PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Bốn phép tuỳ niệm (tt.)
(Bốn đôi và tám bậc thánh quả)

  • Tháng 08.2008 Chân Giác Lưu & Chân An Tĩnh phiên tả & biên tập :
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 4.06.2008 trong mùa An Cư tại tu viện Bát Nhã (Lâm Đồng)
    [Chân Minh hiệu đính và cập nhựt ngày 13.10.2008]

Kính thưa đại chúng,
Hôm nay là ngày mồng bốn, tháng sáu dương lịch, năm 2008, chúng ta đang ở tại thiền đường Cánh Đại Bàng, tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, trong mùa An cư kiết hạ. 


Đ
oàn thể gồm thâu bốn đôi và tám bậc thánh quả

Hôm qua chúng ta có nói đến bốn quả. Quả thứ nhất là an trú, quả thứ nhì là đã về đã tới, quả thứ ba là tương tức và quả thứ tư là vô sinh. Những quả đó không phải là ảo tưởng, không phải là sự mong cầu mà là những hoa trái chúng ta có thể đạt được bằng sự tu học. Chúng ta trang nghiêm, làm đẹp cho tăng thân bằng những quả đó. Sở dĩ một tăng đoàn mà có chất liệu thánh thiện, có thể làm chỗ nương tựa cho mười phương là vì trong tăng đoàn đó có những người đã chứng quả. Đoàn thể đó gồm thâu bốn đôi và tám bậc thánh quả. 


Hướng ở yên
- quả ở yên.
 
Đôi thứ nhất là an trú, tiếng Việt là ở yên. Ở yên là một quả vị mà ta có thể đạt được. Mình tự hỏi là mình có ở yên hay không? Hay là mình đang thấp thỏm, mình đang ngồi trên đống lửa, mình đang bồn chồn? Nếu mình đang ở yên được ngay bây giờ và ở đây là mình bắt đầu có quả ở yên. Tuy là chưa hoàn toàn nhưng mình đang đi tới quả vị đó. Chúng ta có danh từ Hán-Việt là an trú và danh từ thuần túy Việt là ở yên. Trú là ở, an là yên. Có yên mới vui, có an mới lạc. Điều kiện của hạnh phúc là sự bình yên. Ngồi yên mà đứng cũng yên, nằm yên mà đi cũng yên.

Trong một bài nhạc của Phạm Duy nói về đá và trăng, ông có than thở, lúc ấy ông đã hơn bảy mươi tuổi: Trăng ơi, yên lặng suốt đời. Mà sao ta vẫn đứng ngồi không yên?

Những người đứng ngồi không yên là những người chưa an trú. Mình phải tự hỏi là mình đã an trú chưa? mình đã ở yên chưa? Nếu mình thấy mình có tiến bộ, chắc chắn là mình sẽ đạt tới chỗ ở yên thì mình biết rằng mình đã đắc được quả thứ nhất gọi là an trú hướng tức là đang trên con đường đi tới an trú một trăm phần trăm. Khi an trú rồi, không cần đi nữa thì gọi là an trú quả. Ở yên là một đôi, gồm hướng về ở yên - đạt tới ở yên. 

Mình ở yên hay chưa thì mình biết. Mình chứng quả đó hay chưa thì mình biết. Sư anh, sư chị, nếu chứng được quả đó thì nhìn vào mình biết liền. Nếu mình chứng được quả ở yên thì sự vững chãi của mình là phẩm vật mình cúng dường, mình làm đẹp cho tăng thân. Làm đẹp cho tăng thân không chỉ là nấu cơm cho ngon, làm vườn rau cho đẹp, chăm sóc áo quần hay dọn dẹp thiền đường cho đẹp mà thôi. Đó cũng là làm đẹp, nhưng cái làm cho tăng thân đẹp nhất là khả năng an trú của mình. Cúng dường khả năng an trú cho tăng thân gọi là trang nghiêm tăng thân, làm đẹp tăng thân.

