Như
mọi người đều biết trong những năm qua, một trong những
thành tựu mà nhà nước Việt nam thường hay phô trương và
khoe khoang về thành tích phát triển kinh tế, mà thước
đo là sự tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế quốc dân.
Tất nhiên họ cũng không quên nhấn mạnh và đang hô hào
kêu gọi đầu tư nước ngoài. Một trong những mũi nhọn và
trọng tâm phát triển của nền kinh tế. Bởi:
Đầu tư nước ngoài không những cái đòn bẩy, là điểm tựa
cho sự phát triển kinh tế xã hội, mà còn là cứu cánh cho
những vấn đề nan giải mà nhà nước VN, nếu không dựa vào
nó chắc sẽ bị khuỵu từ lâu, bởi như trước đó ai cũng
biết, thời cựu tổng Lê Khả Phiêu, do lo sợ bị “mất nước”
đã không dám bang giao quốc tế, mạnh dạn mở rộng đầu tư
mà kêu gọi vỗ về dân chúng tự lực cánh sinh phát huy
“nội lực” và sau thời phát huy nội lực gồng mình lên hết
cỡ thì họ mới thấy cái nội lực của võ sĩ bọ ngựa theo
kiểu “gậy tầm vông”đã bị phá sản, nếu không theo đuôi
anh Tàu cộng, để kêu gọi đầu tư nước ngoài, chắc chắn sẽ
đi đứt, bởi vậy nhờ sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn
của đảng, Việt Nam đã mạnh dạn chuyển đổi cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa kêu gọi đầu
tư nước ngoài
Phải thừa nhận đúng như sự khoe khoang đó, đầu tư có vốn
nước ngoài do các doanh nhân người nước ngoài trực tiếp
tham gia đầu tư vào VN, đã tạo lên sự khởi sắc và thay
đổi cơ bản nền kinh tế, cũng như tư duy kinh tế cho Việt
Nam, bộ mặt kinh tế xã hội nhờ có chủ trương “đúng đắn”
của nhà nước, nhờ có đầu tư nước ngoài đã như cá gặp
nước, như nắng hạn gặp trời mưa, đã làm cho Việt Nam
thay da đổi thịt từng ngày từng giờ.
Ngoài mức độ đóng góp ngân sách đáng kể như vậy (Hiện
nay đóng góp ngân sách đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng
50 % ngân sách) đầu tư nước ngoài còn có nhiều tác dụng
đã đem lại lợi ích vô cùng quan trọng cho đời sống xã
hội Việt Nam, như tạo công ăn việc làm cho hàng triệu
lao động, nâng cao mức sống cho người dân, đưa các giá
trị tiếp thu công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến cũng
như tay nghề cho người lao động vv...
Đồng thời đầu tư nước ngoài cũng đem lại những lợi ích
không nhỏ về các giá trị tương tác, giá trị về mối quan
hệ hữu cơ giữa các thành phần, các nhà tham gia kinh
tế, đó là nhà quản lý (nhà nước cai trị) nhà đầu tư (ông
chủ nước ngoài) và nhà sản xuất (người lao động). Cũng
nhờ có sự hợp tác đầu tư, đã đem lại lợi cái hại không
nhỏ cho các nhà tham gia kinh tế nêu trên. Sau đây tôi
xin phân tích lợi ích kinh tế cũng như tác hại đã đem
lại cho các nhà như sau:
Đầu tiên phải kể đến nguồn lợi kinh tế mà đầu tư nước
ngoài đem lại cho ngân sách (mà nhà quản lý là chủ tài
khoản ngân sách), chỉ cần lấy một ví dụ điển hình: Một
doanh nghiệp nước ngoài có số vốn đầu tư hơi bị khiêm
tốn khoảng gần 1 triệu USD, với gần 100 công nhân bản
xứ, chuyên lắp ráp và cung cấp các linh kiện phụ tùng
xe máy trong nước, đã đóng góp thuế cho nhà nước một năm
hàng chục tỉ đồng, tạo nguồn thu ngân sách cho điạ
phương (được hưởng 60%) gấp đôi số thuế mà tất cả các
hộ cá thể, các doanh nghiệp người bản xứ và toàn bộ số
thu nhập từ nông nghiệp của nông dân trong tỉnh đó cộng
lại, hay nói một cách khác, số tiền thuế của doanh
nghiệp nước ngoài đó có giá trị bằng... 30 năm tiền thuế
cả tỉnh Hà Giang (mỗi năm 2 tỉ đồng).Cái giá trị siêu
lợi nhuận đó, đã làm ngốt mắt cho các nhà cai trị đang
trong cơn khát tiền như khát nước.
