Chuyện Làng Mai :
Có một Đạo Phật như thế !

800 nhà khoa học và yêu khoa học thuộc 20 nước về
làng Mai trao đổi nghiên cứu về
tế bào
vỏ não,...
(Bấm vào hình để mở lớn) |
Có
một đạo Phật nhiều khoa học, ít thần bí:
Đã có bao nhiêu trường phái truyền
bá đạo Phật. Từ Đại thưà đến Tiểu thừa, từ gốc Ấn độ, Tây tạng, qua
Trung hoa, Tich lan, đến Thái lan, Cambốt, xuống Nam dương, sang Nhật
bản. Có những trường phái truyền bá những điều thần bí, siêu nhiên, đầy
phép thần thông kỳ ảo. Chư thày cô làng Mai đang xây dựng một đạo Phật
truyền thống, thịnh hành từ đời Trần, mang đậm bản sắc Việt, lại khá là
hiện đại, dựa trên những khám phá mới mẻ nhất về sinh học, vật lý, hóa
học, toán học, thiên văn, tâm lý học… để lý giải cuộc sống muôn hình
muôn vẻ.
Có cả một lớp trí thức cao cấp xuất
gia và về dự tu học ở đây. Tiến sỹ, kỹ sư, bác sỹ, luật sư, nghiên cứu
sinh, du sinh chiếm tỷ lệ không nhỏ. Các bài giảng phổ thông, dễ hiểu,
có khi mở đầu bằng hỏi và đáp một thiếu niên Pháp hay Mỹ mới 12 tuổi,
rất vui vẻ sinh động, hoặc mở đầu bằng thử ngắm cho sâu một chiếc lá
phong để ‘’nhìn‘’ thấy trong đó áng mây, mặt trời, giọt mưa, hạt mầm, hệ
thống ‘’nhà máy‘’ sản xuất chất lục diệp tố, không quên người trồng chăm
sóc cây, để rồi cuối cùng có thể nhận ra cả vũ trụ chứa trong một hạt
bụi trần. Kết quả nghiên cứu về tế bào, về ADN, về di truyền, về kỹ
thuật tạo hàng lọat cơ thể sống từ một tế bào ‘’clonage
‘’, chứng tỏ trong cái riêng đều có
cái chung, cái ‘’một’’ chứa cái toàn thể, phép nhiệm màu bao trùm khắp
mọi nơi; con người ngày càng hiểu ra biết bao điều bí ẩn, chế tạo ra
biết bao kỹ thuật tân kỳ như máy bay, tàu ngầm, vô tuyến truyền hình,
điện thoại cầm tay, kính thiên văn, máy computơ cá nhân, để …’’ngộ’’ ra
rằng các nhà khoa học thật ra vẫn chưa hiểu biết gì cho thấu đáo về vũ
trụ và con người cả; chỉ một tế bào mà hàng triệu điều bí hiểm.
Hè này có một tuần lễ 800 nhà khoa
học và yêu khoa học thuộc 20 nước về làng Mai trao đổi nghiên cứu về
tế bào vỏ não,
tìm hiểu sâu thêm một loạt khái
niệm: xúc cảm, tình cảm, tiềm thức, nhận thức, linh tính và tâm linh,
mật thiết liên quan đến những khái niệm
Thân
và
Tâm,
rồi :
Thọ, Tưởng, Hành, Thức
thâm thúy của đạo Phật.
Ở làng Mai không còn những nhận thức
thô thiển, như có một Thượng đế, một ông Phật nào đó giống như con
người, có đầu mình và tứ chi, sống ở trên trời cao, ngày đêm ban phước
lành cho chúng sinh; mà Phật ở ngay trong ta, trong Pháp, trong Tăng,
trong ý thiện, việc thiện ta và mọi người cùng làm cho cuộc đời chung đỡ
khổ, vun trồng yêu thương và hạnh phúc ở khắp nơi ngay trong cuộc đời
này. Phật cũng ở khắp mọi nơi trong một vũ trụ vừa hài hòa theo quy luật
chặt chẽ, lại cũng đầy những phức tạp ngẫu nhiên vô thường.
