PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 Nghệ thuật sống thiền :

Bốn phép tuỳ niệm (tt.)
(Cái học của người tu)

  • Tháng 08.2008 - Chân Giác Quang & Chân Tịnh Minh phiên tả & biên tập:
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 1.06.08 trong mùa An Cư tại tu
    viện Bát Nhã, Bảo Lộc (Lâm Đồng).
    [Chân Minh, hiệu đính và cập nhựt 13.10.2008]
     

Chúng ta đang ngồi tại thiền đường Cánh Đại Bàng, tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc-Lâm Đồng. Hôm nay là ngày đầu của khóa An Cư Kiết Hạ và sáng nay chúng ta đã làm lễ Đối Thú An Cư. Chúc đại chúng có một mùa an cư hạnh phúc, đạt được kết quả tốt đẹp về học cũng như về hành. Chúng ta ngồi cho đẹp, lưng cho thẳng, cho thảnh thơi, nghe tiếng chuông ta thở. ( CCC ) 


Quán niệm hơi thở.
Cách đây hai hôm chúng ta có học bài kệ mới để áp dụng thực tập trong thiền đi: 

Mỗi bước chân là sự sống.
Mỗi bước chân là phép lạ.
Mỗi bước chân là trị liệu.
Mỗi bước chân là thảnh thơi. 

Chúng ta đó có thể sửa lại bài kệ để sử dụng trong khi thiền ngồi. Ví dụ thay vì mỗi bước chân, mình nói mỗi hơi thở: 

Mỗi hơi thở là  sự sống.
Mỗi hơi thở là phép lạ.
Mỗi hơi thở là trị liệu.
Mỗi hơi thở là thảnh thơi. 

Chúng ta phải thở như thế nào để có thể làm được bốn điều đó?  Trong khi thở vào, ta ý thức được hơi thở vào. Trong khi thở ra, ta thấy ta tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống ở trong ta và xung quanh ta. Làm được điều đó trong mỗi hơi thở vào và hơi thở ra thì mới gọi là thành công. 

Mỗi hơi thở là sự sống, nếu tiếp xúc với sự sống ở trong ta và xung quanh ta với tất cả những mầu nhiệm của nó thì khi ngồi thiền ta đã bắt đầu thấy an vui rồi. Người đời họ bận rộn, lo lắng, họ có nhiều vấn đề, họ không có khả năng tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong họ và xung quanh họ, họ đánh mất sự sống trong đời sống hàng ngày. Chúng ta là người tu, chúng ta phải làm khác, chúng ta không đánh mất sự sống. Dầu có nhiều chuyện phải làm, nhiều chuyện phải lo toan, chúng ta vẫn tiếp xúc được với sự sống để được nuôi dưỡng, trị liệu.  

Mỗi hơi thở là sự sống, sự sống với tất cả sự mầu nhiệm của nó, như trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa nở. Mình đang sống thảnh thơi, với thầy, với bạn, mình đang có tuổi trẻ, có sức khỏe, đang có trái tim tốt, có hai mắt sáng, mình đang có tất cả những điều kiện của hạnh phúc. Nhưng vì những lo lắng, buồn phiền, giận hờn rồi mình đạp lên trên những điều kiện hạnh phúc của mình, rất là uổng. Phần lớn ở đời họ làm như vậy, nhưng mình là người tu, mình không làm như vậy. 

Khi thành công ở câu đầu, tiếp xúc với sự sống tràn trề ở trong mình rồi, ta mới qua câu thứ hai. 

Mỗi hơi thở là phép lạ, phép lạ tức là phép thần thông. Người đã chết rồi thì không cách gì có thể thở được một hơi vào, thở được một hơi ra. 

Khi thở vào mình biết đây là hơi thở vào, mình biết rằng mình còn sống cho nên mới thở được hơi vào, hơi ra. Vì vậy mới có câu thư pháp: Breath you’re alive. Thở đi, anh sẽ thấy rằng anh đang còn sống, mà đang còn sống là một phép lạ. Phép lạ nhứt của những phép lạ là mình đang còn sống. Còn đối với thây ma kia, dầu có muốn thở một hơi cũng không thở nổi, dầu có muốn đứng dậy đi thêm một bước cũng không bước được. Mình đang còn sống, còn khỏe, phổi mình đang còn tốt, mình có thể thở vào, thở ra. Chân mình đang còn tốt, mình có thể bước đi một bước. Mình trân quí hơi thở đó, trân quí bước chân đó. Bước chân đó là phép lạ, hơi thở đó là phép lạ.  

Thiền sư Lâm Tế nói: Phép lạ là đi trên mặt đất (địa hành thần thông). Bây giờ mình thêm phép lạ là: tôi đang thở vào, tôi đang thở ra. Khi đã hắt hơi thở cuối cùng thì dầu có bỏ ra 100 triệu đô la để thở thêm một hơi nữa cũng không có. Cho nên phải trân quí hơi thở vào, hơi thở ra của mình. Hơi thở làm cho mình tỉnh thức, làm cho mình sống dậy, làm cho mình tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm. 

Mỗi hơi thở là sự sống.
Mỗi hơi thở là phép lạ. 

Khi ngồi thiền mà mình tiếp xúc được với phép lạ như vậy thì làm sao buồn ngủ được? Không thể nào buồn ngủ được! Tràn đầy niềm vui, tràn đầy sinh lực! Không có ngủ được. 

Mỗi hơi thở là trị liệu
Mỗi hơi thở là thảnh thơi 

Hơi thở sâu và chậm đem lại bình an cho thân, cho tâm và làm lắng dịu những căng thẳng, bức xúc ở trong thân, trong tâm. Vì vậy khi thở vào chú ý tới cái bụng phình ra và mình có thể thở vào sâu hơn, sâu hơn một chút. Mình cảm thấy năng lượng dưỡng khí, oxy đi vào trong cơ thể, làm mới những hạt máu trong phổi. Những hạt máu khi trở lại phổi thì nó bầm đen, nhờ mình hít dưỡng khí vào thì những hạt máu đó đỏ trở lại và được gởi đi để tiếp tục nuôi cơ thể. Thở tức là mình đang thanh lọc máu huyết và khi thanh lọc máu huyết, mình cũng có rất nhiều hạnh phúc. Khi thở vào, một mặt mình đem dưỡng khí, oxy đi vào để lọc máu, một mặt mình làm lắng dịu những căng thẳng ở trong thân và trong tâm. Có những căng thẳng ở trong thân và trong tâm, hơi thở có khả năng làm lắng dịu lại. Đó là bài học thứ bảy ở trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở. Hơi thở thứ ba và thứ tư trong Kinh An Ban Thủ Ý là: 

Thở vào tôi ý thức được toàn thân, có những căng thẳng, bức xúc ở trong toàn thân.
Thở ra buông xả tất cả những căng thẳng, bức xúc ở trong toàn thân. 

Hơi thở thứ bảy và thứ tám là buông thư những căng thẳng ở trong tâm mình. Trong tâm có những cảm xúc, buồn, giận, lo, bực bội ; thở vào, mình ý thức được tâm hành đó, tâm hành của bực bội, buồn, giận. 