Nếu mình đi được những bước chân an lạc, thảnh thơi, mình không thấp thỏm, bồn chồn, mình không đứng núi nầy trông núi nọ, mình có mặt bây giờ và ở đây thì lúc đó mình có quả vị an trú. Đó là phẩm vật mình cúng dường cho tăng thân. Trong chúng có những người như vậy, không thấp thỏm, không bồn chồn, không muốn chạy đi đâu nữa. Những người đó không ít thì nhiều đã có quả vị ở yên rồi.

Tục ngữ có câu rất hay: Như cóc bỏ dĩa. Bắt một con cóc bỏ vào trong dĩa thì chỉ vài phút sau là con cóc nhảy ra khỏi dĩa. Nếu bắt nó bỏ vô lại thì chỉ vài phút sau là nó lại nhảy ra khỏi dĩa. Bắt cóc bỏ dĩa có nghĩa là mình muốn an trú mà chẳng an trú được. Trong con người mình có khuynh hướng bắt cóc bỏ dĩa tức là mình không làm được việc gì cho lâu bền, mình không ở được chỗ nào cho yên, mình không an trú, mình có cóc tính. Mình có Phật tính đã đành rồi nhưng mình cũng có cóc tính. Trong chúng ta ai cũng có cóc tính (fogness), ngồi yên một chỗ không được, chỉ muốn nhảy đi chỗ khác. Fogness là tiếng thầy đặt ra, fog-nature, chữ nầy trong tự điển chưa có. Mỗi người đều có cóc tính, trước hết tu là ta xác nhận trong mình có cóc tính. Mình muốn nhảy, mình muốn đi chỗ khác. Mình không ở yên được, mình ngồi trên đống lửa, mình bất an, không có hạnh phúc.

Phải đạt tới quả phi cóc tính thì mình mới ở yên được. Quả vị đầu tiên là quả vị phi cóc tính (fognessless) tức là quả vị ngồi yên, không còn muốn nhảy hay muốn đi tìm một chỗ khác, không còn đứng núi nầy trông núi nọ nữa. 


Hướng đã về đã tới - quả đã về đã tới.
Quả thứ hai là quả đã về đã tới, tiếng Hán-Việt là dĩ quy dĩ đáo. Đã về đã tới (I am arrived, I am home) đã được dịch ra tiếng Hoa: Ngã dĩ đáo gia liễu (Tôi đã về tới nhà rồi). Khi mình thật sự an trú rồi thì mình đạt tới trạng thái vô đắc hay vô tác nghĩa là mình không còn đi tìm tòi gì nữa.

Vô tác là một trong ba phép quán, ba định hay ba tam muội: Không-Vô tướng-Vô tác. Vô tác có nghĩa là đâu cần phải làm gì nữa. Vô tác, tiếng Phạn là apranihita tức là không đặt một đối tượng để chạy theo như là một bằng cấp hay một địa vị. Mình thấy mình đã có đầy đủ hết rồi, mình không còn thiếu gì nữa cả. Mình dừng lại hoàn toàn. Mình thấy mình có hạnh phúc rồi, không cần tìm cầu gì nữa. Đó gọi là vô tác, tiếng Anh là aimlessness. Aim là mục đích, aimlesness là không có mục tiêu để chạy theo. Từ foglessness tới aimlessness rất gần. Từ phi cóc tính tới vô tác không xa bao nhiêu, không đi đâu nữa, không làm gì nữa, đã có hạnh phúc chán rồi.

Một đợt sóng thấy nó có sinh, có diệt, có lên, có xuống rất là mệt. Người ta nói với nó: Anh phải thoát ra khỏi lên xuống, thoát ra khỏi sinh diệt! Muốn như vậy thì anh phải đi tìm nước. Anh phải là nước chứ chỉ là sóng thôi thì không được! Nhưng một đợt sóng mà đi tìm nước thì chuyện rất buồn cười! Nó đã là nước rồi thì nó đâu cần phải chạy đi tìm nước nữa!

Khi một người đạt tới quả vị vô tác thì người đó không cần đi đâu nữa, không cần phải bon chen làm gì nữa. Phật tánh, hạnh phúc ngay tại đây rồi. Đó là quả vị thứ hai gọi là đã về đã tới.