Khoa học ngày nay cũng chứng minh
rằng thế giới vũ trụ là không có bắt đầu, không có kết thúc; sự vận động
chuyển hóa là không cùng; cái này khác cái kia, cũng lại không khác cái
kia; một là tất cả, tất cả cũng lại là một; phải trái trên dưới, một
hai, đông tây nam bắc, màu sắc, mùi vị đều là khái niệm chủ quan của con
người. Bụt dạy : bất sinh bất diệt, bất cấu (nhơ bẩn) bất tịnh (sạch),
bất tăng bất giảm; vô vô minh diệc vô vô minh tận (không có ngu dốt mà
cũng không bao giờ hết ngu dốt); vô lão tử diệc vô lão tử tận (không có
già và chết, mà cũng không hết già và chết).
Khoa học
và
phật giáo
gật gù tâm đắc, khoác vai nhau chặt.
Thật là vui, thú vị.

Một
đạo Phật đi vào cuộc đời -Hoạt cảnh mừng Thầy 80 tuổi-
(Bấm
vào hình để mở lớn) |
Có một đạo Phật lạc quan yêu cuộc
đời này :
Đã có thành kiến cho rằng đi tu là
chịu khổ hạnh. Có nhiều trường phái tu khổ hạnh, hành xác, đi chân đất,
nhịn đói, chịu khát, nằm gai nếm mật, chịu rét, từ chối nền văn minh vật
chất, chịu khổ để cứu nạn.
Ở đây có sự khổ luyện, sự kiên trì
thoát phàm tục, tinh tiến tâm linh, nhưng không khổ hạnh hành xác. Các
thày cô ở đây được luyện để yêu đời, quý trọng cơ thể mình, cảm nhận
hạnh phúc nội tâm
cho mình và cho xung quanh trong mỗi
một phút sống. Nụ cười làng Mai sao mà đẹp. Nụ cười ngầm, hơi tủm tỉm
khi gặp nhau, nhìn nhau, như nói rằng :
chúng ta là anh chị em!
Buổi sáng khi mới gặp lại nhau, mọi
người chắp tay trước ngực, hình búp sen bên trái tim, như một lời chào
thân, trao tặng nhau một búp sen thơm mát. Người phương Tây về đây cũng
vui lòng tiếp nhận cách bắt tay, cách ôm chào nhau chân thật: nhìn vào
mắt nhau với tình anh chị em, ôm nhau cũng nghĩ đến nhau thật lòng, xoa
tay nhẹ vào lưng nhau nếu tự thấy cần; không còn kiểu bắt tay qua loa,
áp 2 bên má một cách qua quít, có khi vô cảm. Các ni cô gọi đây là
‘’thiền ôm’’, ôm với tình thương chân thật; tất nhiên các ni cô trẻ chỉ
ôm với người cùng giới.
Nét đậm đà của làng Mai là thức
ăn chay mà ngon
chi lạ, ngon lạ lùng. Các ni cô, ni
sư rất coi trọng khoa nấu nướng, nâng bếp núc thành khoa học và nghệ
thuật cao. Vệ sinh thì tuyệt hảo. Vườn rau tự túc sạch tuyệt đối. Từ rau
muống, bắp cải, rau cải, rau cần, cà chua, cà rốt, đến bầu, bí, dưa
chuột, mướp đắng, rau thơm : mùi, húng, tía tô, thìa là, diếp cá, bạc
hà… cho đến hành, gừng, giềng… Đủ thứ, như ở quê mình, tươi ngon. Các
thày cô nhà bếp luôn nói đến
ngon lành,
ngon đi với lành. Lại còn cân bằng
âm dương,
theo mùa, thứ này đi với loại rau
kia, hỗ trợ bổ xung cho nhau, bổ dưỡng lại ngon miệng. Đậu phụ hấp,
ninh, rán, sào với các thứ rau khác nhau, với biết bao loại đậu, loại
khoai, sắn, giá, nấm… làm cho thức ăn phong phú, không bữa nào giống bữa
nào suốt trong một tuần. Nộm và nước chấm cũng nhiều lọai, cùng vừng,
lạc, dấm, dầu ô–liu, gừng, sả. Cơm, xôi đủ loại, bánh mì, cháo… tha hồ
lựa chọn. Người phương Tây có thể dùng bơ, pho mát, sữa bò, trứng (loại
không ấp thành gà con được).
