Ý
kiến, quan điểm, . . . bày tỏ
dưới đây là của
tác giả,
Phù Sa hoàn toàn không có trách nhiệm. |
Há miệng mắc quai !
Lời Di chúc của vua Trần Nhân Tông :
"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ,
trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một
nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi
thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên,
khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn
trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để
tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm
nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ
cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người
phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để
lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời
nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
Liên tiếp cuối hai tuần lễ, hai cuộc biểu tình sôi nổi tại Sài
Gòn và Hà Nội ngày 9 và 16-12-2007 đã nổ ra do sinh viên và
học sinh tự ý xuống đường để phản đối bọn Tàu phù xâm lược,
lấn cướp hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Biến cố bất ngờ này đã làm cho Nhà nước Cộng Sản Việt Nam điên
đầu, bối rối và hoảng sợ.
Thay vì, phải có thái độ quyết liệt với Trung Quốc về chủ
quyền đất nước của mình, Nhà cầm quyền Cộng Sản lại quay sang
đàn áp biểu tình, cấm tất cả mọi sự lên tiếng của người dân.
Cấm luôn hệ thống truyền thông trong nước loan tải tin tức về
các cuộc biểu tình. 600 tờ báo và tất cả các đài truyền hình,
truyền thanh đều ngậm miệng im re.
Ngày 02-12-2007, Trung Quốc công bố việc phê chuẩn việc thành
lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam,
để trực tiếp quản lý ba quần đảo: Hoàng Sa, Trung Sa và Trường
Sa. Trong ba quần đảo này, theo lịch sử Việt Nam cho thấy
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam rất lâu đời.
Sư ngang ngược của Trung Quốc đã gây nhiều phẫn nộ cho người
Việt trong nước và hải ngoại.
Trong khi đó, Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam chỉ lên tiếng
một cách rụt rè chết nhát, chẳng ra đâu vào đâu, chiếu lệ cho
có như những lần trước.
Trừ ông Lê Dũng, cái lưỡi gỗ của Nhà nước Cộng sản Việt Nam, ú
ớ có mấy lời “trớt móng heo” trơ trẽn ra, còn từ trên xuống
dưới, từ các ngài chóp bu của Bộ Chính trị Nông đức Mạnh,
Nguyễn minh Triết, Nguyễn tấn Dũng, cho chí đến các ngài đại
tướng của cái Bộ Quốc phòng, đã từng “đánh thắng hai đế quốc
đầu sỏ là Pháp và Mỹ”, luôn cả ngài đại tướng Giáp nữa... ai
nấy cũng đều khép mỏ nín khe.
Không biết chừng còn có thể són... trong quần nữa là đàng
khác.
Ngày thứ Hai, 03-12-2007, Lê Dũng, phát ngôn viên Bộ Ngoại
giao Việt Nam, chỉ nói: “VN có đấy đủ bằng chứng lịch sử và
cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của VN đối với hai quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa...”. Chỉ có thế! Thế là
xong!
Tàu nó đã đem quân đóng đồn, xây lô cốt, lập sân bay, tập trận
trên hai đảo ấy từ khuya rồi mà cứ vờ ngủ mê lảm nhảm: “Có
bằng chứng với cơ sở pháp lý” để đấu lại với chúng
thì chỉ có “bố chó xồm” nó nghe được!
Ừ cũng phải thôi! Nói thế chó nào được! Miệng mồm đâu mà nói?
Bây giờ mà mở miệng ra là mắc quai!
Rành rành giấy trắng mực đen. Khi Trung Quốc tuyên bố hai đảo
trên là của chúng thì Hồ chí Minh đã vội sai Phạm văn Đồng gửi
một công hàm xác nhận cho Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14-9-1958,
có ký tên đóng dấu đàng hoàng. Chứng tích rõ ràng, nguyên văn:
Thưa đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày mùng 4 tháng 9 năm 1958 của nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa quyết định về hải phận của
Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách
nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung
Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân dân Trung
Hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin gởi đến Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân
trọng. |
|
Để sáng tỏ thêm cho việc bán nước trên,
ông Hoàng Tùng, Trưởng
Ban Tư tưởng TW của đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã tuyên bố:
“Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã
hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!