Thở vào tôi ý thức được tâm hành khó chịu ở trong tôi.
Thở ra tôi làm cho cái tâm hành đó nhẹ xuống. 

Trong Kinh gọi đó là an tịnh tâm hành. Tôi thở vào, an tịnh tâm hành, tôi thở ra hơi thở làm lắng dịu và có khả năng trị liệu, cho nên ta nói: Mỗi hơi thở là trị liệu. 

Nếu quí vị có đọc sách, tìm tòi học hỏi thì quí vị sẽ thấy rằng: nếu biết phương pháp thở đàng hoàng để thực tập, mình có thể trị được rất nhiều bệnh. Ngày xưa tôi cũng bị bệnh nhiều mà tôi thoát khỏi không phải nhờ nhà thương, bác sĩ mà nhờ tôi đã học được pháp An Ban Thủ Ý. Có khi bị bệnh rất nặng và các bác sĩ đã chịu thua vậy mà tôi đã chữa trị được bằng hơi thở, thành ra tôi rất biết ơn Kinh An Ban Thủ Ý. 

Mỗi hơi thở là trị liệu, mình thở như thế nào để thấy sự trị liệu xảy ra trong thân và trong tâm. Hơi thở làm lắng dịu lại, hơi thở giúp mình buông bỏ được những căng thẳng. Khi cơ thể mình hết căng thẳng thì nó bắt đầu có khả năng tự trị liệu những chứng bệnh ở trong thân. Các nhà khoa học bây giờ đều thấy được như vậy. Ngồi đó thở vào, thở ra như vậy là trị liệu, là chữa bệnh. Trong khi đi cũng là chữa bệnh, trong khi ngồi cũng là chữa bệnh. Những lo lắng, căng thẳng giảm xuống thì tự nhiên thân thể mình có khả năng phục hồi, sức khỏe trị liệu lại được. Mình nên tin vào khả năng của thân và tâm, đừng nên tin quá vào thuốc. Và cuối cùng là: 

Mỗi hơi thở là thảnh thơi, thảnh thơi là hạnh phúc, là tự do, không bị vướng bận chuyện này, chuyện kia. Cố nhiên cuộc đời người nào mà không có những khó khăn, chướng ngại? Nhưng là người tu, mình đừng sợ khó khăn, chướng ngại, những cái đó có thể tháo gỡ được dễ dàng nếu tâm mình an tĩnh. Còn nếu tâm mình không an tĩnh thì tháo gỡ hơi khó và nhiều khi mình làm cho nó rối beng thêm. Vì vậy cho nên mình phải có an lạc, có hạnh phúc, có trị liệu thì mới có tự do. Có tự do thì tháo gỡ rất dễ, không có sợ hãi.  

Mình có trí tuệ, có tình thương là mình có vốn liếng, với vốn liếng đó mình tháo gỡ được những khó khăn trong cuộc đời mình. Nếu mình không dùng trí tuệ và tình thương để tháo gỡ thì mình dùng cái gì? Mình dùng mưu mô, tiền bạc hay mình dùng những phương tiện khác…? Cách ở ngoài đời là như vậy. Còn cách của mình, chỉ dùng trí tuệ và tình thương để tháo gỡ những khó khăn. Mà khi có trí tuệ, có tình thương thì tâm mình lắng xuống. Tâm mình an thì trí tuệ và tình thương tự nhiên phát hiện ra đưọc. 

Mình phải học ngồi làm sao để cho mỗi giây phút của thiền ngồi là nuôi dưỡng, là trị liệu. Nếu mình ngồi ba bốn mươi phút mà không làm được chuyện đó thì rất uổng. Mình phải khôn khéo, chớ đừng ngồi chịu trận để đợi chuông thỉnh rồi đứng dậy. Mình phải biết lợi dụng, phải biết thừa hưởng thời giờ ngồi thiền đó, nếu mình biết cách thở, biết cách ngồi; giờ ngồi thiền đó là giờ hạnh phúc. Mình có những bài tập rất hay, nhưng mình cũng có thể sáng tác thêm những bài tập khác. Ví dụ như bài tập hôm trước: 

Thở vào, con mời đức Thế Tôn ngồi bằng sống lưng của con.
Thở ra, con mời đức Thế Tôn thở bằng hai lá phổi của con. 

Mình tiếc gì mà không mời đức Thế Tôn ngồi bằng cái lưng của mình? Tại vì đức Thế Tôn luôn luôn ngồi rất thẳng, rất buông thư, thẳng nhưng mà không cứng, không có gồng. Mình khôn khéo: Bạch đức Thế Tôn, con mời Ngài ngồi bằng cái lưng của con. Tự nhiên Ngài ngồi liền hà! Mình thấy cái lưng của mình bây giờ nó thẳng, nó mềm, tại vì đức Thế Tôn đang dùng cái lưng của mình Ngài ngồi, mà Ngài ngồi thẳng, ngồi đẹp thì mình được hưởng, có phải vậy không?.  

Con mời đức Thế Tôn thở bằng hai lá phổi của con đi, hai lá phổi của con còn tốt mà con còn trẻ. đức Thế Tôn sẽ dùng hai lá phổi của mình để thở vào, thở ra. Đức Thế Tôn thở rất là hay, Ngài thở rất nhẹ, rất thanh thản, rất đều. Khi đức Thế Tôn thở bằng hai lá phổi của mình, mình cũng được thừa hưởng. Bài kệ đó dễ lắm:  

Mình khỏi thở,
Mình khỏi ngồi
Để đức Thế tôn ngồi,
Để đức Thế Tôn thở. 

Mình ngồi đó mình hưởng, rất hay. Thực tập như vậy thì tôi đố sư chú sư cô nào buồn ngủ được. Cũng như mình thực tập thở vào:  Con mời ba ở trong con cùng thở vô một lần với con, hai cha con mình thở vô nè.  Đố thầy mà ngủ được? Đang thở với ba làm sao mình ngủ được? Ba mình chưa được học thở, bây giờ mình học thở được rồi thì mình cùng thở với ba mình: Hai cha con cùng thở vô nè.
Hai cha con cùng thở ra nè.
 Mình mời Bụt ngồi với mình, Bụt thở với mình xong rồi, mình mời ba ngồi với mình, thở với mình: Thở vào con thấy khỏe quá, ba có khỏe như con không?  

Mình nói chuyện với ba, ba không phải ở ngoài mình đâu, ba ở trong mình, có mặt trong từng tế bào cơ thể của mình. Hai cha con cùng thở vào, thở ra: con thấy nhẹ quá, ba cũng thấy nhẹ như con, hai cha con cùng thấy nhẹ.  

Trong khi thở như vậy, trái tim mình đầy ắp tình thương đối với ba mình. Mình mời ba thở rồi mình mời mẹ. Thở vào, tôi thấy mẹ tôi đang có mặt trong từng tế bào cơ thể tôi. Thở ra tôi cười với mẹ tôi đang có mặt trong tôi.  

