Khi nào thở mà thấy khỏe, thấy nhẹ là biết rằng mình thở đúng, còn
khi thở mà thấy mình phải cố gắng mệt nhọc là chưa đúng. Chúng ta ngồi
cho thẳng và thở cho thảnh thơi, an lạc.
Mỗi
giây phút là sự sống
Mỗi giây phút là nuôi dưỡng
Mỗi giây phút là trị liệu
Mỗi giây phút là thảnh thơi
Tu là được hưởng những cái đó.
Kính thưa đại chúng hôm nay là ngày mồng ba tháng sáu dương lịch năm
2008, chúng ta đang ở tại thiền đường Cánh Đại Bàng, tu viện Bát Nhã
- Bảo Lộc, Lâm Đồng trong khóa An Cư Kiết Hạ.
Khi đặt cho thiền đường tên Cánh Đại Bàng là tôi có triển vọng con
chim lớn này sẽ đưa chúng ta đi thật xa. Chim Đại Bàng là loài chim
có đôi cánh lớn, chở rất nhiều và bay rất xa. Chim Đại Bàng là một
thứ đại thừa, một cổ xe lớn, chở được nhiều và đi rất xa.

Thiền
đường Cánh đại bàng
Đức Thế Tôn thể hiện bây giờ và ở đây.
Ngày hôm kia chúng ta học một ít về Bốn Phép Tùy Niệm, niệm Bụt, niệm
Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, tôi có giới thiệu Sám Pháp Địa Xúc.
Khi bắt đầu thực tập Sám Pháp Địa Xúc là mình thực tập tiếp xúc với
đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bây giờ và ở đây chớ không phải đức Thế Tôn
của 2600 năm về trước, phần lớn chúng ta có hình ảnh đức Thế Tôn của
2600 năm về trước. Đức Thế Tôn bây giờ đã thay đổi, đã biến hóa rồi,
cũng như đám mây ngày hôm kia, bây giờ nó đã thành mưa, thành sương,
thành tuyết. Vì vậy chúng ta nên tìm cách tiếp xúc với đức Thế Tôn
trong giây phút hiện tại, Ngài đang có mặt ở khắp nơi và dưới những
dạng khác nhau.
Trong những bài thuyết pháp khế cơ, khế lý thích hợp với thời đại có
đức Thế Tôn trong đó. Đức Thế Tôn luôn có mặt trong chúng ta và
chúng ta phải thực tập như thế nào để tiếp xúc với đức Thế Tôn trong
mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Đó là Tùy niệm Bụt. Bụt không
phải chỉ ở Tây phương, mà Bụt cũng ở Đông phương, Bắc phương, Nam
phương, Trung phương, Thượng phương, Hạ phương, Bụt có mặt khắp nơi
và nhất là Bụt cũng có mặt trong trái tim của mình.
Hiện tại
sống chánh niệm, Tịnh độ đã thật rồi, có
đức Thế Tôn là có Tịnh độ, chớ không cần phải chết đi mới vãng
sanh qua đó. Trong đời sống hàng ngày mà có Bụt tham dự thì thế nào
mình cũng khỏe, cũng nhẹ, cũng hạnh phúc. Đừng đợi đến chết để vãng
sanh qua bên đó gặp Bụt thì lâu quá? Mình phải thực tập liền để Bụt
luôn có mặt bây giờ và ở đây. Niệm Bụt là như vậy, niệm Bụt là làm
thế nào để Bụt có mặt trong từng giây phút của đời sống hàng ngày.
Không khó đâu, mình làm được!
Đệ
tử giỏi hơn thầy là chùa có phước.
Sám Pháp Địa Xúc chỉ là điểm bắt đầu, chớ đừng tưởng lạy sám pháp địa
xúc theo đúng nguyên văn là đủ rồi? Không, chưa đủ, đó chỉ mới là mở
trái tim để mình đi tới. Cũng như khi tôi giảng về kinh A Nậu La Độ,
tôi có nói rằng triết gia ngoại đạo đặt ra vấn đề: sau khi đức Thế
Tôn tịch diệt rồi thì Ngài còn hay là không còn, vừa còn vừa không
còn, v.v…
Tôi không đọc kinh đó ngay trong buổi giảng, tôi muốn kích thích sự
tò mò của quí vị để quí vị tự đi tìm kinh ấy mà đọc, tại vì khi tự
tìm đọc tự nhiên mình hiểu được, cái hiểu đó mới trở thành tuệ giác
của mình, còn nếu cố gắng ghi nhận lời của thầy nói để học thuộc
lòng thì đó chỉ là kiến thức chớ không phải tuệ giác.