Trong chúng ta có người đã về đã tới khoảng chừng  20%, có người thì 45%, có người đến 80-90%. Chúng ta nên tự hỏi là chúng ta đã về đã tới được mấy chục phần trăm rồi? Đã về đã tới càng nhiều chừng nào thì trong tâm có an lạc nhiều chừng đó. Khi mình đã về đã tới 100% rồi thì mình đạt được quả  dĩ quy dĩ đáo. Nếu chưa thật sự đã về đã tới, nhưng mình đang trên con dường đi thì gọi là hướng dĩ quy dĩ đáo. Đó là đôi thứ hai: hướng đã về đã tới - quả đã về đã tới.


Tương tức hướng – tương tức quả. 
Quả thứ ba là tương tức, tiếng Việt là là nhau. Tôi là anh và anh là tôi. Con là ba, ba là con. Tôi là đám mây, đám mây là tôi. Thấy mình trong cái đó và thấy cái đó trong mình. Thấy mình với cái kia không phải là hai thực thể riêng biệt. Thấy mình với cái kia có một sự dính líu rất mầu nhiệm. Thấy đám mây dính líu với mình mật thiết cho đến đỗi, lấy mây ra khỏi mình thì không còn mình nữa. Mình có 70-80% là mây, nếu lấy mây ra thì mình khô queo như con khô mực. Mình với mây là nhau. Với mỗi hơi thở mình làm ra mây. Quí vị có biết là mỗi hơi thở của mình làm ra mây không? Mình thở ra hơi nước và thán khí (oxyde de carbone).

Chúng ta là nhau. Chúng ta không phải là những thực thể riêng biệt, không phải là những mảnh rời nhau. Nếu một cặp cha con thấy được: cha là con và con là cha, cha có trong con và con có trong cha, hạnh phúc của cha là hạnh phúc của con và hạnh phúc của con là hạnh phúc của cha; thì cặp cha con đó có nhiều hạnh phúc. Họ sẽ không còn khổ đau tại vì họ thấy mình là người kia và người kia là mình.

Quả nầy là một tuệ giác rất lớn! Nó làm chấm dứt những kỳ thị, những chia rẽ, ganh tị và khổ đau. Tuệ giác tương tức (là nhau) dịch ra tiếng Anh là interbeing, tiếng Pháp là interêtre. Chúng ta là nhau. We interare. I interam with you and you interare with me. Nhưng tiếc thay những chữ mầu nhiệm nầy chưa có trong tự điển! Mình phải viết thư cho ban tự điển  nói họ phải gấp gấp bỏ mấy chữ đó vào. Nó rất là hay! Như chữ foglessness (phi cóc tính), chữ aimlessness (vô tác) hay chữ interbeing (tương tức), trong khi chờ đợi thì mình cho vô tự điển Làng Mai.

Khi mình thấy mình là nhau 100% thì mình chứng được quả tương tức. Nếu mình chỉ thấy 30-40% thôi thì mình có tương tức hướng. Đó là cặp thứ ba: tương tức hướng – tương tức quả. 


Vô sinh hướng - vô sinh quả.
Đôi thứ tư là vô sinh, tức là bất sinh, bất diệt, dịch tiếng Việt là không sinh. Không sinh là chữ đại diện cho tám chữ khác là: không sinh, không diệt, không có, không không, không tới, không đi, không một, không khác. Không sinh là quả vị cao nhất. Đạt đến quả nầy thì mình không thấy mình còn sống-chết. Mình không còn là nạn nhân của sự sống-chết, mình vượt thoát sinh tử. Đám mây không sinh cũng không diệt. Mình thấy mình cũng vậy, không sinh không diệt. Mình không còn sợ hãi nữa, mình có vô úy. Lúc đó mình cưỡi trên sóng sinh diệt mà đi độ đời. Rất là vui! Mình có rất nhiều tự do, rất nhiều hạnh phúc! 