Thở vào, tôi mời mẹ tôi cùng thở vào với tôi, hai mẹ con cùng thở vào. Vui biết mấy! Trái tim mình đầy ắp thương yêu trong khi mình thở vào, tại vì mình biết mẹ trong mình cũng thở vào như mình. Như vậy mình là một đứa con có hiếu. Có hiếu không có nghĩa là phải đem tiền nhiều về cho mẹ mà chỉ cần làm cho mẹ thảnh thơi, an lạc. Thở ra, con mời mẹ thở ra nhẹ nhàng với con, hai mẹ con cùng thở vào, hai mẹ con cùng thở ra. Thở vào con thấy khoẻ quá, mẹ có thấy khỏe như con không? Thở ra con thấy nhẹ quá, mẹ có thấy như con không?  

Thực tập như vậy vui lắm, không thể nào ngủ được, không cần phải uống cà phê. Khi thực tập với người thương được rồi thì mình thực tập với những người làm cho mình khốn đốn, làm cho mình điêu đứng. Tại vì những người đó họ không có hạnh phúc, họ làm khổ họ, rồi làm khổ luôn tới mình. Khi mình có khả năng, mình mời họ thở vào với mình, thở ra với mình.  

Cảm thấy khỏe, thấy nhẹ trong khi thở vào,
Cảm thấy khỏe, thấy nhẹ trong khi thở ra  

Mình ôm luôn được người làm khổ mình. Cái đó mới thiệt là từ bi và như vậy trái tim của mình nó mở rộng ra. Trái tim của mình không phải chỉ có chỗ cho ba, cho má, cho thầy, cho Bụt mà có chỗ cho người kia nữa. Cái đó mới le, mới xứng đáng là con của Bụt. Đó là trái tim không biên giới. Trái tim không biên giới theo danh từ Phật học là vô lượng tâm. Vô lượng tức là không đo được, đong được, lường được. Trái tim đó lớn quá, có chỗ cho tất cả mọi người, cho những người mình thương, cho những người mình chưa thương, nhưng bây giờ mình tập thương. Đó là thực tập từ bi chớ không phải là nói từ bi.  


Cái học của người tu  

Mỗi ngày được đi thiền hành chung với tăng thân, được ngồi yên với tăng thân một hoặc là hai lần là quyền lợi của người tu, mình phải đòi cho được quyền lợi đó. Đi tu là được có quyền lợi đó, ví dụ như được ăn cơm im lặng. Ở ngoài đời họ đâu có thể có được một bữa cơm trưa im lặng thanh thản như vậy, họ rất là hối hả, họ không có thì giờ để ăn và trong khi ăn họ đến nói chuyện đâu đâu hoặc mở ti vi ra xem. Khi mình tu, mình có quyền lợi là được ngồi ăn cơm yên lặng và thong thả, vậy mới là văn minh. Xã hội bây giờ không có khả năng được hưởng cái đó, rất là gấp gáp, rất là hối hả.  

Mình tu thì mình có thảnh thơi, có thì giờ để ăn cơm thảnh thơi, có thì giờ để ngồi yên mỗi ngày nhiều lần, có thì giờ để đi từng bước thảnh thơi. Đó là quyền lợi của người tu. Tu mà không có những cái đó thì tu làm cái gì? Mình phải biết tận hưởng, phải biết sử dụng những thì giờ như vậy để nuôi dưỡng thân tâm. Cho nên xin đại chúng phải khôn ngoan, phải khéo léo sử dụng được giờ thiền ngồi, thiền đi, thiền ăn cơm và sau đó mình mới sử dụng những thì giờ để làm những chuyện khác như rửa bát, nấu cơm, làm việc ngoài vườn rau. Làm việc nhưng mình vừa làm vừa tu, vừa làm vừa có hạnh phúc. Làm thế nào để có được hạnh phúc ngay bây giờ chứ đừng có đợi năm mười năm sau rồi mới có hạnh phúc. Hạnh phúc ngay bây giờ thôi hoặc là không bao giờ hết. Mình tự thách thức mình.
 


Tăng thân

Hôm qua chúng ta đã bắt đầu học về bốn đối tượng Tùy Niệm: tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng và tùy niệm Giới. Mình đã nói về Phật, về Pháp. Nếu có ai hỏi mình: các thầy đã có kiến thức đầy đủ về tam quy và ngũ giới chưa? Các sư cô đã có đầy đủ kiến thức về tam quy và ngũ giới chưa? Thì mình phải trả lời như thế nào? Nhiều người trong chúng ta chắc mẫm đã biết tam quy là gì, ngũ giới là gì. Những điều chúng ta đã học cách đây mười năm hoặc là lâu hơn nữa. Nhưng sự thực là khi nghe bài giảng ngày hôm qua, quí vị biết là quí vị chưa biết nhiều về tam quy và về năm giới. Mình tưởng là biết nhưng kỳ thực mình chưa biết được bao nhiêu. Ở cấp tiểu học người ta dạy mình tam quy là ba sự quay về nương tựa: quay về nương tựa Bụt, quay về nương tựa Pháp, quay về nương tựa Tăng. Năm giới tức là: giới thứ nhất không sát sanh, thứ hai không trộm đạo.v.v… làm mình có cảm tưởng là mình có học rồi, đã biết rồi, nhưng kỳ thực không đúng, cái thấy, cái hiểu của mình còn cạn cợt lắm và khi mình nghĩ rằng mình đã biết rồi, lúc đó mình không có cơ hội nữa.  

Cái thấy về Phật của tôi, về Pháp của tôi đã thay đổi rất là nhiều và mỗi năm, mỗi tháng đều có thay đổi hết, càng ngày càng hiểu sâu hơn. Khi học được bài học ngày hôm qua rồi, mình có một vài ý niệm thế nào là Phật, thế nào là Pháp rồi thì mình biết cái thấy của mình về Pháp rất đơn sơ, chỉ là danh từ thôi, chứ chưa phải là sự thật, cho nên có người tới hỏi thầy: sư chú đã có kiến thức đầy đủ về Phật, về Tam Bảo và về Năm giới chưa? Thì mình nói: chưa, tôi có học rồi một ít, nhưng tôi có thể hiểu sâu hơn rất nhiều. Có thể nói thầy Nhất Hạnh năm nay có được một cái thấy về Tam Bảo, về Năm giới khá sâu, nhưng thầy cũng không nói là thầy đã hiểu hết, tại vì thầy tin rằng sang năm cái thấy của thầy về Tam bảo, về Năm giới còn sâu hơn nữa. 

Bài Bốn Phép Tùy Niệm tôi đã giảng cho Làng Mai cách đây mười mấy năm và ngày hôm qua tôi đem ra giảng lại. Có vị đã từng nghe tôi giảng nói: bài giảng ngày hôm nay khác với bài giảng của mười mấy năm trước, cái thấy của thầy sâu hơn, đầy đủ hơn. Cố nhiên nếu sang năm có duyên tôi giảng về Bốn Phép Tùy Niệm thì bài giảng sẽ sâu hơn nữa. Vì vậy câu trả lời hay nhất là: dạ, tôi có biết chút ít về Tam quy và Ngũ giới nhưng mà cái hiểu của tôi về Tam quy và Ngũ giới càng ngày càng sâu và chắc chắn là sang năm tôi sẽ có cái thấy sẽ sâu hơn năm nay. Nói như vậy thì mới đúng, mới chắc ăn, chớ còn nói: Ồ, cái đó tôi đã học từ lâu lắm rồi, từ mười năm, hai mươi năm về trước, đâu có gì khó đâu. Vậy là không được. 