Học
ở đây quan trọng là hiểu và khi mình hiểu được cái của thầy trao
truyền rồi thì sau này cái đó sẽ trở thành hạt giống. Hạt giống là
một chất sống được gieo vào trong đất Tâm của mình và nếu quả thực
nó là hạt giống thì nó sẽ nẩy mầm, nó sẽ trở thành cây. Và trong khi
mình tiếp tục tu học thì hạt giống đó từ từ nẩy nở, từ từ trở thành
hoa trái của trí tuệ. Còn nếu ba mươi năm sau mình lặp lại điều y
chang như thầy mình dạy thì rõ ràng đó không còn là hạt giống, hạt
giống đó đã chết rồi, có gieo cũng không mọc được. Vì vậy cái học
không phải là để chất chứa tri thức khô cứng rồi đem ra nguyên văn
ra nói lại cho người khác nghe. Cái học như vậy không phải là cái
học mình cần.
Tiếp nhận từ
thầy là tiếp nhận hạt giống của tuệ giác, nghĩa là mình
phải hiểu. Dầu có quên nhưng hạt giống vẫn còn và nếu mình thực tập
niệm, định, tuệ trong đời sống hàng ngày thì hạt giống đó nẩy sinh,
nó lớn lên. Cách đây mười hai năm tôi đã giảng về Bốn Phép Tùy Niệm
và ngày hôm qua tôi cũng giảng về Bốn Phép Tùy Niệm thì có một thầy
nói rằng: Bạch thầy, mười hai năm trước thầy đã giảng bài này, nhưng
năm nay con nghe, con thấy bài giảng này có khác, nó sâu hơn, nó có
những cái rất mới. Những cái đó thầy không phải lấy từ trong sách vở
ra dạy, mà thầy lấy từ tuệ giác sinh động của thầy ra để giảng dạy.
Quí vị học theo cách này mới có thể trở thành một bậc Đạo sư hướng dẫn
cho đời được. Đừng học theo lối từ chương, học theo bằng cấp, học để
chất chứa kiến thức. Nếu học như vậy thì mình có hơn gì một cái máy
thâu thanh? Trong đĩa cứng của máy thâu thanh, máy tính bây giờ có
thể chứa được hàng vạn bài, vậy đâu cần phải tu, mình chỉ cần mua
cái hartdisc về là được rồi?
Như ngày xưa có người khoe học tới mười mấy năm mới có được phép thần
thông bay qua sông để khỏi phải trả hai xu. Tôi nói: trời đất ơi,
đưa hai xu qua sông cho rồi, tại sao phải mất mười lăm năm học phép
thần thông để bay qua sông? Học pháp sanh tử để có tuệ giác để làm
cái này, cái kia chứ chỉ để khỏi tốn hai xu qua sông mà mất mười lăm
năm thì uổng quá?
Cái học của mình cũng vậy, không phải chứa chất kiến thức rồi đem ra
dạy để có tiền lương, dầu lương này là ba bữa cơm chay mỗi ngày.
Cái
thầy trao truyền là từ tuệ giác của thầy nên cái mình tiếp nhận
là những hạt giống sinh động, nó được gieo vào đất tâm của mình, chắc
chắn nó sẽ mọc và tuệ giác của mình, cái hiểu của mình mai mốt sẽ lớn,
từ từ mình sẽ giỏi, đôi khi còn giỏi hơn thầy nữa. Học trò mà hơn
thầy là chùa có phước, giống như:
con
hơn cha là nhà có phước.
Thầy rất mong đệ tử của thầy giỏi hơn thầy, nếu không thì cả thầy
trò đều không có tương lai. Hiện bây giờ thầy có những đệ tử rất giỏi,
giỏi hơn thầy nhiều chuyện lắm: giỏi về cách tổ chức khóa tu, cách
điều động, cách dùng máy vi tính, cách xếp hồ sơ những người thọ giới,
làm hay hơn thầy nhiều lắm. Thầy rất mừng, tại vì:
con
hơn cha là nhà có phước; học trò, đệ tử giỏi hơn thầy là chùa có phước.