Chính vì nhìn thấy được lợi ích đó, ngửi thấy cái mồi
béo bở đó, nhà quản lý đua nhau trải thảm đỏ mời chào
các nhà đầu tư, các địa phương thi nhau vượt rào để có
những cơ chế ưu đãi riêng nhằm thu hút các nhà đầu tư,
người ta thấy các khu công nghiệp, các khu chế xuất mọc
lên nhan nhản khắp nơi, nếu địa điểm nào nhà đầu tư
”muốn”, bất kể địa hình địa điểm đó là gì, đang canh tác
nông nghiệp, hay đất rừng phòng hộ, chỉ cần là các nhà
đầu tư chỉ tay chọn nơi ưng ý hợp thổ làm ăn, sẽ được
các quan chức hàng tỉnh tìm mọi cách “chiều” lòng các
ông chủ nước ngoài.
Nhờ có nguồn thuế nộp ngân sách mà các nhà đầu tư nước
ngoài đem lại, mà nhà quản lý (cai trị) đã lấy lợi nhuận
thu được để rồi chỉ lo chăm chắm vào việc dùng đồng tiền
chi dùng vào việc củng cố bộ máy quyền lực của đảng độc
tài, bộ máy cai trị, bộ máy quản lý và bộ máy tuyên
truyền, rồi tìm cách hợp pháp hóa tham nhũng bằng những
chủ trương chính sách độc tài, và cái mục đích cuối cùng
là “làm sao lợi dụng thằng tư bản để mình đứng vững là
được” (trích lời của ĐM) Làm sao đáp ứng được tinh thần
và vật chất cho cán bộ đảng viên! Làm sao trói chặt họ
vào cỗ xe độc tài bằng cái bả tiền tài địa vị, gắn chặt
quyền lợi vật chất với sự tồn vong của chế độ là được.
Và như chúng ta thấy nhà quản lý đã sử dụng phần bánh
được chia với nhà đầu tư để phân phát cho các cán bộ của
đảng như thế nào rồi, thôi thì nhà lầu xe hơi sang
trọng, thôi thì nhà hàng khách sạn sành điệu, cho đến
nghỉ mát nước ngoài nước trong vv... đến nỗi chưa bao
giờ đảng ta lại xa dân như bây giờ, bằng chứng là đảng
thì tìm cách trị dân hành dân, còn dân thì chửi cán bộ
của đảng từ to đến nhỏ từ lớn chí bé mút mùa... Đến nỗi
khoảng cách giàu nghèo do đảng ta đem lại đã được tính
bằng một trời một vực, bằng chứng các đại gia con quan
tiêu tiền vào loại “khủng long” còn con dân thì nhọc
nhằn kiếm từng vài nghìn bạc đắp đổi qua ngày, chưa bằng
số tiền lẻ các ông “trời con” rơi không thèm nhặt
Bởi vậy nguồn ngân sách do đầu tư nước ngoài đem lại,
đang là bầu sữa nuôi nấng đảng, nuôi sống chế độ, đã
được nhà quản lý (cai trị) triệt để tận dụng và khai
thác để tồn tại và phát triển bộ máy cai trị.
Nhà
đầu tư là nhân vật quan trong thứ hai được hưởng lợi,
với một chính sách cởi mở thông thoáng mà nhà quản lý đã
tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài, không thể có được môi
trường lý tưởng nào hơn thế, bởi cái chính sách ưu đãi
mà các nhà cai trị nước nghèo tạo ra cho họ quá thoáng,
có lẽ trong mơ họ cũng không thể nghĩ được rằng mình
được “cưng chiều” như vậy, từ sự thông thoáng chính sách
cho đến việc tạo điều kiện thuê đất, thuê nhân công rẻ
mạt, cho tới việc được khoanh vùng bảo hộ mậu dịch ,
miễn và ưu đãi một số thuế cho tới việc mở luồng sản
phẩm chưa lắp ráp, đã làm lợi cho các ông chủ đầu tư
hàng tỉ USD tiền chênh lệch thuế nhập khẩu để rồi “mắm
nó chấm nó” bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ
lại bán sản phẩm với giá cắt cổ cho nó dùng, đã tạo được
nguồn thu siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư, điển hình
là nhà sản xuất xe gắn máy Hon Đa, một sản phẩm cùng
loại bán ở hai thị trường khác nhau có giá gấp đôi (thị
trường Thái Lan xe máy Drem 1050USD, trong khi ở VN loại
tương tự được bán với giá 2100 USD).Với giá trị siêu
thặng dư như vậy, ngoài việc họ phải đóng góp một koản
tiền thuế nhất định cho chính quốc và chi cho việc nhập
gia tùy tục, uông nước nhớ nguồn, nhờ có các nhà quản lý
tạo điều kiện thuận lợi cho như vậy, tất nhiên phải có
chút ít phong bao lại quả cho họ, có như thế mới lâu bền
được, tỉ dụ là việc LG mừng thọ cụ tổng ĐM caí phong bì
khiêm tốn 2 tỉ USD, gọi là chút lòng thành.