Cũng như Tâm Kinh Bát Nhã, mình có thể nghe giảng rồi và có cảm tưởng là mình đã biết cái gì trong kinh Tâm Kinh Bát Nhã. Có người hỏi: thầy có biết Tâm Kinh Bát Nhã chưa, có học chưa? - Tôi có học rồi, tôi biết. Biết có nghĩa là mình đã đạt tới cái hiểu về Tâm Kinh Bát Nhã. Thường thường mình tụng như con vẹt, không biết quán chiếu và cái hiểu của mình về Tâm Kinh Bát Nhã hình như năm nay không khác gì năm ngoái bao nhiêu? Mình dậm chân tại chỗ, cái học của mình không có đưa mình đi tới, một phần là tại cái học đó không đi theo với cái hành.  

Có một số các vị khách tăng tới đây với một ý niệm nào đó và sau ba bốn tháng thì bỏ đi về, tại vì tưởng ở tu viện Bát Nhã sẽ học nhiều lắm? Nhưng thực ra không phải như vậy. Cái học ở tu viện Bát Nhã hay ở Làng Mai khác hơn với cái học ở trường sơ cấp, trung cấp Phật học hay là cao học Phật giáo. Cái học ở đây không phải là cái học để thi cử, để có bằng cấp. Cái học ở đây là để có vốn liếng cho mình tu để sau này giúp đời. Cho nên nó hoàn toàn căn cứ trên chí nguyện của từng người. Có người cùng xuất gia năm đó nhưng học rất là giỏi, còn người kia không được giỏi, tại vì ý chí tu học không có lớn. 

Làng Mai có nhiều khóa học, ví dụ như là khóa học Trái Tim Của Bụt, khóa đó có hàng chục bài giảng và kéo dài trong nhiều tháng. Có khóa đề cập tới những giáo lý căn bản như là Tứ Diệu Đế, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Bát Chánh Đạo, Thất Bồ Đề Phần.v.v… 

Đã có những cuốn sách bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Việt, ghi ra một số bài giảng trong khóa giảng đó. Mình có khóa giảng đó bằng tiếng Việt, sau đó có khóa giảng bằng tiếng Anh. Nhưng khóa tiếng Việt dài gấp ba lần khóa giảng bằng tiếng Anh. Cho nên cuốn sách Trái Tim Của Bụt bằng tiếng Việt giàu có hơn cuốn sách Trái Tim Của Bụt bằng tiếng Anh. Nếu mình muốn nắm cho vững Phật Pháp căn bản thì mình phải học khóa đó. Các vị giáo thọ có thể tổ chức để mình được nghe các bộ băng đó từ đầu cho đến cuối. Nếu cố tâm học thì sau khi học xong khóa đó, mình có thể giỏi hơn người kia rất nhiều. Người kia là người cùng nghe băng đó với mình ngay từ đầu, nhưng không có thì giờ để tìm hiểu, để đọc sách, còn mình có chí, muốn tìm hiểu, muốn đào sâu.  

Ví dụ hôm qua tôi kể chuyện về thầy A Nậu La Độ,  thầy về hỏi Bụt: Con phải trả lời sao cho hay để sau này có người hỏi, con trả lời cho đúng ý Ngài. Tôi có nói với các thầy, các sư cô, các Phật tử muốn biết là Bụt trả lời sao thì quí vị về giở cuốn kinh ấy ra mà đọc. Tôi kích thích sự tò mò để quí vị tự đi tìm lấy, chớ còn tôi không phải đứng đó để nhồi vào sọ quí vị những kiến thức đó. Khi tò mò muốn tìm hiểu thì mình thu thập rất mau và tiêu hóa được. Còn nếu ông thầy ráng nhét vô đầu mình một ít kiến thức thì cái đó không làm mình tiến được? Dầu có học thuộc lòng, làm bài tạm được, đậu được cái bằng thì rốt cuộc mình cũng quên, như vậy cho mình sẽ không ích lợi gì. Thành ra cái học ở Làng Mai, ở Bát Nhã rất khác. 

Có một khóa giảng gọi là Công Phu Nở Đóa Ngàn Cánh, kéo dài nhiều tháng. Trong khóa giảng đó, tất cả các kinh, bài tụng, bài sám trong Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000 đều được giảng hết, từ đầu cho tới cuối, từ kinh Kim Cương cho tới Bát Nhã Tâm Kinh, cho tới kinh Người Biết Sống Một Mình, kinh Hải Đảo Tự Thân. Kinh nào cũng  giảng hết và giảng rất là dễ hiểu, giảng trong tinh thần khoa học.  

Nếu quí vị muốn học thì quí vị xin các vị giáo thọ tổ chức cho nghe trọn bộ băng đó. Có thể là phải sáu tháng mới nghe hết được. Các vị giáo thọ sẽ hướng dẫn cho mình khi nghe và nghe xong mỗi bài có thể ngồi lại pháp đàm để đào sâu. Chính quí vị đặt câu hỏi, quí vị tìm tòi thêm nữa thì chính cái học như vậy mới làm cho quí vị giỏi. Chớ còn người ta nhét vô đầu mình một số giáo điều rồi mình học thuộc lòng thì cái đó không ích lợi. 

Có một khóa giảng về Đại Tạng Nam Truyền, tất cả những kinh căn bản, kinh quan trọng nhất trong Đại tạng Pali ở trong A Hàm đều được  giảng dạy. Khóa đó phải học nhiều tháng và các vị giáo thọ sẽ tổ chức cho mình ghi tên cùng nghe bộ băng đó từ đầu đến cuối.  

Có một khóa giảng về Đại Tạng Bắc Truyền, trong đó mình được học những kinh như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma Cật. Và các vị giáo thọ cũng có thể tổ chức cho mình được học hỏi, được nghiên cứu, được đào sâu. Nếu học hỏi theo tinh thần đó thì nội trong bốn năm là mình đã giỏi rồi, có đủ một ít tư lương để tu tập và để giúp đời. Tại vì những cái mình học trong bộ băng, những khóa giảng đó, đều là những cái thiết thực và rất khoa học.  

Có những khóa giảng về Nhiếp Đại Thừa Luận hay là Trung Quán Luận hay là Dị Bộ Tông Môn Luận mà chúng ta có thể học nếu chúng ta biết tổ chức và cùng học với nhau. Nếu mình khéo léo, mình có chút thời giờ riêng mình có thể học thêm được. Và nhất là những bài giảng có tính cách giúp cho mình thực tập để có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, mình cần phải nghe thật nhiều. 

Có thể có vị đã truyền đăng giáo thọ rồi nhưng còn thiếu hay chưa học một hay hai khóa an cư. Vị giáo thọ đó ý thức được rằng tuy mình được danh từ giáo thọ nhưng mình có thể phải học thêm và vị giáo thọ đó tìm cách xếp đặt để mình có cơ hội được học những khóa giảng mà mình chưa được học chớ không có nói: À, mình là giáo thọ rồi, mình học làm chi nữa?  