Duy
tuệ thị nghiệp
Trong
Bát Đại Nhân Giác có câu: chỉ có tuệ giác mới là sự nghiệp đích thực
của người tu. Chữ mà viện đại học Vạn Hạnh lấy làm tiêu chuẩn, lấy
làm biểu hiệu, làm logo là Duy Tuệ Thị Nghiệp. Duy Tuệ Thị Nghiệp
nghĩa là chỉ có tuệ giác mới là sự nghiệp duy nhất của người tu. Tuệ
giác này không phải là kiến thức do mình thu thập, sưu tầm hay học
hỏi. Mình có thể chất chứa nhiều kiến thức về Phật pháp, nhưng cái
đó chỉ đem ra dạy như một giáo sư, cái đó không giúp mình chuyển hóa
phiền não để đạt tới an lạc và độ đời được.
Tuệ giác là những gì sinh động, ban đầu nó là hạt giống, sau nó lớn
lên, nó đâm chồi, nó làm ra hoa trái của hạnh phúc, của từ bi. Cái
mình đi tìm là tuệ giác chứ không phải kiến thức. Khi đi vào trường
đại học Oxfort hay một trường đại học nổi tiếng nào bên Mỹ, bên Anh,
mình học được cái bằng gọi là tiến sĩ triết học, tiến sĩ Phật học.
Mình có thể có rất nhiều kiến thức Phật học, biết tất cả lịch sử,
biết những nguồn tư tưởng trong đạo Phật như: Phật giáo Nguyên thủy,
Phật giáo Bộ phái, Phật giáo Đại thừa, Phật giáo các tông phái như
Thiên Thai Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông,… Mình có thể
biết rất nhiều, có thể trình một luận án tiến sĩ và đậu rất cao,
nhưng với kiến thức đó mình vẫn chưa thể tháo gỡ những khó khăn
trong đời sống của mình. Những phiền giận, những lo lắng, những thèm
khát như những ngọn lửa đốt cháy trong tâm của mình, mình không xử
lý được, mình không chuyển hướng được.
Kiến thức phải như thế nào để biến thành tuệ giác? Phải có phương
pháp thực tập và người trao truyền. Nhưng người trao truyền phải có
tuệ giác chớ không phải chỉ có kiến thức Phật học. Khi người thầy mà
có tuệ giác, mình nghe, mình tiếp thu được, tại vì trong người của
mình cũng có hạt giống tuệ giác và khi hạt giống tuệ giác của thầy
chạm vào hạt giống tuệ giác ở trong con người mình thì nó nở thành
hoa. Hai cái chạm vào nhau trong thiền môn gọi là: tâm ấn tâm, trái
tim in vào trong trái tim.
Thầy có trái tim của thầy, mình cũng có trái tim của mình, trái tim
của thầy có Phật tánh, trái tim của mình cũng có Phật tánh, thầy lấy
trái tim của thầy in vào trái tim của mình và do đó cái mình nhận được
không phải là kiến thức mà là tuệ giác.
Tâm ấn tâm.
Quí vị có hiểu ba chữ đó chưa? Tâm ấn tâm, trái tim in vào trái tim.
Dầu đó là một hạt rất nhỏ, nhưng mình đừng khinh thường hạt đó. Nếu
trong đời sống hàng ngày mà biết tu tập thì hạt đó càng ngày càng
lớn, càng lớn. Sự thảnh thơi, hạnh phúc của mình là do cái đó cung
cấp chứ không phải những điều kiện vật chất, những tiện nghi vật
chất hay là những tiện nghi tình cảm mà người ta cung cấp cho mình.
Người đời họ hay đi tìm những tiện nghi vật chất hay tiện nghi tình
cảm ở bên ngoài, còn mình đi tìm hạnh phúc ở chỗ mình chế tác được
tuệ giác bằng tình thương. Mình xài dư dã và đem ra cho mọi người:
Khi ra hoa thật nhiều, trái ươm thêm đầy cành, hái đem cho mọi
người.