Đoàn thể gồm thâu bốn đôi và tám bậc thánh quả là như vậy. Là đoàn thể xứng đáng được cúng dường, là đoàn thể xứng đáng được quy kính. Là đoàn thể xứng đáng được tôn sùng. Là đoàn thể xứng đáng được ngưỡng mộ. Là ruộng phước quí hóa nhất trong đời. Sở dĩ tăng thân mà quý hóa, đáng tôn sùng là tại vì trong đó có bốn đôi và tám bậc thánh quả, nó có chất thánh trong đó. Sự tu tập của mình là để chế tác chất thánh đó, chế tác bốn quả làm cho tăng thân có giá trị.


Dựng Tăng.
Mình có thể xây dựng tăng thân bằng tổ chức, dùng thư từ, điện thoại hay e-mail để xây dựng một đoàn thể tu học. Nhưng như vậy thì chỉ xây dựng được cái vỏ của tăng thân mà thôi còn cái ruột của tăng thân thì mình phải tu tập mới xây dựng được. Phải có niệm-định-tuệ, phải có an trú, có tương tức, có vô sinh thì tăng thân mới có giá trị và trong Tăng mới có Bụt và có Pháp.

Sự nghiệp của người tu là công trình dựng Tăng. Bất cứ một đức Bồ Tát, một đức Bụt, một vị đạo sư nào cũng thao thức muốn dựng Tăng tại vì Tăng rất là mầu nhiệm. Tăng bảo hộ, che ch, giáo hóa. Dựng Tăng là một chí nguyện, một hoài bảo, một sự nghiệp. Dựng Tăng tiếng Anh là Sangha building. Dựng Tăng là một sự nghiệp có ý nghĩa nhất và cao đẹp nhất trên đời. Người tu nào cũng phải mang hoài bảo, ước mơ và chí nguyện dựng Tăng. Có Tăng quy tụ lại thì có biết bao nhiêu người được trở về nương tựa. Công việc dựng Tăng đem lại rất nhiều niềm vui. Như đã nói, dựng Tăng không phải chỉ có thư từ, điện thoại, e-mail mà thôi mà còn phải bằng sự tu tập của mình. Mình làm cho Tăng đẹp hơn, trang nghiêm hơn.

Có một sự hiểu lầm cho là Tăng chỉ gồm những người xuất gia mà thôi. Tăng cũng là ni. Khi mình nói, kính thưa quí vị tăng, ni và quí vị phật tử, thì có nghĩa là tăng, ni và phật tử khác nhau. Mình làm như tăng, ni không phải là phật tử, không phải là con của Phật. Phật tử có nghĩa là con của Phật thì tăng, ni cũng là con Phật vậy? Tại sao gọi cư sĩ là phật tử mà không cho phép người xuất gia là phật tử? Cách nói của mình thật là sai!

Tăng ôm cả ni và ôm cả phật tử. Chữ Tăng là từ chữ Sangha, dịch âm là Tăng già. Nó có nghĩa là một cộng đồng (community, group of people), một nhóm mgười, một tập đoàn hay một đoàn thể. 

Tăng thân của Đức Thế Tôn là đoàn thể mà chúng con quay về nương tựa. Đoàn thể đó có những người xuất gia nam, xuất gia nữ, những người tại gia nam và tại gia nữ gọi là tứ chúng. Chữ sangha dịch là chúng tức là một nhóm người. Khi nhóm người đó có đạo đức, có tu học thì mình tôn xưng là đại chúng. Đại chúng (Mahasangha) là một chúng có sự vĩ đại, sự tôn trọng trong đó. Maha là đại, là lớn. Tiếng Anh dịch là Great community, Noble community, Noble sangha. Noble là cao cả, cả là đại. Cả cười là cười lớn, anh cả là anh lớn. Mình phải trả về cho chữ Tăng ý nghĩa nguyên của nó. Tăng là một đoàn thể và đoàn thể đó gồm có xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ gọi là tứ chúng. Tứ chúng dịch ra tiếng Anh là the four-forms community, four-forms là bốn thành phần.