Còn lại là phần nhà đâu tư bỏ túi. Vậy sự hưởng lợi này
nhà đầu tư đã hưởng thụ ra sao! Sau 1 tuần làm việc căng
thẳng tại cái xứ sở nắng nóng và đây bụi khói này, là
những ngaỳ nghỉ cuối tuần tại bãi biển Bali xinh đẹp,
Đubai thiên đường hay những bãi biển ven bờ Địa Trung
Hải đây mộng mơ... Với họ như thế là đủ, với họ không
cần biết cái gì ngoài đồng tiền, bất chấp tất cả ...
sống chết mặc bay.. tiền thày bỏ túi.. việc họ đã hưởng
ứng lời kêu gọi đầu tư của chính phủ VN là tốt lắm rồi,
nhờ có họ mà nền kinh tế VN đang đi lên, nhờ có họ mà xã
hội VN ngày càng phát triển, nhờ có họ mà hành triệu
người lao động có việc làm có thu nhập...
Còn có kẻ nào đó ngứa mồm cho rằng họ a dua một đồng một
cốt với nhà quản lý (cai trị) bóc lột công sức lao động
của người dân, không đếm xỉa gì đến cuộc sống của người
dân, thậm chí còn ngầm ủng hộ nhà cai trị, trị dân, quản
dân cho thật ngu, dân càng ngu càng dễ thuê giá rẻ, càng
dễ bóc lột, đó là những kẻ xuyên tạc vu khống.
Họ sang đây chỉ để làm ăn, chứ việc dân chủ nhân quyền
tự do của dân không phải là việc của họ, đấy là việc
“nội bộ” mình không lên tham gia quá sâu, như vậy là
mình vi phạm chủ quyền, mình làm ăn với chủ gia đình,
chứ có làm ăn với con cái nó đâu! Còn việc ông chủ gia
đình dùng tiền lãi được chia để chi dùng việc gì đó là
việc của họ, rượu chè, gái gú, cờ bạc... đây là quyền họ
của họ, mình không cần biết! còn vợ con họ nheo nhóc khổ
sở bị đày đọa ra sao! Không liên quan đến mình, không
thuộc trách nhiệm của mình... Với cái ý nghĩ đó họ vô tư
hưởng thụ bên cạnh người đẹp trong những ngày nghĩ cuối
tuần...
Cuối cùng là lợi ích của nhà sản xuất (lao động) Phải
thừa nhận từ khi các ông chủ nước ngoài vào mở công ty
nhà máy, đã tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống và
thu nhập cho người lao động. Nhưng cái thừa nhận này nó
chỉ đúng khi so với thời con dân bị trói chặt vào cỗ xe
chủ nghĩa xã hội, khi đó làm, ăn, ngủ, nghỉ của con
người đã được Robot hóa, đảng bảo sao làm vậy, có chân
có tay có mồm có mắt, đảng cho nói mới được nói, đảng
cho nhìn mới được nhìn, cái đầu cũng trở thành củ chuối
khi đã có đảng chăm lo, chỉ có mỗi cuộc sống thực vật
đảng không lo được bởi vậy cuộc sống của dân đã “bị
trói”, cái bụng của dân lép kẹp, nay nhờ ơn đảng cởi
trói, tăng phần long trọng cho lên làm kiếp ngựa trâu,
vì vây có phần mát mặt hơn trước kia mà thôi!
Chứ còn so sánh với bè bạn, giai cấp công nhân quốc tế,
thì giai cấp công nhân Việt nam ngày nay còn thu thiệt
nhiều lắm lắm! Với 5-60 USD/lương tháng chống chọi với
giá cả chóng mặt, với một cổ ba tròng, một tròng ông
quản lý, một tròng ông chủ đầu tư và một tròng do qui
luật tự nhiên để sinh tồn mà ai ai cũng phải choàng vào
đã làm cho hình tượng gia cấp công nhân Việt Nam ngày
nay không khác gì cái năm Dậu xưa kia. Ba cái tròng ấy
nó thi đua nhau, ra sức vắt kiệt cái sinh lực vốn đã cam
chịu từ thuở xa xưa đến nay rồi.