Khi đi làm việc xã hội, mình giúp xóa đói giảm nghèo, mình có thể
cho tiền, cho thuốc men, cho áo quần, cho nhà cửa, nhưng khi là người
tu, mình có thể cho hiểu biết và cho thương yêu, cho sự che chở. Cái
đó do mình chế tác, cái đó nó vô tận, cái đó mình cho không bao giờ
hết. Mình chế tác bằng hiểu biết, bằng thương yêu, cái đó cho hoài
không hết. Các thầy, các sư cô thực tập mà thành công thì có tuệ
giác đó, thương yêu đó.
Có thiền sinh họ tới, mang nặng một bầu tâm sự, khó khăn, bức xúc, họ
tưởng không bao giờ thoát ra được. Ai dè ngồi với sư cô mười phút,
mười lăm phút, ngồi với thầy mười phút, mười lăm phút thầy tháo gỡ
cho, rồi đi ra với cái mặt tươi rói:
trời
ơi, nó dễ như vậy mà mình không nghĩ ra.
Món quà lớn nhất mà người tu có thể tặng cho người đời là tháo gỡ
cho họ những khó khăn, bức xúc bằng tuệ giác, bằng tình thương của
mình. Đó là vốn liếng, là gia tài, sự nghiệp của người tu.
Mình có thể không có một đồng xu nào và người ta tới với mình như ở
Làng Mai hay ở tu viện Lộc Uyển, cũng không phải tại vì mình có bằng
tiến sĩ Phật học (bằng cấp tiến sĩ của họ đôi khi năm, sáu cái) mà tại
vì mình có cái mà người đời không có: là tuệ giác, là từ bi và pháp
môn tu tập. Cái đó có thể giúp cho họ tháo gỡ được những khó khăn, bế
tắc trong đời sống hàng ngày. Rất là hay.
Tháo
gỡ những vết thương lòng.
Có một anh cựu chiến binh Hoa Kỳ đi đánh giặc ở Việt Nam về, anh
mang một nỗi khổ, niềm đau mười mấy năm mà không có ai giúp anh được,
nhưng rốt cuộc mình giúp được. Năm đó có mở một khóa tu cho cựu chiến
binh Hoa Kỳ, những người đã từng tham dự cuộc chiến tranh ở Việt Nam,
tại miền Bắc tiểu bang California. Người cựu chiến binh đó ngày xưa
đã làm ra một tội lỗi lớn ở Việt nam:
tiểu
đoàn anh ta bị quân kháng chiến tiêu diệt gần hết, trong đó những
người bạn thân của anh đều bị chết hết, cho nên anh căm thù và muốn
trả thù.
Tới cái làng đó, anh đem theo một bịch bánh mì sandwich, anh ta lấy
thuốc súng bỏ vào trong bánh mì, rồi giả bộ để quên ở ngoài cổng
làng và kiếm chỗ núp để rình coi, anh ta thấy:
một đoàn con nít ra chơi, năm đứa tụi nó hí hửng khi thấy được những
cái
bánh
sandwich, tụi nó đem chia nhau, ngấu nghiến ăn, mới ăn được nửa chừng
thì tụi nó ôm bụng la. Ba má tụi nó chạy ra, tìm cách cứu chữa.
Anh ta biết rằng không có cách nào cứu được, chỉ có chết thôi, tại
vì cái làng đó cách xa thành phố tới tám chín giờ xe và nếu chiếc xe
đó chở tới nơi thì tụi nhỏ chết rồi, với lại ở đây đâu có xe mà chở.
Anh chàng thấy mấy đứa trẻ con oằn oại chết trong tay của những ông
cha, những bà mẹ.
Đã quá, đã quá, mình đã trả thù cho những đồng đội.
Anh ta sống sót trở về nước, nhưng cái tội ác đó ám anh ta cả ngày cả
đêm. Anh ta ăn không được, ngủ không được, mỗi khi ngồi chơi với con
nít trong phòng, anh ta chịu không nổi, phải chạy ra khỏi phòng, anh
ta không thể ngồi chung với bọn con nít, dầu là con nít Mỹ. Anh ta
khổ lắm, anh ta không dám kể chuyện tiểu nhân đó cho ai
ngoài má anh, anh không dám kể với người nào khác, dầu đó là bác sĩ
tâm lý trị liệu cho anh ta.