Khi chưa có người xuất gia thì cư sĩ cũng có thể thành lập một sangha. Một Cư sĩ Tăng (lay sangha) gồm những ưu bà tắc (upāsaka) và những ưu bà di (upāsikā). Cư sĩ nam, cư sĩ nữ có thể tới với nhau để thành lập một đoàn thể tu học. Đó cũng là một Tăng, một sangha rồi, nếu có những vị xuất gia nữa thì càng hay.

Chữ cư sĩ có nghĩa là ở lại, chưa đi xuất gia. Ngoài đời, những người học xong nhưng chưa ra làm quan thì gọi là xử sĩ. Sĩ là người có trí thức (intellectuels), xử là ở đó, ở miền đó, ở chỗ đó. Chữ xử tương đương với chữ cư. Trong đạo gọi là cư sĩ tức là những người ở lại chưa đi xuất gia. Khi ra làm quan thì gọi là xuất sĩ. Trong đạo, khi đi tu làm thầy thì cũng gọi là xuất sĩ.

Có lẽ trong tương lai mình phải nói: Kính thưa các vị xuất sĩ, các vị cư sĩ. Người xuất gia là xuất sĩ, người tại gia là cư sĩ. Cư là ở tại gia, xuất là rời bỏ gia đình. Sau nầy thế hệ trẻ có thể dùng chữ cho đúng hơn: Kính thưa ôn viện chủ, kính thưa ôn viện phó, kính thưa liệt vị xuất sĩ, kính thưa liệt vị cư sĩ. Câu đó hay hơn là: Kính thưa các vị tôn túc, kính thưa các vị tăng ni và phật tử. Nói như vậy là trật hết vì tăng cũng là ni, ni cũng là tăng và tăng, ni cũng là phật tử. Mình phải sửa lại cách nói của mình!

Là ruộng phước quí hóa nhất trên đời, Tăng mà có tu học thì trở thành một mảnh đất rất phì nhiêu. Mình gieo hạt giống vào mảnh đất đó thì nó sẽ lên rất tươi tốt. Cúng dường cho chư tăng đó có phước đức rất lớn! Một đoàn thể tu học mà có niệm-định-tuệ, có người an trú, có người đã về đã tới, có người thấy được tương tức, chứng được vô sinh thì đó là một mảnh ruộng rất phì nhiêu. Mình đầu tư vào một tăng thân như vậy thì có phước đức rất lớn cho nên gọi là ruộng phước quí hóa nhất trên đời. Đầu tư vào một tăng thân như vậy là rất thông minh tại vì trong tăng thân đó có nhiều châu báu. 



Thiền định vì Hòa bình tại quảng trường Notre-Dame de Paris

Giới, tiếng Phạn là silā, dịch ra tiếng Việt là răn, răn dạy. Chữ răn có nghĩa là đề cao cảnh giác, nhắc cho biết, giúp cho người ta ý thức được chuyện đó. Tiếng Anh có thể dùng chữ warning: báo cho người ta biết. Coi chừng! Làm cái đó là đổ vỡ hết! Cẩn thận đó nhé! Nếu con làm chuyện đó thì sẽ đưa tới tan vỡ như vậy! Nếu con không làm thì còn nguyên vẹn cả!

Trong Kinh, trong Luật có danh từ chỉ trì tác phạm, có nghĩa là, nếu  đừng làm điều đó thì gi được nguyên vẹn, còn nếu làm điều đó thì sẽ tan nát hết. Ví dụ như khi mình nói: Ông đừng uống rượu! Ông uống say về nhà đánh vợ thì cửa nhà tan nát hết! Đó là cảnh báo, là đề cao cảnh giác, là nhắc nhở trước. Ngưng lại đừng làm điều đó là chỉ trì, nếu đi tới làm điều đó là tác phạm. Chỉ trì tác phạm là nội dung của giới.

Giới nhắc cho người ta nhớ đừng quên cho nên giới có cùng một bản chất với niệm. Niệm là nhớ, không quên, nhắc nhở cho nhớ là niệm. Vì vậy  sự liên hệ giữa giới và niệm mật thiết cho đến đỗi ta có thể nói giới là niệm. Mình có thể đưa ra công thức: giới = niệm. Đó là phát minh của Làng Mai. 