Sư ông học suốt đời, cho tới giờ này cũng còn học nữa. Không những là học trong kinh điển mà còn học thêm về khoa học, về xã hội học, về tâm lý học. Tại vì càng học thì kiến thức của mình, kinh nghiệm của mình càng sâu, sự tu học, sự giảng dạy của mình càng ngày càng khéo. Cái học của chúng ta ở Làng Mai và ở Bát Nhã rất khác với cái học ở các trường Phật học, nó không có tính từ chương, không cần phải thi cử, nhưng nó cần cái chí nguyện của mình.  


Phật-Sanh bất nhị.
Hôm qua học về Phật, về Bụt, chúng ta có nghe Tổ Lâm Tế nói: Phật và chúng sanh là hai thực tại không thể tách rời ra nhau được. Hễ chỗ nào có Phật là có chúng sanh, hễ chỗ nào có chúng sanh là có Phật. Muốn là Phật trước hết phải là chúng sanh.

Cho nên Tổ hay nói câu: Phật-Sanh bất nhị. Phật-Sanh bất nhị dịch theo kiểu mới: Phật và con người không phải là hai thực tại riêng biệt. Muốn thành Phật thì mình phải là một con người và khi mình thành Phật rồi, mình vẫn còn con người. Vì vậy chỗ mà đi tìm Phật hay nhất là ở chúng sanh, như là con người.

Có nhà học giả của Pháp rất thông thạo về Tam tạng kinh điển Trung quốc, ông nói rằng: giáo lý của thiền sư Lâm Tế bộc lộ tinh thần nhân bản. Thiền sư Lâm Tế chủ trương chủ nghĩa nhân bản rất là hùng hậu (chủ nghĩa nhân bản tiếng Anh dịch là Humanism). Phật không bao giờ lìa khỏi con người, luôn luôn trở về con người. Phật từ con người mà thành và khi Ngài thành Ngài vẫn là một con người. Trong ánh sáng đó mình có thể tìm hiểu được nhiều hơn về Phật.  

Chúng ta đã học những cái có tính cách rất là lý thuyết, có những cái chúng ta không áp dụng được như phiền não tức Bồ đề. Phiền não là phiền não, sao lại là Bồ đề được? Chúng ta đều được học như vậy, chư Tổ dạy như vậy. Chúng ta chịu thôi, Tổ nói thì mình phải nghe. Hay Phật pháp là Thế gian pháp, nhất thiết thế gian pháp giai thị Phật pháp. Tất cả các Pháp thế gian đều trở thành Phật pháp được thì mình hiểu như thế nào?  

Cái ví dụ mà chúng ta thường hay đưa ra là sen với bùn. Chúng ta biết rằng nếu không có bùn thì không trồng sen được, mình đâu có trồng sen ở trên đá cẩm thạch được? Có bùn, có sen, có khổ đau, có phiền não. Khổ đau là một thứ bùn và chính nhờ khổ đau, nhờ phiền não, hiểu được khổ đau, nhờ hiểu được phiền não mà mình có được trí tuệ và có từ bi. Nhờ có bùn mới có sen. Một người chưa từng khổ đau, chưa từng biết khổ đau là gì thì người đó làm sao có trí tuệ, có từ bi được?  

Vì hiểu được những khổ đau của anh cho nên tôi chấp nhận, tôi thương. Còn nếu tôi không hiểu được khổ đau của anh thì tôi đâu thể thương anh được? Rõ ràng là con mà không thấy được nỗi khổ niềm đau của cha thì con không thương cha được. Cha không thấy được nỗi khổ niềm đau của con thì cha cũng không thương con được. Những người nào đã từng khổ là những người có cơ hội để hiểu và để thương. Mình phải lợi dụng cái khổ để học hiểu và học thương. Còn người không tu thì chết đuối trong cái biển đau khổ đó.  

Trong vườn rau của mình có hoa, có rác. Nếu biết cách, tất cả các rác đó mình gom lại, làm thành phân xanh để nuôi rau, nuôi hoa. Khi nhìn vào rác, mình thấy được những chất liệu nuôi dưỡng cho hoa. Nhìn vào hoa mình thấy hoa này tuy đẹp như vậy, nhưng mười lăm, mười sáu ngày sau những bông hoa ấy cũng sẽ trở thành những cọng rác. Rác và hoa tương tức, rác nuôi hoa, hoa nuôi rác. Rác đang trên con đường trở thành một bông hoa, tại vì người ta đang nuôi hoa bằng rác. Và bông hoa cũng đang trên con đưòng trở thành rác. Không có khổ đau thì không có hiểu và không có thương. Không có phiền não thì không có Bồ đề. Cho nên đi tìm Bồ đề ngoài phiền não thì không có được. Đi tìm sen ngoài bùn thì không có được. Đi tìm Phật ngoài chúng sanh cũng không có được. Phiền não tức Bồ đề. 

Phật pháp cũng vậy, Phật pháp được nảy sinh từ các pháp thế gian. Các pháp thế gian là các pháp gì? Các pháp thế gian có sanh, lão, bệnh, tử, có khổ đau, bức xúc, giận hờn, tuyệt vọng. Nhìn sâu vào những khổ đau đó, mình tìm thấy có những nguyên do đã gây ra khổ đau, tức là nhìn vào khổ đế mình tìm ra được tập đế, mà thấy tập đế rồi thì tự nhiên đạo đế được trình bày ra.  

Chúng ta biết rằng Tứ Diệu Đế là hai cặp nhân quả. Sự thật thứ nhất là khổ, nhìn sâu vào bản chất của khổ đau thì mình tìm thấy gốc rễ của những nguyên do đưa đến cái khổ, cái đó gọi là tập. Tập tức là sự hình thành, sự nuôi dưỡng thành ra cái khổ. Tập này là cái nhân, khổ này là cái quả. Nhìn vào cái khổ, tức là nhìn vào cái phiền não, chúng ta thấy được tất cả gốc rễ xa gần nuôi cái khổ, đó gọi là tập, con đường đem tới sự đau khổ và nhờ thấu hiểu được khổ và tập, cho nên chúng ta mới thấy được con đường thoát khổ, tức là đạo và diệt. Diệt ở đây tức là sự chấm dứt của khổ, diệt ở đây tức là khổ diệt, mà sự chấm dứt của khổ có nghĩa là sự bắt đầu của an vui.  

Muốn làm thế nào để có an vui, muốn làm thế nào chấm dứt sự khổ? Là ta phải có con đường và con đường này là nguyên nhân đưa tới cái diệt, tức hạnh phúc. Khổ-Tập là một cặp nhân quả thứ nhất, Diệt-Đạo là một cặp nhân quả thứ hai và con đường này, tức là Phật pháp. Phật pháp là con đường đi tới chấm dứt khổ đau và mở ra an lạc. Nếu không quán chiếu khổ đau thì làm sau thấy được diệt và đạo? Cho nên phật pháp phát sinh từ thế gian pháp, thế gian pháp là khổ và tập, còn phật pháp là diệt và đạo. Bỏ cái kia làm sao có cái này, chính nhìn vào cái kia sâu sắc mới tìm ra cái này. Bây giờ mình bắt đầu hiểu được tại sao Phật pháp được làm bằng thế gian pháp. Tại sao sen được làm bằng bùn và hoa được làm bằng rác. Hai cái đó nó tương tức với nhau.  
 