Cái tròng thứ nhất là ông chủ đầu tư, ông ta tính toán
chi ly đến nỗi từng giờ từng phút để qui đổi ra 60 USD
sao cho vừa 1 tháng, sao cho vắt quả chanh thì phải vắt
kiệt nước. Theo trình tự luật lao động, nhà đầu tư sẽ
phải trả lương theo thời gian lũy tiến, có nghĩa là mức
lương sẽ được tăng dần theo thời gian lao động. Nhưng
các ông chủ lách luật hơi bị khéo, họ khống chế thời
gian hợp đồng là 3 năm, rồi khi hết thời hạn hợp đồng,
thì allée hấp, cắt hợp đồng tuyển lao động mới... thế là
muôn đời thằng lao động chỉ với mức lương 60 USD/tháng,
nếu muốn làm nữa phải theo hợp đồng mới.... Rồi còn bao
nhiêu thủ đoạn ngón nghề mà các ông chủ tha hồ tác oai
tác quái, kể cả việc đánh đập, sỉ nhục quỵt tiền thúc ép
công nhân vv.. họ cũng không từ.
Cái tròng thứ hai là các nhà quản lý, có lẽ chưa có nước
nào giai cấp lao động lại có vinh dự khiêng ông quản lý
nhiều như ở Việt Nam, cứ chiểu theo số dân và tỉ lệ
người lao động thì cứ 8 dân đen được khiêng 1 ông cán bộ
quản lý. Làm một con tính số dân Việt Nam hiện nay là 83
triệu, tỉ lệ quân bình người lao đông trên số dân là 1/3
có nghĩa là 83/3 sấp sỉ 28 triệu, trong đó số viên chức
nhà nước chiếm tỉ lệ theo số dân được đảng cơ cấu vào
biên chế là 10% có nghĩa là khoảng 8 triệu viên chức nhà
nước hưởng lương từ đồng thuế, cũng có nghĩa là hưởng
lương từ chính sức lao động của người lao động chính làm
ra.
Con số 28 triệu lao động mà đã có 8 triệu viên chức ăn
lương ngân sách, với tỉ lệ trên thì cứ 2,5 thằng lao
động làm thuê phải khiêng 1 ông quan cách mạng, hay nói
cách khác, cứ 8 người cả người già lẫn trẻ sơ sinh phải
khiêng 1 ông quan cách mạng ngồi chễm chệ trên kiệu...
Có lẽ về điều này, Việt Nam được xếp vào hàng kỷ lực thế
giới.
Cái tròng thứ ba là cái tròng nợ đời của cái kiếp luân
hồi, cái nợ đồng nần để bảo tồn giống nòi mà ai cũng đều
mắc phải, nhưng đối với người lao động quả cũng là gánh
nặng, thôi thì đời cua cua máy, đời cáy cáy đào... hú hí
nhau để rồi đẻ ra mà nuôi theo khả năng của thằng làm
thuê, học hành, sách vở, ăn mặc, ngoài cái nghĩa vụ bắt
buộc phải đóng góp cho các nhà nêu trên, còn lại mới đến
những đứa con... nuôi đấy nhưng sau này cũng như đời bố
mày thôi, lại đời làm thuê, làm mướn để sinh tồn, không
biết bao giờ mới mở mặt với đời được đây....!
Nhưng có một tin vui có thể đem đến tia hy vọng cho nhà
sản xuất (lao động) được sự quan tâm theo dõi của các tổ
chức NGO, mới đây theo tin cuả RFA, tổ chức ngân hàng
thế giới IFC và Liên hợp quốc đã quan tâm nghiên cứu về
đầu tư nước ngoài liên quan đến tình hình nhân quyền ở
các nước nghèo, qua đó người ta sẽ có những chế tài áp
dụng cho các doanh nhân nước ngoài đầu tư vốn vào các
nước nghèo phải cam kết thực hiện cac điều kiện do quốc
tế qui định.
Bởi sau nhiều năm thực hiện đầu tư nước ngòai ở các nước
nghèo qua theo dõi và những gì diễn ra trên thực tế,
người ta mới giật mình thấy bị “hố” khi mà họ những
tưởng tạo điều kiện cho các công dân của mình rót vốn đổ
của vào để vực dậy các nền kinh té nghèo nàn và lạc hậu,
sẽ kéo theo sự phát triển dân trí, dân quyền cho các
nước đó, họ tưởng rằng dân đã có cái ăn cái mặc, được
tiếp cận với nền văn minh, sẽ tự mình gánh vác được bản
thân mình, sẽ được các thế lực cầm quyền tạo điều kiện
cho quyền làm chủ, hay chí ít cũng nới lỏng chính sách
hà khắc với dân. Nhưng trên thưc tế hoàn toàn lại không
phải như vậy, người ta đã dùng đồng tiền thu được từ lợi
nhuận qua thuế để chỉ chăm lo củng cố quyền lực cai trị
mà thôi..