Tam vô lậu học.
Trong Phật pháp chúng ta có nghe nói tới tam học hay tam vô lậu học. Tam học là ba sự tập luyện, ba sự thực tập tu học chứ không phải là ba môn học. Chữ học trong đạo Phật không có nghĩa là chất chứa kiến thức. Học có nghĩa là rèn luyện, tiếng Anh là training. Chữ học tiếng Phạn là śiksā mà chúng ta phiên âm là thức xoa. Những người thọ thức xoa ma na có sáu học pháp tức là sáu phép hành trì, rèn luyện. Sa di và sa di ni tiếp nhận sáu học pháp để làm thức xoa ma na.

Śiksā là học, nhưng học ở đây không có nghĩa là học hỏi mà là rèn luyện. Chúng ta phải nhớ rõ điều nầy: Chữ học trong đạo Phật có nghĩa là luyện tập chứ không phải là chất chứa kiến thức. Ngồi thiền là học, đi thiền là học, làm mới là học, nấu cơm trong chánh niệm là học dù là rất im lặng. Đó là hành, là sự thực tập.

Tam học đưa mình tới chỗ vô lậu tức là không bị nứt rạn, không bị rỉ ra nữa. Lu là nứt rn, lt ra ngoài, lt xuống sinh tử. Vô lu là không nứt rn, không lọt xuống sinh tử. Tam vô lậu học là giới-định-tuệ (silā-samādhi-prajñā).

Trong Bát chánh đạo và trong Thất giác chi, tức là trong những phép tu căn bản của đạo Bụt, thay vì giới-định-tuệ thì chúng ta thấy có niệm-định-tuệ. Trong Bát chánh đạo có chánh niệm, chánh định và chánh kiến. Chánh kiến là tuệ. Kiến ở đây không phải là kiến thức mà là một cái thấy sâu sắc, là một tuệ giác. Trong giáo lý căn bản của đạo Bụt về thực tập thì bộ ba niệm-định-tuệ luôn luôn là nồng cốt. Do niệm mà có định, do định mà phát tuệ. Có khi mình nói tam học là giới-định-tuệ, nhưng có khi mình nói tam học là niệm-định-tuệ (smrti-samādhi-prajñā).

Chúng ta đi tới kết luận là giới-định-tuệ tức là niệm-định-tuệ tại vì giới chính là niệm. Bản chất của giới là niệm. Thực tập giới chẳng qua là thực tập chánh niệm thôi. Khi mình thực tập giới là mình thực tập chánh niệm một cách cụ thể hơn.  


Giới tướng.

Nói tới niệm thì nó bao gồm rất nhiều. Nhưng nói tới giới thì rất cụ thể, rất chi tiết. Mình định nghĩa: Giới là sự thực tập chánh niệm một cách cụ thể nhờ những giới tướng. Giới tướng là những giới được trình bày ra một cách chi tiết.

Nói một cách đơn sơ thì giới là không làm điều ác, chỉ làm những điều lành và gi tâm mình cho trong sạch. Nhưng nói như vậy thì còn tổng quát quá. Khi đi vào năm giới thì mình thấy rõ ràng hơn nhiều. Mình thấy không nên làm những điều ác nào, phải làm những điều lành nào và gi tâm trong sạch như thế nào? Giới tướng có hình tướng rõ rệt. Vì vậy cho nên, thực tập giới là thực tập chánh niệm một cách cụ thể. Mình giảng dạy cho những người khác như vậy: giới tức là niệm, thực tập giới là thực tập chánh niệm với những chi tiết rõ ràng. Hễ có niệm thì có định và có tuệ.