Trước đó nữa, tháng Sáu năm 1956, hai năm sau khi chính phủ
của ông Hồ đã thành lập,
Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung
văn Khiêm đã nói với ông Li Zhinmin, tham tán sứ quán Trung
Quốc tại Việt Nam, rằng “theo dữ liệu của Việt Nam thì đảo
Tây Sa (tức Paracels, Hoàng Sa) và đảo Nansha (tức Spratleys,
Trường Sa) là một phần thuộc Trung Quốc theo lịch sử”.
Năm
1960 và năm 1972 Hà Nội cho ấn hành hai cuốn Atlas.
Cuốn thứ nhất do Bộ Tổng Tham mưu Quân đội biên soạn.
Cuốn thứ hai do Phòng họa đồ của Phủ Thủ tướng biên soạn.
Trong cả hai cuốn này đều ghi Trường Sa và Hoàng Sa là của
Trung Quốc.
Năm 1974, trong
sách Giáo khoa do CSVN ấn hành, ở các bài học về Cộng Hòa Nhân
dân Trung Hoa, có câu như sau:
Các đảo từ
Nansha (Trường Sa của VN), Xisha (Hoàng Sa) cho tới Hải Nam và
Đài Loan là một bức tường thành để bảo vệ Trung Quốc.
Trung Cộng đã lấy các tài liệu trên để làm một trong những
chứng cớ phản bác lại VN nói là mình “có đủ chứng cớ và cơ sở
pháp lý”.
Đến năm 1992,
Thứ trưởng Ngoại giao CS Nguyễn mạnh Cầm vẫn còn ngụy biện cho
việc dâng hai quần đảo trên cho Trung Quốc rằng
“VN đã phải tập trung tất cả lực lượng quân sự cho mục tiêu
cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ”.
Luận điệu này ấu trĩ và vô căn cứ, vì thời điểm 1956 -1958 Mỹ
chưa đem quân vô VN và chưa thả bom miền Bắc.
Với luận điệu một rập bán nước trắng trợn như thế, mà miệng
mồm nào có thể nói được câu “Tiền nhân ta có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cố giữ nước...”. Không biết
lúc ông Hồ nói câu đó, ông đã nghĩ gì? Thật lòng hay giả vờ để
mị dân?
Bởi
vì ông Hồ đã là đảng viên của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, làm
việc ăn lương của Liên xô và Trung cộng.
Một vài tài liệu dưới đây cho thấy chuyện đảng CSVN bán nước
đã manh nha từ thời ông Hồ mới lập chính phủ chứ không mới mẻ
gì.
Liên tiếp trong hai năm, đảng CSVN ký hai hiệp ước nhượng đất
và nhượng biển cho Trung Cộng.
Ngày 30-12-1999 “Hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt
Nam-Trung Quốc” mất ải Nam Quan và một nửa thác Bản Giốc.
Ngày 25-12-2000 “Hiệp ước phận định lãnh hải” mất khoảng
10.000 Km2, mặt biển Vịnh Bắc Việt.
Câu hỏi đặt ra là: Vì sao tập đoàn CS VN lại sợ bọn xâm lược
Trung Cộng đến như vậy? Hèn nhát đến nỗi lần lượt nhượng bộ,
dâng đất, dâng biển hết lần này đến lần khác để cầu hòa.
Quân đội yếu thế chăng?
Ngày nay, với xu thế hội nhập toàn cầu, nước mạnh không còn có
thể dám ỷ thế ăn hiếp nước nhỏ như trước được nữa.
Đài Loan là một đảo nhỏ hơn nước VN rất nhiều, Trung Cộng hăm
he dùng võ lực thôn tính bao nhiêu năm nay mà nào dám. Đó là
một ví dụ.
Cái gốc rễ sâu xa mà tập đoàn lãnh đạo Bắc bộ phủ sợ Trung
Cộng chí chết là vì đã ngửa tay nhận quá nhiều ân huệ viện trợ
của TQ ban phát cho từ 1954 đến nay.