Chè và bánh do các bà các chị người
Huế hướng dẫn sao mà phong phú, tinh tế, ngon lành đến vậy. Từ chè hạt
sen, đậu xanh, đậu ván, đậu đen đến bánh bột lọc, bánh giò, bánh xèo,
bánh xu xê, bánh Trung thu…
Điều chính ở đây là
quan niệm của Phật pháp
nhập sâu vào bộ máy hậu cần và nuôi
dưỡng con người. Hãy chăm nom thật tốt cơ thể chúng sinh, hãy mang
chánh niệm
từ khi trồng rau, tưới cây cho đến
khi rửa sạch lương thực để chế biến; hãy mang
chánh niệm
vào mỗi nhát dao thái củ khoai củ cà
rốt cho đều đặn, vuông vắn, mỹ thuật. Hãy mang
chánh niệm
vào việc nấu nướng để thấu hiểu rằng
biết bao công sức của con người làm nên gạo, khoai, rau đậu này đây, ta
phải nối tiếp để phục vụ lại cho chúng sinh đến mức cao nhất, cho mọi
người ăn thật ngon lành để làm điều thiện cho đời này.
Các ni cô và ni sư – hơn 100 người
tu ở đây, phần lớn là còn trẻ, dưới 36 tuổi, gọi nhau bằng
sư bác, sư chú, sư cô
hay
sư anh, sư chị, sư em,
như trong một nhà. Mỗi người
còn nhận một người cùng tu làm « đệ nhị thân » người bạn có vai trò nhắc
nhau chuyện tu học, chuyện giữ gìn sức khỏe, có bổn phận cho tăng thân
lớn biết khi bạn mình ngã bệnh mà
một mình mình không đủ sức giúp được. Thường là sư cô A có đệ nhị thân
là sư cô B, sư cô B lại có đệ nhị thân là sư cô C, sư cô C lại có đệ nhị
thân là sư cô H, sư cô H lại có đệ nhị thân là sư cô A. Như vậy một
người ngã bệnh là toàn chúng được biết và sẽ giúp nhau mà không cần phải
mỗi việc mỗi hội họp. Các vị cư sĩ về làng tránh phạm giới, trước hết là
5 giới
[1] gồm có: không sát sinh, không ăn cắp,
không tà dâm, không dối trá, không uống rượu và dùng ma túy… Có những
cuộc pháp đàm về giới để giúp nhau đi về hướng chân thiện mỹ của năm
giới mà ờ Làng hay gọi là năm phép
tu luyện chánh niệm.
Không khí an nhiên tự tại ở làng Mai
còn được xác lập tự nhiên, bền vững vì trong cư xử hàng ngày, nội bộ gia
đình lớn này thường nhắc nhau dùng ‘’ái
ngữ‘’,
tránh dùng những từ ngữ khó nghe.
Tôi hỏi mấy thầy: như vậy có phải là bỏ qua, nhân nhượng với nhau khi có
mâu thuẫn để giữ hòa khí ?. Thày Pháp Ấn là 1 trong 13 giáo thọ ở làng
Mai nói ngay: không phải vậy; pháp đạo, kỷ luật ở làng Mai nghiêm, không
bỏ qua sai lầm, vì bỏ qua là có hại cho anh chị em mình, là thiếu thương
yêu nhau; ‘’ái
ngữ‘’
là lời nói xuất phát từ yêu thương,
đã từ yêu thương thì sẽ được tiếp nhận vào tim người mình nói chuyện,
không phải chỉ là chọn hình thức chữ nghĩa cho êm tai. Khi nóng mặt lên,
tức giận, thở gấp thì không thể có ‘’ái ngữ’’. Khi tỉnh táo, thở sâu, có
tình thương lập tức có ‘’ái ngữ’’ đầy sức thuyết phục dù nội dung có
mạnh.