Con đường năm giới là con đường chế tác hiểu biết và thương yêu. Khi có hiểu biết và thương yêu thì mình có hạnh phúc và mình có thể ban phát hạnh phúc cho những người khác. Những người thọ năm giới và thực tập theo năm giới là những người thực tập chánh niệm. Giới tướng năm giới rất là hay, rất là chi tiết và đầy đủ. Những người phật tử thực tập được, mà những người không là phật tử cũng thực tập được, vì trong đó không có nặng nề những danh từ về phật học. Đọc năm giới thì mình thấy rõ ràng đó là thực tập chánh niệm.

Giới thứ nhất của năm giới: Ý thức những khổ đau do sự sát hại gây ra (đó là niệm, thấy rõ được có rất nhiều khổ đau do sự sát hại gây ra), con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống cho mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hằng ngày của con.

Chúng ta thấy rõ ràng, giới thứ nhất là thực tập chánh niệm. Ý thức được rằng là đau khổ xảy ra vì con người sát hại lẫn nhau và sát hại những loài khác, đó là chánh niệm.

Giới thứ ba của năm giới: Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra (tà dâm làm tan nát gia đình) nên con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con.

Đó là thực tập niệm. Mình có thể nói, thực tập giới là thực tập chánh niệm với những chi tiết rất cụ thể. Nếu nói niệm thì có thể là còn tổng quát, trừu tượng, mơ hồ. Kinh Niệm Xứ có quán thân trong thân, quán thọ trong thọ, quán tâm trong tâm và quán pháp trong pháp. Đó cũng là cách thực tập chánh niệm. Chánh niệm là trái tim của sự thực tập trong đạo Phật (the heart of buddhist meditation). Từ niệm tới có định và từ định tới có tuệ gọi là tam học hay tam vô lậu học. 

Đại giới cũng xuất phát từ mười giới và từ năm giới. Khi mình từ cư sĩ thành xuất sĩ, mình thọ mười giới để thành sư cô hay sư chú, thì mình nên biết rằng mười giới không phải nhiều hơn năm giới. Mười giới chẳng qua là năm giới với những chi tiết rõ rệt hơn. Khi từ sa di, sa di ni hay thức xoa ma na mình thọ giới lớn (ba la đề mộc xoa, 250 hay 380 giới) thì tuy là số giới nhiều như vậy nhưng chỉ là để làm rõ ràng và chi tiết thêm cho mười giới.

Trong mười giới có giới không dâm dục. Nó có tính cách tổng quát là bảo vệ tiết hạnh của mình và gi gìn, bảo vệ tiết hạnh của người khác. Lên giới tỳ kheo thì có những giới rõ rệt hơn, cho biết bảo vệ bằng cách nào, rất là chi tiết. Đại giới cũng xuất phát từ mười giới và từ năm giới. Nó có những chi tiết nhiều hơn nhưng bản chất của giới vẫn là một. Nếu thực tập được năm giới là đã có hạnh phúc nhiều lắm rồi, đã được bảo hộ, che chở, đã được an lành, đã có nhiều hiểu biết và thương yêu rồi.  


4) Niệm giới

Gi giới rất là quí cho nên chúng ta phải niệm giới. Muốn niệm giới thì chúng ta phải biết tụng giới. Tụng giới, niệm giới  rồi mình phải pháp đàm về giới.

Ở Làng Mai, khi thọ giới rồi thì mình phải tổ chức tăng thân địa phương, mỗi hai tuần họp lại với nhau để tụng giới, niệm giới và pháp đàm về giới. Tụng giới và pháp đàm về giới là niệm giới, tức là nhắc nhở nhau.

Nhà nước bây giờ có những chương trình rất hay là thành lập những thôn, những khu phố hay những ấp văn hóa. Ý của nhà nước là thành lập những cộng đồng (sangha). Nếu mục đích của nhà nước là làm thế nào để đừng có những tệ nạn như mãi dâm, ma túy, xì ke, tham nhũng, tự tử xảy ra trong khu phố, thì mục đích của nhà nước cũng giống như mục đích của tăng thân là phòng hộ, ngăn ngừa và xóa bỏ những tệ nạn trong xã hội.