Phật là một con người.
Đức Thích Ca thành đạo lúc 35 tuổi, lúc Ngài còn trẻ. Chúng ta biết rằng khi Ngài về già, Ngài cũng bị bệnh tê thấp, Ngài cũng bị rheumatisum và thầy Anan cũng phải xoa bóp cho Ngài. Tuy là Phật nhưng Ngài cũng có thân người, Ngài vẫn là người. Ngài cũng có khi bị cảm và thầy Anan thế nào cũng cho Ngài uống thuốc. Rồi khi Ngài bị lạnh, thầy Anan cũng lấy thêm y áo quấn cho Ngài.  

Phật là một con người, có điều con người này rất đặc biệt. Người này có hiểu rất cao, có thương rất sâu, có tự do rất lớn, có thảnh thơi rất nhiều, cho nên con người ấy không có khổ. Có người tới la mắng, Bụt cũng cười hì hì. Có người muốn tới ám sát, Bụt cũng tha thứ, không giận hờn. Rất là hay. Tôi cũng thường nói với các thầy, các sư cô: đức Thế Tôn khi thành đạo mới 35 tuổi, còn trẻ lắm và như vậy thế nào cũng còn năng lượng tình dục trong Ngài. Thành Phật không có nghĩa là không còn năng lựợng tình dục và Ngài cũng là người như mình thì chắc chắn năng lượng tình dục vẫn còn. Nhưng trong trường hợp của đức Thích Ca thì năng lượng tình dục không làm cho Ngài bị khổ, không làm cho Ngài bị bức xúc, để Ngài phải đi kiếm chỗ để thỏa mãn năng lượng tình dục đó.  

Mình là người xuất gia, mình còn trẻ, mình biết rằng năng lượng tình dục là một vấn đề, mình phải học cách để quản lý, để chăm sóc, để đối trị với năng lượng tình dục đó. Đôi khi nó trở thành bức xúc, có những người bức xúc ít, có những người bị cái năng lượng đó làm cho bức xúc nhiều. Mình là người cư sĩ cũng vậy, dầu mình đã có vợ, có chồng. Có những ông chồng, có những bà vợ vẫn còn có những bức xúc sinh lý, vì vậy mới có chuyện tà dâm. Các thầy, các sư cô nên biết, không phải là có vợ hay là có chồng là không có vấn đề về năng lượng tình dục. Đừng tưởng khi mình có vợ, có chồng là hết vấn đề? Đôi khi người cư sĩ còn có nhiều vấn đề hơn nữa, dầu có vợ có chồng, họ vẫn làm cho gia đình tan nát. Cho nên không những người xuất gia phải học cách để đối trị lại với năng lượng tình dục mà người tại gia cũng phải học.  

Ngày xưa có một sư chú ở Làng Mai, năng lượng tình dục hơi mạnh và đã có lần lầm lỗi. Tôi mới sắp đặt cho sư chú ra đời, về nhà trở lại để sống cuộc đời thế gian cư sĩ. Khi sư chú ra về mình cũng có làm tiệc, thiền trà để đãi, mua vé máy bay cho sư chú về đàng hoàng với tất cả thương yêu. Mình thấy tại người đó có năng lượng tình dục nhiều thôi. Mình thương chứ không có trách móc. Tôi có khuyên: con ơi, dầu con có về lại đời sống cư sĩ, con cũng phải thực tập năm giới thiệt đàng hoàng tại vì cái năng lượng tình dục đó sẽ tiếp tục làm cho con khổ, dầu con có vợ, có con cũng vậy. Con phải ráng lắm mới được, chớ không phải khi về với đời sống tại gia là con hết vấn đề đâu? Tôi dặn dò với tất cả sự yêu thương. 

Trong con người của đức Thích Ca khi 35 tuổi, chắc chắn là còn năng lượng tình dục, nhưng đối với Ngài, đó không phải là vấn đề, tại vì Ngài có những năng lượng khác, nó tạo ra cái thế cân bằng khiến cho năng lượng tình dục đó không gây cho Ngài bức xúc. Ngài có chứng bệnh độ sinh rất lớn, Ngài có cái hiểu, có tình thương rất lớn. Cái hiểu đó cho mình thấy rằng nếu mình xâm phạm tới tình dục người đó thì mình làm hại đời người đó và làm hại luôn đời tu của mình. Cái thấy đó rất rõ và lòng thương cũng rất rõ nơi đức thế Tôn. Nếu có những hành động tà dâm thì sự nghiệp của mình sẽ tan nát hết và biết bao nhiêu người sẽ khổ đau, biết bao nhiêu người sẽ mất lòng tin. Năng lượng của hiểu và thương, năng lượng của lòng từ bi và đại nghiệp của Ngài lớn quá thành thử nó chăm sóc, bảo hộ và nó tạo ra cái thế thăng bằng trong Ngài, cho nên Ngài không bị năng lượng tình dục làm cho bức xúc; chớ không phải Ngài không có năng lượng tình dục. Tại vì khi thành Phật, thân vẫn còn là con người, khi không ăn thì đói và khi trời lạnh cần thêm áo. Giống hệt như mọi người. 

Chúng ta biết rằng có những người thương đức Thế Tôn quá nhiều cho nên tả đức Thế Tôn theo kiểu của họ, cái gì của đức Thế Tôn cũng tuyệt hảo hết, mồ hôi của Ngài cũng rất thơm và khi Ngài đi cầu ra, phân của Ngài ngửi rất thơm, nước tiểu Ngài cũng vậy, trong suốt như pha lê không có gì hết. Tức là mình thần tượng, thần thánh quá một con người, nhưng đâu cần phải như vậy. Cái mình mến phục đức Thế Tôn là: đại từ, đại bi, đại trí, đại lực. Chớ không phải là Ngài không có mùi hôi hay đi cầu ra rất thơm. Thơm quá!  làm cho đức Thế Tôn trở thành ra một vị thần linh và làm cho đức Thế tôn xa cách con người, tước đoạt quyền làm người của đức Thế Tôn. Vì thương Ngài quá rồi mới thêu dệt những chuyện như vậy.  