Không khí lạc quan yêu đời trẻ trung
ở làng Mai còn bao nhiêu biểu hiện khác. Bên dàn đồng ca, cùng niệm kinh
Bụt bằng tiếng Việt, Anh, Pháp, Đức, còn cùng hát ca nhiều bè, còn có
nhóm diễn kịch ngắn, tập đàn dương cầm, đàn guita, thổi sáo, còn xưởng
nhỏ tập nặn tượng, vót tre làm diều, nhóm phụ trách mầm non, mẫu giáo,
thiếu nhi, nhóm hội họa, chụp ảnh, đánh cờ, - cờ tướng và cờ quốc tế,
cho đến lớp học tiếng Việt… Thật vui khi được nói tiếng Việt với các ni
cô Từ Nghiêm (người Mỹ), Tín Nghiêm (Đại Hàn), với thầy Pháp Ý (người
Ý), Pháp Sơn (Tây Ban Nha), Pháp Hộ (Thụy Điển)… Nhiều người nói sõi như
người Việt mình vậy.

Một đạo Phật dân tộc, Tăng - Ni mặc áo tràng màu nâu, màu truyền
thống. Đặc biệt các sư cô ở đây chích khăn nâu rất dân tộc, chứ
không đội chiếc khăn lấy theo kiểu của các bà sơ (đạo Chúa) như lâu
nay.
(Bấm vào ảnh để xem lớn). |
Có một đạo Phật rất dân tộc cũng khá
hiện đại :
làng Mai có một thư viện khá lớn.
Riêng Thiền sư Nhất Hạnh có tủ sách riêng đồ sộ, tiếng Pháp, Anh, Đức,
Ân độ, Nhật, chữ Hán, chữ Phạn, chữ Nôm, tư liệu về lịch sử Phật giáo
Tiểu thừa, Đại thừa, về lịch sử Phật giáo Việt nam từ xa xưa qua thời
Lý, Trần đến nay. Nhiều kinh sách được lược dịch hoặc tóm tắt chuyển
sang tiếng Việt. Bút lực của Thày Nhất Hạnh sung mãn, có đến hơn 80 cuốn
tiếng Việt do nhà xuất bản Lá Bối phát hành, cùng với những tập thơ
thiền, một số bài thơ được phổ nhạc. Nét dân tộc khá rõ nữa là việc gắn
bó việc thờ cúng tổ tiên với đạo Phật ở làng Mai này.
Nét hiện đại của làng Mai cũng rất
rõ.
Giờ giấc nghiêm
đến từng phút. Sáng dậy đúng 5 giờ
rưỡi khi chuông lớn vang lên. Đúng 8 giờ rưỡi buổi giảng trên hội trường
bắt đầu. Giảng bằng tiếng Việt, hoặc tiếng Pháp, Anh, tùy theo ngày,
được dịch ngay sang các tiếng khác. Ngoài những loa đặt các góc phòng
còn có loa tại các phòng nhỏ hay tại các cụm di động có mái che trên bải
cỏ ngoài sân rộng, khi người dự quá đông. Các buổi pháp thoại đều được
ghi bằng hình ảnh và âm thanh, buổi tối được nhân bản vào băng, vào đĩa
để phổ biến ngay sáng hôm sau. Bộ phận ngoại ngữ và kỹ thuật có
trình độ chuyên nghiệp
cao, tháo vát, cập nhật với kỹ thuật
truyền thông hiện đại quốc tế.
Văn phòng làng Mai cũng khá là
chuyên nghiệp. Kế hoạch dự kiến cho cả năm, phân công cụ thể, có thời
gian biểu hàng tuần cho từng xóm. Khách đến và đi thường xuyên, bằng đủ
phương tiện, xe riêng, xe lửa, xe buýt, máy bay, đón và đưa, đâu ra đấy.
Thư đến và thư đi, email gửi và nhận tới tấp. Quan hệ với chính quyền
địa phương, các quận, các tỉnh và thành phố Bordeaux rất chặt. Từ sản
xuất, vận chuyển, bưu điện, thuế khóa, vệ sinh môi trường, cung cấp điện
nước, đường sá cầu cống, xây dựng, quản lý đất rừng… đâu có đơn giản.
Bác Cả, hơn 70 tuổi người có công thăm dò, quy hoạch và xây dựng làng
Mai từ những năm 1986, 87 cho biết những gian khổ ban đầu về mua đất, đo
đạc, dựng nhà, cung cấp điện nước đến công trình vệ sinh, cống rãnh được
khắc phục dần để có được cơ ngơi ngày nay.