Hôm nói chuyện với má, anh khóc. Má anh có nói như vầy:
này
con, những chuyện như vậy nó xẩy ra trong bất cứ cuộc chiến tranh
nào, cuộc chiến tranh nào cũng tàn ác, cũng bất nhân, không tàn ác,
bất nhân bằng cách này thì cũng bằng cách khác. Hiếp dâm, đốt nhà,
sát hại những người vô tội, nó xẩy ra trong bất cứ cuộc chiến tranh
nào. Chuyện của con làm là chuyện bất nhân, nhưng cũng bình thường
thôi, con đừng có đau khổ.
Bà ta nói như vậy, nhưng không đủ để chữa lành thương tích của anh
ta, anh ta vẫn còn mặc cảm tội lỗi. Khi nghe tin có một khóa tu dành
cho người cựu chiến binh Hoa kỳ do một ông nhà tu Việt Nam tổ chức
thì bác sĩ tâm lý trị liệu khuyên anh tham dự.
Khóa tu đầu tiên dành riêng cho cựu chiến binh Hoa kỳ rất là khó,
tại vì những người tới khóa tu rất nhiều mặc cảm, có nhiều
vết thương trong lòng,
có nhiều oán thù, sợ hãi. Không những oán thù những người lính giải
phóng mà họ oán thù luôn cả nước Mỹ, tại vì nước Mỹ đã đẩy họ đi vào
cuộc chiến để họ chết, để họ bị thương tích, rồi khi họ sống sót trở
về nước cũng không có dễ thương với họ.
Có người cựu chiến binh Hoa Kỳ khi tham dự buổi thiền hành đầu tiên,
buổi thiền hành với từng bước chân nhẹ nhàng, thảnh thơi, chầm chậm
làm anh ta rất sợ, không dám tham dự vào. Tại vì anh ta liên tưởng
trở lại, nhớ lại những lúc anh ta đi trong những khu rừng Việt Nam,
rón rén từng bước vì bước nào cũng có thể có bom, có bẫy sập, có mìn
gài sẵn, rủi dẫm vào thì nó nổ cho tan xác. Anh ta không dám tham dự,
đi cách xa độ chừng mười lăm thước để lỡ có chuyện gì xảy ra, anh ta
chạy.
Có một cựu chiến binh không dám ngủ trong cư xá, tại vì khóa tu này
do ông thầy tu hướng dẫn, mà ông thầy tu có thể là Việt cộng trá
hình qua bên này để tiếp tục đánh mình. Ông bác sĩ tâm lý trị liệu
khuyên tới khóa tu thì mình tới thôi, chớ thật ra mình đã được dạy rằng:
sang
Việt nam nguy lắm, ai cũng có thể là Việt cộng, thầy tu cũng có thể
là Việt cộng?
Anh ta được giáo dục như vậy, thành ra nghe ông thầy mở khóa
tu, anh ta nửa tin, nửa ngờ và sợ bị đánh úp. Cho nên thay vì ngủ
trong cư xá như những thiền sinh khác thì anh ta lấy cái lều giăng
ra ở một gốc cây xa xa, rồi ngủ ở đó, xung quanh lều anh ta gài những
cái bẫy để ban đêm có người đi vô thì sập bẫy. Anh ta nghĩ như vậy mới
an ninh. Những người lính Mỹ đã rời Việt Nam mà chưa ra khỏi Việt
Nam, những ác mộng của cuộc chiến nó theo đuổi ngày đêm. Dễ sợ như vậy
đó.