Qua bức tranh phát triển kinh tế Việt Nam, chúng ta sẽ
thấy được điều đó với mức độ phát triển được tính bằng
giá trị đóng góp ngân sách chủ đạo của đầu tư nước ngoài
như vậy. Những tưởng rằng chỉ cần độ 10 năm thôi nền
kinh tế Việt Nam theo đà phát triển sẽ vọt nên thành
“rồng” thành “ tiên” Nhưng hỡi ôi! Cái sự phát triển
kinh tế nó chỉ mang tính hình thức hay nói cách khác nó
là nền kinh tế “tầm gửi” Sự phát triển hoàn toàn không
có tính bền vững khi mà các nhà cai trị chỉ tính đến
thu lợi nhuận trước mắt, cái lợi nhãn tiền, để rồi chỉ
lo chăm chắm vào việc dùng đồng tiền thu lợi vào việc
củng cố bộ máy quyền lực của đảng độc tài, bộ máy cai
trị, bộ máy quản lý và bộ máy tuyên truyền, rồi tìm cách
hợp pháp hóa tham nhũng bằng những chủ trương chính sách
độc tài, mà không tính đến sự phát triển lâu dài bền
vững bằng những chính sách chiến lược phát triển xã
hội.
Đặc biệt là phát triển con người, như phát triển tầm
hiểu biết, nâng cao dân trí, trong đó có sự đầu tư cho
việc phát triển kinh tế hướng nội, phát triển tri thức
vào việc đầu tư cho giáo dục đào tạo và phát triển dân
sinh, tạo môi trương trong sạch và sức khỏe cho cộng
đồng vv... họ đã không đáp ứng sự kỳ vọng của cộng đồng
quốc tế, mà trái lại còn ra sức đán áp, cấm đoán sức tư
tưởng tự do tôn giáo, hạn chế các quyền cơ bản của con
người, đã làm cho chính phủ các nước phải xem xét lại
chính sách hợp tác đầu tư với các nước CS trong đó có
Việt Nam, nếu không muốn bị lợi dụng để dung dưỡng cho
chế độ độc tài tồn tại và phát triển, mà người ta đã
được biết qua quá khứ đã để lại cho nhân loại những vết
thương, những hậu quả khôn lường khó lòng khắc phục.
Ngày nay thế giới đã có những đổi thay cơ bản về tư
tưởng và quan điểm về mối quan hệ hữu cơ giữa con người
với con người, giữa các quốc gia khác nhau. Các giá trị
cơ bản về quyền con người cũng được nhìn nhận như một
nhân tố quan trọng cho bất kỳ mối bang giao quan hệ nào,
quyền con người đã được xác định đối xử công bằng với
bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào trên thế giới, sẽ
không có bất kỳ lý do viện dẫn cho việc chủ quyền cao
hơn nhân quyền, mà các thế lực độc tài phản động thường
nêu ra nhằm che đậy cho dã tâm của chúng. Bất kỳ hành
động xảo ngôn lấp liếm nào cũng không thể bưng bít được
việc họ đã cố tình chiếm đoạt quyền bất khả xâm phạm,
quyền lợi thiêng liêng nhất mà con người được hưởng
trong cuộc đời của họ đó là quyền làm chủ vận mệnh của
mình
Trước những động thái tích cực của của cộng đồng quốc
tế, của các tổ chức hòa bình, nhân quyền NGO, của tổ
chức ngân hàng IFC và Liên Hợp quốc, cũng như những lời
phát biểu các chính khách như Đạt lai lat ma, nguyên thủ
quốc gia như TT Mỹ Bush cổ vũ cho dân chủ và nhân quyền,
các lực lượng dân chủ Việt Nam cần tranh thủ sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, vạch trần nhưng âm mưu thủ đoạn,
cũng như vạch rõ những mưu toan dùng chiêu bài “Hợp tác
kinh tế, đầu tư nước ngoài...” để lợi dụng củng cố quyền
lực, nhằm kéo dài chế độ độc tài phản dân hại nước của
chúng. Đồng thời đẩy mạnh đấu tranh dân chủ trong mọi
lĩnh vực mọi lúc mọi nơi, nhằm sớm thực hiện hoàn thành
sứ mệnh dân chủ hóa đât nước mà lịch sử đã trao cho.
NB ngày 1/9/07
NH
|