Nét đẹp hiện đại, tiên tiến nữa tôi
nhận ra ở đây là
an ninh
rất tuyệt. Người tứ phương đến tấp
nập. Thế mà hầu như không có mất mát, trộm cắp, hàng chục năm nay vẫn
vậy. Ở mỗi xóm có một góc đặt các thứ để quên, đánh rơi : mũ dạ, ô, dày,
dép, kính mắt, bút, cả túi , ví tiền (với tiền mặt, thẻ ngân hàng, thẻ
căn cước được giao lại cho người chủ ) cặp, sách, túi lớn nhỏ, một vài
đồ trang sức.
Tôi nghĩ đạo pháp nhập vào mọi
người, điều
giới thứ 2
(không ăn cắp) được thấm sâu, chúng
ta là anh chị em thân thiết, hãy sống tốt, vun trồng điều thiện, tưới
tắm hạt nhân trong sạch nảy nở trong lòng ta. Anh bạn nhà báo đi với
tôi thủ thỉ : ‘’thích thật, ở đây ngủ không cần đóng cửa, cả xóm không
cần canh gác tuần tiễu, đồ đạc riêng để đâu yên đấy, không ai nhòm ngó
đụng vào. Bao giờ cho mỗi làng mạc quê ta trong nước sống như thời
Nghiêu Thuấn, như ngay làng Mai này ! Cần gì đến chó Bécgiê, chuông báo
động, máy quay phim dọc hàng rào và cổng ra vào. Thế này mới thực là
hiện đại ‘’.
Người phương Tây và trí thức trẻ gốc
Việt sống ở đây tô đậm thêm tính hiện đại của làng Việt độc đáo này.
Sách báo về khoa học tự nhiên và xã hội có nhiều người đọc. Mạng
internet ‘’làng
Mai‘’
là mạng phong phú, kỹ thuật và mỹ
thuật cao, lưu trữ tốt cả hình và tiếng, đứng hàng đầu trong làng mạng
tiếng Việt. Các ni cô tiến sỹ, giáo sư, thạc sỹ, các ni sư cử nhân, bác
sỹ, kỹ sư… ở đây đang cùng nhau học chữ Hán nôm, học tiếng Phạn, đọc thơ
ca đời Lý Trần và nghiên cứu kho tàng ca dao Việt để cùng nhau trở về
với dân tộc và đưa tâm linh dân tộc phát triển tới phía trước.
Đạo Phật và thái độ đối với những
người cộng sản :
Nhiều lần tôi hỏi chuyện các thầy cô
ở đây về mối quan hệ giữa đạo Phật và đảng cộng sản. Các thầy cô phát
biểu rất dè dặt thận trọng. Một thầy đọc khá nhiều sách mác-xít, từng
học về lịch sử đảng cộng sản tại trường đại học sư phạm trong nước, cho
rằng: « chúng
tôi luôn coi những người cộng sản cũng là những anh chị em mình trong
gia đình dân tộc và cộng đồng loài
người. Dù học thuyết họ theo đuổi đã từng ‘’vô minh‘’, từng bắt các linh
mục tu sỹ đi cải tạo, thực tế bắt làm khổ sai, phá đình chùa, quẳng
tượng Phật xuống ao, nay họ đã có được ít nhiều ’’tuệ giác’’ đối với tôn
giáo. Làng Mai đề ra việc đối thoại và cầu nguyện với chính quyền và
đảng cộng sản; đối thoại để nói thẳng thắn những điều cần nói không e
sợ, quanh co; cầu nguyện là cầu nguyện chư Phật soi sáng cho mọi người
cộng sản, nhất là những người cộng sản cầm quyền, làm nảy nở Phật tánh
dù còn ít trong tâm họ, cho họ biết noi gương các nhà cầm quyền thời
Trần, yêu thương và quý trọng người dân, dựa vững vào đạo đức và cuộc
sống tâm linh… Chúng tôi cho rằng phục hưng đất nước phải do cả dân tộc
cùng làm, theo nhiều giới nhiều cách khác nhau, mỗi người chung một tay,
nhà chính trị, nhà lãnh đạo tôn giáo, nhà dân chủ, trí thức, kinh doanh,
trong và ngoài nước, cùng dựa vào gốc dân tộc ».