Nhưng quan trọng nhất là ba chiếc ghế quyền lực trong Bộ Chính
trị TW đảng CSVN do Hồ cẩm Đào ban cho bộ ba Nông đức Mạnh,
Nguyễn minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng.
Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc cho tập đoàn Bắc bộ phủ Hà
Nội. Là thành đồng vách sắt che chở cho đảng CSVN.
Viện trợ nhiều. Ân tình nhiều. Lãnh đạo Bắc bộ phủ tất nhiên
phải ngậm miệng vì đã ăn xôi chùa. Và phải tuân theo chỉ thị
của Bắc kinh.
Theo tài liệu của sử gia Trần Gia Phụng thì:
Vừa được tin Mao trạch Đông chiến thắng và thành lập nước Cộng
Hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 01/10/1949, Hồ chí Minh liền gởi
hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn đức Thủy đến Bắc kinh để
xin viện trợ.
Đầu năm 1950, đích thân Hồ chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow.
Tại Moscow, Hồ chí Minh lãnh chỉ thị về thực hiện Cải cách
ruộng đất sắt máu kiểu Cộng sản. Tại Bắc Kinh, Hồ chí Minh ký
với Trung Quốc Hiệp ước Phòng thủ Hỗ tương giữa hai bên. Từ đó
TQ cử La quí Ba sang làm cố vấn cho ông Hồ và ào ạt viện trợ
cho VM.(Việt Minh)
Từ tháng 4 đến tháng 9-1950, Trung Cộng viện trợ cho VM 14.000
súng, 17.000 súng tự động, 150 trọng pháo đủ loại, 2.800 tấn
lúa, cùng đạn dược, quân trang, quân dụng, máy truyền tin.
Từ tháng 12-1950 đến tháng 6-1954:
Đã nhận 21.517 tấn vật chất bao gồm vũ khí, đạn dược, nguyên
liệu, quân giới, vận tải xăng dầu, gạo, thực phẩm, quân trang,
quân y, thông tin, công binh. Tổng số viện trợ trị giá 136
triệu đồng Nhân dân tệ theo thanh toán giữa TQ và VN. Trong số
đó, vũ khí trang bị kỹ thuật gồm có 24 khẩu sơn pháo 75 ly, 24
khẩu lự pháo 105 ly, 76 khẩu pháo cao xạ 37 ly, 12 khẩu hỏa
tiễn H6 (của Liên Xô), 715 xe vận tải.
Từ 1954 đến 1975, Trung Cộng tiếp tục viện trợ cho CSVN để tấn
công Việt Nam Cộng Hòa, chẳng những súng ống, đạn dược mà cả
quân viễn chinh nữa. Trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày
30-7-1979, một viên chức ngoại giao Trung Cộng cho biết từ năm
1954 đến 1971, đã có 300.000 binh sĩ Trung Cộng chiến đấu bên
cạnh bộ đội Bắc Việt, trong đó có hàng ngàn người đã tử trận
và hàng chục ngàn người đã bị thương.
Ngoài ra viên chức ngoại giao này còn cho biết Bắc Việt đã mời
quân Trung Cộng vào đóng giữ từ khu Việt Bắc xuống tới Hà
Nội. (Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi)
Viên chức này còn xác định số lượng võ khí Trung Cộng viện trợ
cho CSVN từ 1950 đến 1977 lến đến 2 triệu súng hạng nhẹ,
27.000 đại đáo, 270 triệu băng đạn, 18 triệu đạn đại pháo, 179
chiếc máy bay và 145 chiến hạm.
Với một khối lượng viện trợ khổng lồ TQ chuyển cho như vậy mà
CSVN quay mặt phản bội lại TQ để chạy theo Liên Xô năm 1978
làm sao CSTQ không tức giận, dạy cho CSVN một bài học lễ độ
năm 1979.
Năm 1991, Liên Xô sụp đổ, CSVN lại muối mặt quay về với CSTQ.
Kể từ đó, CSVN mềm nhũn, nhu nhược đến độ hèn nhát.
Vì tham vọng quyền lực, vì muốn duy trì sự lãnh đạo của đảng
CSVN nên CSVN phải luôn cầu cạnh Trung Quốc, phục vụ quyền lợi
Trung Quốc, nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc để báo ơn.