Nhưng nhà nước chỉ có pháp luật thôi, còn chúng ta thì có giới. Giới là do tự mình muốn chứ không do người khác cấm hay bắt buộc. Tự mình thấy giới bảo hộ được mình, giới làm đẹp cho đời sống của mình, làm đẹp cho đời sống của khu phố hay của thôn ấp mình.

Theo truyền thống đạo Phật thì mỗi 15 ngày chúng ta phải họp lại niệm giới, tụng giới và pháp đàm về giới để xem trong những ngày qua mình có vi phạm giới hay không và làm thế nào để mình có thể làm hay hơn nữa.

Tôi nghĩ, bên phía chính quyền cũng có thể làm như vậy. Ông trưởng ấp hay ông ủy ban nhân dân xã cũng có thể mời tăng thân của xã lại tụng giới. Tăng thân xã hỏi xem trong 15 ngày qua xã đã làm gì  để phòng ngừa những tệ nạn như mãi dâm, xì ke, cờ bạc, và có thể làm gì để tiến thêm một bước nữa? Nếu ông chủ tịch ủy ban nhân dân  mời đồng bào tới để thực tập như vậy thì cũng không khác gì là một tăng thân. Nếu chỉ đưa ra những nguyên tắc và biểu ngữ thì chưa đủ. Lấy pháp luật để làm cho người ta sợ thì chưa đủ. Phải có lòng của những người trong xóm, trong khu phố,  phát nguyện làm như vậy để làm đẹp cuộc đời mình, làm đẹp cuộc đời của thôn xóm và của đất nước mình. 

Vì vậy cho nên sự tu học của mình có thể đóng góp rất nhiều cho chính sách của nhà nước, có thể giúp cho nhà nước thành công trong việc thành lập những khu phố văn hóa. Mình giúp nhà nước một tay, không phải bằng chính trị mà bằng phương pháp tu học.

Ở Bảo Lộc, chúng ta có tu viện Bát Nhã, ai cũng biết là tu viện rất hiền. Trong vùng nầy không hề có ma túy, đĩ điếm. Những người tới tu viện đều có cảm hứng muốn sống tốt như vậy. Những công an trong chính quyền cũng thấy được điều đó. Họ thấy sự đóng góp của tu viện cho sự lành mạnh hóa ấp, xã, quận và cho sự lành mạnh hóa đất nước nầy. Thấy được như vậy thì họ yểm trợ cho sự tu học của mình.

Có biết bao nhiêu thanh niên chán đời muốn tự tử. Trở về tu viện Bảo Lộc, tiếp xúc được với chánh pháp, họ quỳ xuống tiếp nhận năm giới. Điều đó cứu được cả đời của họ. Họ về nhà tươi vui trở lại, họ hòa giải lại được với cha mẹ. Tất cả là do chánh pháp mà ra.

Sự thực tập của chúng ta có thể đóng góp rất nhiều cho cho đất nước, cho quê hương, không phải về phương diện chính trị mà về phương diện đạo đức, tâm linh.

Giới là tự nguyện chứ không phải do ép uổng. Mình có ý thức, có chánh niệm rằng: Mình làm cái đó thì đổ vỡ hết, không làm thì giữ được nguyên vẹn. Mình nói cái đó thì tan vỡ hết, không nói thì không sao. Nói một câu mất tình mất nghĩa làm cho tan vỡ, đó là phạm giới. Nói những lời yêu thương là trì giới. Phạm giới thì làm tan nát hết, trì giới thì giữ nguyên vẹn được hạnh phúc và tình thương.

Niệm giới là chuyện của chúng ta, của người tu. Nhưng tôi nghĩ, bên các ngành giáo dục, kinh tế, chính trị cũng phải thực tập niệm giới. Nếu không niệm giới thì gia đình mình tan nát, không niệm giới thì doanh nghiệp mình cũng tan nát. Trong chính quyền hay trong đảng, nếu có niệm giới thì chính quyền sẽ vững hơn và đảng cũng sẽ vững hơn. Giới là chuyện của tất cả mọi người chứ không phải chỉ là chuyện của riêng người phật tử. ☺☺☺

Xem tiếp >>

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.