Tôi gặp anh bạn nhà báo F.Prévost ở
làng Mai từ nước Bỉ đến, để tu tập chứ không để viết báo. Anh thuộc cánh
tả, từ tuổi trẻ đã mê Staline – ‘’người cha của các dân tộc’’, mê ông
Mao, ông Hồ, là đồ đệ của Bertrand Roussel và Jean Paul Sartre, để rồi
vỡ mộng cay đắng trước cả khi bức tường Berlin vỡ tan. Nay anh tìm hiểu
sâu đạo Phật, vốn có khiếu trào lộng, so sánh ‘’đạo Cộng‘’ với đạo Phật,
cộng sản cũng có Phật, Pháp và Tăng của họ. ‘’Phật’’ là Marx, ‘’Pháp’’
là học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, ‘’Tăng’’ là
đảng viên cộng sản đông đảo khắp nơi. Theo anh,
Cộng sản là ‘’đạo Phật lộn ngược’’,
đầu cơ lòng thiện của con người để hứa hẹn một thiên đường nhân ái bốn
bể là anh em, không có bóc lột, đầu cơ nguyện vọng độc lập dân tộc không
bị nô dịch, để dành độc quyền thống trị con người từ tinh vi đến đẫm máu
nhất.
Anh nói đến học giả Jean François
Revel (mới mất tháng 4-2006 ở tuổi 82) triết gia uyên thâm của cánh tả
Pháp đã tỉnh ngộ để chủ biên cuốn sách đồ sộ ‘’Sách
đen của chủ nghĩa cộng sản’’,
với thống kê hơn 100 triệu sinh mạng
chết thê thảm từ các cuộc thanh trừng, trại khổ sai, trại cải tạo, cách
mạng văn hóa vô sản, quét sạch tôn giáo, những vụ án vu cáo gián điệp,
phản động… Anh nói đến cái ‘’nghiệp’’
quá nặng của người cộng sản, đến nay
nhiều người vẫn còn trong ‘’mê lộ ‘’, chưa chịu tỉnh …
------------------------------
[1] Ví dụ :Giới
thứ nhất :
Vì chánh niệm thấy
sự giết chóc đưa tới khổ đau,
tôi quyết định tránh giết
chóc và tìm nhiều cách
bảo vệ sự sống,
Giới thứ hai :
Vì chánh niệm thấy
nhiều bất công xã hội, tôi quyết
không lấy
làm tư hữu những gì không phải của tôi,
mà còn cho
thì giờ, tiền bạc, tuệ giác (sự hiểu biết), tình thương cho những người
cần đến...
Giới thư ba :
Vì chánh niệm thấy nhiều đổ vỡ,
kết quả do sự ăn nằm bừa bãi, tôi quyết không ăn nằm với kẻ không phải
là vợ hay chồng mình, mà còn tìm cách bảo vệ người trẻ không bị lạm dụng
tình dục hay là nạn nhân của những sờ mó ...
Giới
thứ tư :
Vì ý thức lời nói
không nhìn sâu, cân nhắc kỹ, thiếu từ bi, có thể gây nhiều đau khổ, tôi
quyết định nhìn sâu thấy kỹ lắng nghe cho rõ rồi mới nói và chỉ nói
những lời có giá trị xây dựng hiểu biết và từ bi. Tôi sẽ không nói những
lời gây chia rẽ căm thù, không phê bình và lên án những điều mà chưa
biết chắc. Tôi lại còn tập lắng nghe sâu để hiểu tận tường mọi việc mọi
người trước khi nói.
Giới thứ năm :
Vì ý thức
tiêu thụ
không chánh niệm
cho thân
và
cho tâm
sẽ đưa vào tâm tôi nhiều độc tố có
thể làm tổn hại sức khỏe cơ thể và tâm hồn, tôi quyết định không uống
rượu, không sử dụng các chất thuốc hút ma túy (về thân) và không xem
những chương trình truyền hình hay những sách nhảm nhí bạo động dâm
loạn, không nghe và không nói những lời thô tháo mắng chưởi nhau, bêu
xấu nhau để giữ gìn sức khoẻ tâm linh cho tâm tôi...
(Xin đọc ở Trang Nha Lang Mai
www.langmai.org :
Sách của Sư Ông Nhất Hạnh Để Có Một Tương
Lai)
[
Xem tiếp phần 3 ]
|
|