Có người đi xa hơn nói rằng, cái thân người đó chẳng qua là cái hóa thân thôi. Đức thế Tôn là một thực tại bất sinh bất diệt (gọi là pháp thân), còn cái thân một thước tám mươi phân của Ngài là hóa thân tạm thời. Nói như vậy cũng là để bảo vệ cho Ngài. Nhưng mà đức Thế Tôn có pháp thân thì mình cũng có pháp thân vậy? Tất cả chúng ta đều có pháp thân, cũng như tất cả các đợt sóng đều là nước. Mình là sóng, mình đồng thời cũng là nước. Mình có báo thân, mình cũng có pháp thân. Báo thân của Bụt cũng như báo thân của mình. Có năng lượng tình dục thì mình phải nói có năng lượng tình dục. Nhưng mà đối với đức Thế Tôn, sự tu tập của Ngài rất vững, ở trong Ngài có sự quân bình và cái năng lượng hiểu và thương lớn quá, vì vậy năng lượng tình dục không phải là vấn đề. Hoặc đói bụng thì cũng không có cau có, đức Thế Tôn có thể nhịn đói mười ngày mà không hề cau có. Sự thực bên Làng Mai có nhiều thầy, nhiều sư cô có thể nhịn đói mười ngày, mà càng nhịn thì càng tươi, chỉ uống nước thôi, nhưng trong mười ngày đó khỏe lắm. Chính tôi cũng có thể nhịn đói mười, mười lăm ngày và trong mười, mười lăm ngày đó vẫn viết văn, vẫn cho pháp thoại, vẫn tập khí công được như thường. Tại vì trong người mình có cái khu dự trữ, dư sức để cho mười, mười lăm ngày không ăn. Mười ngày đó có thể thanh lọc cơ thể, nước da của mình có thể sáng hơn, đẹp hơn, máu huyết của mình sẽ tốt hơn. Chớ không phải mới nhịn đói một bữa mà đã càu nhàu, đã làm như đất trời sụp đổ, còn nói: tùy theo người! Tùy theo trí tuệ của mình, cái thấy và từ bi của mình. 


A La Hán
(Ứng Cúng).
Đức Thế Tôn là một vị A La Hán, ở trong Phật giáo Nam tông, một danh hiệu của đức Thế Tôn là La Hán. La Hán có nghĩa là Ứng Cúng, ứng cúng tức là xứng đáng để được cúng dường. Một người đã chấm dứt được sự sinh tử, một người xứng đáng được cúng dường. Đức Thế Tôn là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn (Tathagata, Arhat, Samyaksambuddha, Vidya-carana-sampanna, Sugata, Lokavid, Anuttarapurusa, Purusa-damya-sarathi, Sasta Deva-manusyanam, Buddha, Bhagava (Lokajyestha)) 

Arahan tức là vị A La Hán và vị A La Hán là mẫu người lý tưởng của Phật giáo tiểu thừa, đạt A La Hán tức là đạt tới con người lý tuởng. Mình tu là để trở thành vị A La Hán. Nhưng trong lịch sử của giáo đoàn có những tư tưởng đi xa hơn. Có một vị thầy tên là Đại Thiên (Mahadeva), thầy nói vị A La Hán còn có những khuyết điểm. Một vị A La Hán không thể nào so sánh với một vị Bồ Tát, một vị Phật được. Phật là một vị Bồ Tát, Đại Bồ Tát. Và thầy nêu ra năm cái yếu kém của vị A La Hán. Năm cái yếu kém đó là: Dư sở dụ, vô tri, do dự, tha linh nhập, đạo nhân thanh cố khởi.  

Thầy Đại Thiên nói: vị A La Hán chưa phải là con người tuyệt hảo và cái khuyết điểm đầu tiên của vị A La Hán là bị người ta dụ dỗ.

Dư sở dụ: một vị A La Hán còn bị người khác dụ dỗ, người khác đây là các Thiên Ma. Họ hiện ra trong giấc mơ của một vị A la Hán thành ra một cô thiếu nữ rất là xinh đẹp để dụ vị A La Hán và vị A La Hán đã xuất tinh trong giấc ngủ, tức là thấy mình có giao hợp với cô Thiên Nữ đó, gọi là dư sở dụ. Vị A La Hán này trong đời sống hàng ngày thì giữ giới rất là nghiêm mật, không bao giờ gần phụ nữ, không bao giờ đụng chạm tới người phụ nữ, giữ giới tuyệt hảo, không có tà dâm, không có dâm dục, nhưng trong giấc mơ có thể bị các Thiên Ma dụ dỗ và xuất tinh ở trong giấc mơ. Các vị thị giả đi giặt áo quần cho các vị A La Hán, các thị giả thấy như vậy, biết rằng có vị A La Hán đã xuất tinh trong giấc mơ. Vì vậy đó là khuyết điểm, là cái chưa toàn hảo của vị A La Hán. Thật ra Thiên Ma đó có thể là từ A lại da thức của vị đó đi lên chứ không phải ở ngoài đi vô đâu. Khi học về Duy biểu học, Duy thức học, mình biết rằng Thiên Ma tới dụ vị A La Hán đó cũng từ trong tâm thức đi ra chứ không phải  ở ngoài đi vô. Điều đó chứng tỏ rằng vị A La Hán cũng có năng cái lượng tình dục, cho nên trong ban đêm mới bị xuất tinh.  

Sự thực theo khoa học, hễ con người có ăn uống là có năng lượng, có năng lượng là có tinh dịch và khi tinh dịch đầy thì nó trào ra chứ có gì đâu? Nhưng vì không hiểu nên mình cho đó là tội lỗi, mình ăn năn, xấu hổ, rồi có thể mình bị bệnh là do cái mặc cảm tội lỗi đó. Quí vị cũng biết là sau bữa tiệc mà quá giàu có về chất protéin, có quá nhiều chất bổ thì đêm đó mình thấy năng lượng tình dục của mình nó hơi mạnh, cái đó cũng thường thôi. Cho nên không nên ăn quá ngon và ăn nhiều trong bữa chiều.  

Trong truyền thống của các thầy ngày xưa, chỉ ăn vào giờ Ngọ và sau đó không ăn nữa. Rất là hay. Có nhiều thầy, nhiều sư cô ở Làng Mai, bữa chiều không ăn hoặc ăn rất nhẹ, cái đó cũng là để đừng có vấn đề về năng lượng tình dục. Nhưng nếu trong ban đêm mình xuất tinh, tự nó xuất tinh hay là mình có ôm hình ảnh một người nào đó (ôm hình ảnh một người con trai hay hình ảnh một người con gái) mà xuất tinh thì đó cũng chỉ là sự  vận hành của sinh lý, của tàng thức. Không có gì để cho mình phải xấu hổ, ăn năn hối hận, mặc cảm tội lỗi để sau này đưa tới những bệnh tật. Khi tinh khí, tinh dịch đầy thì nó trào ra. Đừng chế tác nhiều quá, đừng ăn quá nhiều chất bổ, phải biết vừa phải. Đó là cái thấy của khoa học. Nói là bị Thiên Ma dụ, người khác dụ, nhưng kỳ thực là bị thức ăn ngon nó dụ, cho nên trong ban đêm các vị bị xuất tinh, chớ có gì đâu. 

Vô tri:  có những cái mà vị A La Hán còn chưa biết, chớ không phải vị A La Hán là vị Toàn Giác mà biết hết. Ví dụ như là trên mặt trăng hay là trên mặt trời, nhiệt độ lên tới mấy chục ngàn độ? Hoặc là ngoài Thái dương hệ này còn có bao nhiêu Thái dương hệ khác? Những cái đó thì làm sao vị A La Hán biết hết được (tại sao vị A La Hán phải biết tất cả những cái đó?). Vì vậy con người lý tưởng các vị A La Hán chưa chắc đã là con người lý tưởng đâu? Đó là cái ý của thầy Đại Thiên và chính những tư tưởng đó đưa lên sự phát sanh của Phật giáo Đại thừa, tức là hình ảnh của vị A La Hán chưa phải hình ảnh tuyệt hảo của một con người. Trong Phật giáo Đại thừa thì con người lý tưởng là một vị Đại Bồ Tát.

