
Pot về ý thức hệ cộng sản, nhưng trên thực tế, họ muốn cô lập
Việt Nam với Trung Quốc về phía bắc và Campuchia ở hướng tây.
Khi Khmer Đỏ của Pol Pot nắm quyền, họ bắt đầu đòi lại
lãnh thổ mà họ cho là Việt Nam đã chiếm trong quá khứ. Bị từ
khước, Pol Pot bắt đầu tàn sát Việt Kiều ở Campuchia, và hỗ
trợ cho du kích đánh phá Việt Nam ở phía tây vào năm 1978
(theo Wikipedia, Google). Nắm lấy cơ hội này, Liên Sô giúp
Việt Nam đánh chiếm Campuchia, trước hết để loại trừ ảnh hưởng
Trung Quốc tại đây, và để chứng minh với đám cộng sản đàn em
là theo Liên Sô có lợi hơn là theo Trung Quốc. Việt Nam cũng
nhận thấy rằng đây là cơ hội, vì Lào đã theo Liên Sô, nếu lật
đổ được Pol Pot lập chánh phủ bù nhìn thì Việt Nam sẽ trở
thành cường quốc cấp vùng ở Đông Nam Á. Vào ngày 7 tháng
Giêng 1979, Việt Nam xua quân chiếm Phnom Penh, chấm dứt chế
độ Khmer Đỏ và lập lên chánh phủ bù nhìn thân Việt Nam.
Để trả đũa, ngày 15 tháng Hai năm 1979 Trung Quốc công khai
tuyên bố hiệp định giữa Trung Quốc và Liên Sô hết hiệu lực, và
họ có quyền gây chiến tranh với đồng minh của Liên Sô vì Việt
Nam ngược đãi Hoa Kiều và họ dùng chiêu bài bảo vệ kiều dân để
gây chiến với Việt Nam. Hai ngày sau họ đưa 120 ngàn Quân Đội
Giải Phóng Nhân Dân đánh chiếm các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai, và
Lạng Sơn vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam 30 cây số. Ngày 6
tháng Ba họ đơn phương tuyên bố nhiệm vụ “dạy cho Việt Nam một
bài học” đã hoàn tất, và đơn phương rút quân. Và ngày 16
tháng Ba họ đã hoàn toàn triệt thoái khỏi biên giới Việt Nam.
Qua những sự kiện nêu trên, ta thấy Trung Quốc luôn tìm
cách di dân họ, lấn biên giới, và dùng kiều dân như một loại
vũ khí để xâm lăng các nước láng giềng khi cần. Với những
nước yếu kém, họ coi như là “sân sau” của họ và sẵn sàng dùng
vũ lực để xử dụng theo nhu cầu chiến lược.
Chúng ta đều biết rằng con số người Trung Quốc hiện đang
sinh sống tại Việt Nam không ít, và họ chiếm ưu thế trong lãnh
vực kinh tế. Nay cho phép người Trung Quốc vào Việt Nam không
cần chiếu khán nhập cảnh sẽ tạo cơ hội cho một số trong đám họ
ở lại, dù bất hợp pháp, điều ấy gây muôn vàn khó khăn cho đồng
bào ta trong lãnh vực kinh tế, đó là chưa kể đến vấn đề an
ninh, chính trị.
Quyết định trên của nhà cầm quyền Hà Nội hết sức sai lầm,
vô tình, hay hữu ý thực hiện chánh sách di dân của nhà cầm
quyền Trung Quốc mà họ không tốn cống sức đòi hỏi, hoặc trả
giá để có được như họ đã từng làm với Liên Xô hoặc với các
nước khác. Khi có nhiều cư dân Trung Quốc trên lãnh thổ Việt
Nam đó là một trong nhiều nguyên cớ để họ dùng để xâm lấn ta
khi họ có nhu cầu. Đành rằng họ có thể viện bất cứ nguyên
nhân nào, nhưng chúng ta không nên tạo thêm nguyên nhân giúp
họ.
Ngày nay Trung Quốc là một quốc gia hùng cường về kinh tế
và quân sự đuợc cai trị bởi chế độ bá quyền đầy tham vọng, đó
là hiểm họa cho thế giới nói chung và cho Việt Nam nói riêng.
Nhà cầm quyền Hà Nội phải sáng suốt nhận ra cái hoạ mất nước
từ Trung Quốc.
Vì quyền lợi tối thượng của dân
tộc, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phải mạnh dạn, nhanh
chóng rút lại lệnh trên trước khi chánh quyền Trung Quốc lợi
dụng nó gây bất lợi lâu dài cho dân tộc. Làm được việc nầy
đảng cộng sản Việt Nam ít nhất còn có được một lần tuyên
truyền với đồng bào rằng họ tranh đấu để bảo vệ quyền lợi dân
tộc, và họ không phải là đầy tớ suốt đời của Trung Cộng.
Nhà cầm quyền Hà Nội luôn miệng hô hào hãy khép lại quá
khứ thù nghịch, cùng nhau bắt tay xây dựng lại đất nước.
Nhưng nghịch lý thay với người Trung Quốc đến Việt Nam thì
được miễn chiếu khán nhập cảnh, còn người Việt Nam sống ở nước
ngoài khi về thăm quê hương thì những khúc ruột ngàn dậm nầy
bắt buộc phải có chiếu khán nhập cảnh. Người cộng sản Việt
Nam nói một đàng, làm một nẻo. Không biết bao giờ họ mới bắt
đầu sự chân thật và chấm dứt sự lừa dối. Họ vẫn tiếp tục nuôi
dưỡng thái độ thù nghịch với chính đồng bào của họ.
Tiến Sĩ
Nguyễn Ngọc Sảng
---------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
* Barnard, Calvin, J.
Lieutenant Commander, U.S. Navy, The China- India Border War
1962, Marine Corps Publisher.
* Department of State, International Boundary Study, No 173,
August 14, 1984.
* Nguyễn Quốc Khải, Liệu Tây Tạng.., Người Việt, số 7280, ngày
12/11/05.
* Sheng, Micheal M. Korea and World Affairs, Vol. XIX, No. 2,
Summer 1995.
* World Press Review, No 12, Vol 50, December 2003.
|