Từ đó, nhất nhất chuyện gì ở trong nước, từ đối nội đến đối
ngoại, Bắc bộ phủ đều phải xin ý kiến hoặc chờ chỉ thị của Bắc
Kinh.
Nhớ lại chuyên bang giao với Mỹ, chuyện gia nhập WTO... đều
phải được Bắc Kinh gật đầu cho phép thì CSVN mới dám làm.
Một chuyện nhỏ không ra gì mới đây là
thực phẩm Trung Quốc có hàm
lượng độc tố bị báo chí VN phát giác, nửa đêm khuya hôm đó,
tại Bắc Kinh, viên đại sứ CSVN, ông Trần văn Luật, đang ngủ
cũng bị chánh quyền Bắc Kinh dựng đầu dậy lôi tới văn phòng
mắng cho một trận, răn đe bắt phải về bịt miệng báo chí VN. Ấy
thế mà đại sứ ta cũng vâng dạ liên hồi, cúp đuôi chạy về ra
lệnh cho báo chí trong nước không được đưa tin.
Mới đây nhất, chiều ngày 17-12-2007, có tới 22 học sinh và một
giáo viên trường TH ở Thanh Hóa bị ngộ độc phải đi cấp cứu vì
do chơi “hạt nở ngâm nước”. Đây là một loại hạt nhựa nhiều màu
mà kích thước ban đầu chỉ nhỏ như trứng cá, sau khi ngâm nước
sẽ nở lớn bằng hòn bi.
Người trong nước, ai ai cũng biết thứ này do Trung Quốc sản
xuất, vậy mà Thông Tấn Xã VN loan tải và 600 tờ báo Việt Nam
dẫn theo chứ không dám làm tin riêng rằng thì là:
“hạt nở
ngâm nước” là đồ chơi... “không rõ nguồn gốc xuất xứ”
cần cảnh
giác vì rất độc hại”.
Cái chuyện sợ Trung Quốc của tập đoàn CSVN đến nỗi không dám
chỉ đích danh thủ phạm, còn hiện rõ nét qua các việc làm tồi
tệ đến độ không thể tưởng tượng được, chẳng hạn như chuyện đi
gỡ các băng rôn “Dân ta phải biết sử ta” khắp
các nẻo đường.
Hồi cuối tháng tư vừa qua, nhiều thành phố, thị xã ở VN phát
động chương trình “Dân ta phải biết sử ta” nói là thực hiện
lời “Bác” dạy: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích
nước nhà Việt Nam”.
Tại Sài Gòn, chương trình này do Trung Tâm Thông tin Triển lãm
thuộc sở Văn hóa Thông tin thực hiện, treo hàng ngàn biểu ngữ
trên vài chục con đường chính ở khu vực Sài Gòn. Mỗi biểu ngữ
có vẽ hình giới thiệu tên và tiểu sử của một danh nhân hoặc sự
kiện lịch sử. Ví dụ trên đường Hai Bà Trưng có biểu ngữ giới
thiệu Hai Bà Trưng như sau: “Hai vị nữ anh hùng dân tộc, lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Hán lập ra triều đại Trưng
Nữ Vương”.
Bỗng nhiên một sáng, người dân Sài Gòn phát giác công nhân của
Công Ty chiếu sáng đang đi gỡ hết các biểu ngữ ấy.
Một việc nữa, đấu thầp niên 1990, sau khi nhà cầm quyền hai
nước tuyên bố nối lại quan hệ ngoại giao và cùng cam kết sẽ
tuân thủ phương châm:
“Láng giếng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt” đảng và Nhà nước CSVN đã ra lệnh cấm diễn,
cấm chiếu các vở kịch, các bộ phim có nội dung chống xâm lược
phương Bắc như: “Tiếng trống Mê Linh”, “Thái hậu Dương Vân
Nga”...
Cũng trong giai đoạn này, toàn bộ sách giáo khoa với các bài
giảng, các bài học có nội dung chống phương Bắc của cha ông
người Việt đều bị thu hồi và đục bỏ.