Chúng ta biết rằng con người lý tưởng trong Thiền tông Lâm Tế là Người Vô Sự, là người không có lo gì hết (no thing to do, no where to go), thảnh thơi như vậy. Làm một người Vô Sự hạnh phúc lắm, nhiều khi còn hấp dẫn hơn làm một vị A La Hán hay một vị Bồ Tát. Người Vô Sự là một vị Bồ Tát mới. Cuốn sách Người Vô Sự của thầy giảng bài Lâm Tế Lục hiện bây giờ ở Việt Nam đang bán chạy lắm, vì người nào cũng quá nhiều sự, đa sự quá thành ra bây giờ muốn làm "người vô sự" cho khỏe.  

Do dự: có những cái mà vị A La Hán không quyết đoán được, vẫn còn do dự (hesitation), không quyết đoán được. 

Tha linh nhập: tha nhân tức là phải có người khác giúp đỡ mới có thể đi vào trong sự chứng ngộ được chứ không phải tự mình. Tha tức là người khác.  

Đạo nhân thanh cố khởi: tức là những vị A La Hán phải lập đi lập lại, đời là khổ, đời là khổ… mới có thể chứng đạt được đệ nhất đế. Tức là phải lập đi lập lại câu đó, nếu không lập đi lập lại hoài thì vẫn có thể không đi vào trong đạo được. 


Thế Gian Giải (Lokavid).
Tôi nhắc lại năm điều này không phải để cho mình học lịch sử Phật giáo, mà cho quí vị biết có cái ví dụ để thấy rằng có rất nhiều quan niệm khác nhau về Bụt. Khi tôi viết về Đường Xưa Mây Trắng, tôi trình bày Bụt như một con người, đem các phép thần thông xếp lại, để người ta có thể tới gần Ngài được và để người ta nghĩ rằng nếu Bụt là con người như mình, Bụt làm như vậy được thì mình cũng có thể làm được. Đó là mục đích của Đường Xưa Mây Trắng, trình bày đức Thế Tôn như một con người. Điều này cũng gây khó khăn cho ban làm phim Buddha tại vì có những tông phái, có những giáo hội, họ không đồng ý Bụt là một con người mà Bụt là một thực thể siêu việt ở trên mây, trên trời. Trình bày Bụt như một con người thì không có đủ huy hoàng, không có đủ rạng rỡ. Phải trình bày Bụt với tất cả hào quang, với những phép lạ thần thông thì mới xứng đáng. Vì vậy cho nên họ nói: nếu không thay đổi, vẫn làm đúng theo Đường Xưa Mây Trắng, chúng tôi sẽ không ủng hộ, quí vị sẽ không có tiền để làm. Cho nên phim Buddha bị kẹt, nó chưa thành.

Trong Đường Xưa Mây Trắng mình thấy rõ, Bụt trước hết là một vị thầy. Ngài đã sống như một con người, Ngài đã thực tập, thành công, đã hoằng hóa độ đời như một con người và điều đó đã gây rất nhiều niềm tin. Như thầy Pháp Ấn của chúng mình nhờ đọc Đường Xưa Mây Trắng mà phát tâm đi xuất gia. Cuốn sách đó theo tôi nghĩ có công đức lắm. Bây giờ đã được nhiều nhà xuất bản ở Việt Nam in rồi và chắc chắn sẽ có nhiều người đi xuất gia nữa nhờ đọc Đường Xưa Mây Trắng.

Trong những danh hiệu của đức Thế Tôn, có danh hiệu là Thế Gian Giải (Lokavid). Thế Gian Giải là có khả năng hiểu được con người, có thể hiểu được những tâm ý, những khúc mắc, những bức xúc, những ước mơ, những cái yếu kém của con người. Chính nhờ Ngài là bậc hiểu thấu thế gian, Ngài đã thấy những cái yếu kém của con người cho nên Ngài thương, Ngài đã thấy những cái kẹt của mình cho nên Ngài thương, Ngài đã đưa ra những giáo lý, những phương pháp thực tập để giúp cho mình gỡ rối. Sở dĩ Ngài là một vị đạo sư giỏi, thành công, tài tình tại vì Ngài hiểu được con người. Mình muốn được như đức Thế Tôn thì mình phải hiểu được con người, với tất cả những yếu kém, khúc mắc, mỗi thể hiện của con người.  

Muốn hiểu được con người mình phải gần gũi, cho nên khi làm người tu mình đừng có đi lên núi ở, đừng nhập thất quá lâu, mình phải thân cận với con người. Các thầy, các sư cô ngày xưa ở Việt Nam đã áp dụng màu nâu để làm màu áo tu, tại vì dân quê Việt Nam ngày xưa, nhất là nông dân họ mặc màu nâu. Lấy củ đà giã ra nhuộm vải là vải có màu nâu, rồi phải lấy bùn trét lên phơi khô, màu nâu đó ăn sâu vào, giặt không có ra nữa. Khi mình mặc áo màu nâu, hơi có vết dơ cũng không có thấy, khỏi tốn xà bông nhiều. Các thầy của mình ngày xưa đã áp dụng màu nâu để làm áo tu của mình, nó có dáng vẻ đơn sơ, bình dị, gần gũi với người nông dân và cũng có vẻ hùng tráng, trầm lặng, khiêm nhượng.  

Năm tôi xuất ngoại để kêu gọi hòa bình thì tất cả các thầy, các sư cô vẫn còn mặc áo màu nâu và bốn mươi năm sau tôi về thấy mặc vàng khè, rất là xa cách với con người. Mình muốn hiểu con người, mình phải gần con người. Ngày xưa các thầy trụ trì chùa ở làng, cũng ra làm ruộng, chống cuốc nói chuyện với các nông phu và độ được họ tại vì gần gũi họ. Bây giờ mình là một nhà tu mà mình sống quá xa cách thì làm sao mình có thể gần gũi với con người, để hiểu được con người. Trong danh hiệu của đức Thế Tôn có danh hiệu rất là bình dị mà rất quan trọng là Lokavidu là bậc hiểu sâu tuệ giác. Trong kinh Kim Cương có câu như vầy, trên thế gian này có biết bao nhiêu loài, bò, bay, bơi, tất cả vô số, vô loại chúng sanh mà Như Lai là người nhìn thấu được tâm của họ, biết rõ được họ, đó là Lokavidu.  

Sáng hôm nay tuy mình không có tụng kinh, gõ mõ, không có niệm Nam mô A Di Đà Phật, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà mình bàn, mình học hỏi về cuộc đời đức Thế Tôn. Nhìn sâu vào con người đức Thế Tôn là mình đang thực tập niệm Phật. Ngày mai mình sẽ tiếp tục về Tùy niệm, tôi sẽ nói thêm về Pháp. ☺☺☺

Xem tiếp>>

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.