Đầu thập niên 2000, hải quân TQ đã liên tục bắn chết 9 ngư dân
và bắt giữ các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam rồi đưa họ ra
tòa án TQ xét xử vì tội đánh bắt hải sản quanh Hoàng Sa và
Trường Sa là “xâm phạm lãnh hải TQ” buộc họ nộp phạt với khoản
tiền phạt lên tới hàng trăm triệu đồng mới được thả ra.
Vậy mà Nhà cầm quyền VN cứ
“ngậm miệng nín thinh” hoặc chỉ
phản đối chiếu lệ rằng thì là... “VN có đủ bằng chứng và có cơ
sở...”
Đối với ông anh Trung Quốc thì đảng ta sợ một phép, ngược lại
đối với dân trong nước thì hung hăng con bọ xít, tay đấm, chân
đạp.
Hai cuộc biểu tình của sinh viên, học sinh chỉ là muốn nói lên
lòng yêu nước trước sự xâm lấn của Trung Cộng chiếm đoạt đất
đai của tổ tiên, Nhà nước không ủng hộ thì chớ, cớ sao lại huy
động một lực lượng công an hùng hậu để giải tán, bóp nghẹt
tiếng nói đấu tranh của nhân dân với bá quyền.
Điều đó chứng tỏ Nhà nước CSVN cũng rất sợ dân trong nước bày
tỏ ý kiến của mình.
Suốt hơn ba mươi năm, kể từ sau ngày thống nhất, dưới sự kềm
kẹp của đảng độc tài, độc trị CSVN, giới trẻ đã có được hai
lần hiếm hoi lên tiếng.
Giới trẻ đã vượt qua sự sợ hãi của bản thân vì lòng yêu nước,
vì trái tim, vì nhiệt tình.
Trái lại, đảng và Nhà nước Việt Nam bao trùm quyền lực thì lại
bắt đầu sợ hãi, tìm mọi cách cản ngăn chỉ vì quyền lợi bản
thân và quyền lợi đảng.
Một điều đáng xấu hổ nữa phải chỉ ra đây là
những nhà khoa bảng, trí thức, giáo sư, giáo viên thường hay
rao giảng lòng yêu nước cho con em, khi biết tin tức này,
không thấy một ai lên tiếng.
Không lẽ họ đã trở thành “trí ngủ” hết cả sao?
Điển hình cho tầng lớp “trí ngủ” hèn yếu, bạc nhược “mũ ni che
tai” là một cái Công văn của Trường Đại học Công Nghệ Quốc Gia
Hà Nội do ông Phó Hiệu trưởng ký, buộc sinh viên không được
biểu tình. Chuyện nước nhà để cho Nhà nước giải quyết. (sic)
Hành động của sinh viên học sinh trong nước nhanh chóng phản
ứng với vụ Tam Sa đã dạy cho đảng CSVN một bài học về lòng yêu
nước và đồng thời nhắc nhở các vị trí thức khoa bảng rằng yêu
nước không phải chỉ là lý thuyết suông mà phải thể hiện ra
hành động cụ thể.
Vì muốn bảo vệ chiếc ghế quyền lực của mình để duy trì chế độ
độc tài mà CSVN phải bám chặt lấy bá quyền Bắc Kinh để tồn
tại.
Sử Việt ghi chép Trần ích Tắc và Lê Chiêu Thống
“cõng rắn cắn
gà nhà” nhưng hai người này vẫn chưa bán đi một tất đất nào
của tổ tiên.
Giờ đây, đảng CSVN và Nhà nước CHXHCN Việt Nam miệng luôn rêu
rao là yêu nước, mà giang sơn nước Việt bị bọn họ hết lần này
đến lần khác, hai tay dâng đất đai, biển cả cho bọn Tàu Ô.
Lòng tham của bọn ngoại xâm bành trướng phương Bắc không chỉ
dừng nơi đây. Và sự quị lụy, hèn nhát của bọn nội xâm, phản
quốc cũng không chỉ dừng ở đây.
Chúng ta hãy cảnh giác cao độ.
Cảnh giác ngoại xâm một thì phải cảnh giác bọn phản quốc, nội
xâm đến mười.
Nguyễn Thanh Ty
|