Trong những buổi pháp đàm, những người thiền sinh được quyền nói lên
những khổ đau, bức xúc của mình và trong số người nghe có các thầy,
các sư cô, các phật tử Việt Nam, những người mà ngày xưa họ coi như
kẻ thù, bây giờ những người ấy đang ngồi lắng nghe họ với tất cả
lòng xót thương. Có người nói ra được những niềm đau, nỗi khổ, nhưng
có người không nói ra được, ngồi từ giờ này qua giờ khác cũng không
nói ra được, như anh chàng bỏ thuốc độc vào sandwich ngồi luôn ba bốn
buổi liên tiếp cũng không nói ra được những điều anh muốn nói. Cuối
cùng nhờ một sư cô đôn đốc, khuyến khích, rốt cuộc anh ta nói ra được,
kể ra được là anh ta bỏ thuốc độc vào trong bánh sandwich làm cho
năm đứa con nít chết. Anh ta hối hận và bây giờ nó trở thành cơn ác
mộng, anh không thể nào thoát ra khỏi. Vì đây là trường hợp khó nên
các sư cô xin tôi cho anh ta nửa giờ tham vấn, nhưng thật sự tôi chỉ
dùng mười lăm phút và tôi dạy như thế này:
- Nè anh, cái hành động đó tiểu nhân thiệt, tội lỗi thiệt, anh đã giết
chết năm đứa trẻ, nhưng anh không cần phải ôm tội lỗi đó để mà chết,
mặc cảm để mà chết. Nhưng anh có thể làm một cái gì phá tan tội lỗi
đó. Trong đạo Phật có phương pháp rất mầu nhiệm, mình có thể thay đổi
cái nghiệp của mình. Tôi chỉ cho anh một cách như thế này,
công nhận là anh giết năm đứa bé và ngày hôm nay nếu khôn ngoan anh
có thể cứu được năm đứa bé. Có những đứa bé giờ này đang chết vì thiếu
ăn, thiếu thuốc men, bệnh tật, không nhà cửa, và vì thiếu sự chăm
sóc nào đó ở khắp nơi trên thế giới… ngay tại Mỹ cũng có những đứa
con nít đang chết trong tình trạng như vậy. Cuộc đời của anh, anh
đang còn sức khỏe, anh còn hai mắt sáng, còn hai tay rất mạnh, hai
chân đi rất vững. Tại sao anh không đem cuộc đời của anh đi cứu đứa
trẻ đang chết trong hiện tại mà lại nhốt mình trong ngục tù mặc cảm
của quá khứ? Tại sao anh không dùng đời sống của anh, sử dụng giây
phút hiện tại đó đi cứu những đứa trẻ đang chết. Tôi chắc chắn rằng
ngày hôm nay anh cứu được năm đứa thì năm đứa được anh cứu sẽ cứu
chuộc được năm đứa mà anh đã giết ngày hôm trước. Vì cách này hay
cách khác anh có thể cứu nhiều đứa con nít trong mỗi ngày. Anh phải
phát nguyện, anh hãy quỳ xuống, anh hứa từ nay mỗi ngày anh sẽ sử dụng
thời giờ, tâm lực, tiền bạc để đi cứu những đứa con nít đang chết dần,
chết dần trong giây phút hiện tại. Tôi tin chắc anh có thể cứu được
ba chục đứa, năm chục đứa, trăm đứa trong vòng sáu tháng hoặc một
năm. Rồi một ngày nào đó, anh sẽ thấy năm đứa con nít ngày xưa, nó sẽ
cười, sẽ tha thứ cho anh.
Chỉ mười lăm phút sau,
mặt anh ta sáng lên, anh tìm thấy được con đường, anh gỡ được, thoát
ra được cơn ác mộng và anh ta phát nguyện sẽ làm như thầy đã dạy.
Tôi chỉ cần mười phút thôi, mà trong khi đó ông bác sĩ tâm lý trị liệu
và những người bác sĩ khác từ năm này sang năm khác, mấy chục năm
nay họ không giúp được cho anh ta.
Tu là mình phải có tuệ giác và tình thương. Thương thì mình tha thứ
được, giúp được, ngay cả người mà ngày xưa đã từng giết hại con cháu
mình. Nhờ có tình thương, có sự bao dung mình chỉ cho người ấy lối
thoát. Đâu cần phải có tiền bạc, quyền hành, địa vị mình mới có thể
giúp người được? Người tu giúp người bằng tuệ giác và từ bi của
mình. Tuệ giác và từ bi là do mình chế tác từ trong đời sống hàng
ngày.
Mắt
thương nhìn cuộc đời, nhìn
ai cũng bằng con mắt từ bi, dầu người đó từng làm cho mình điêu
đứng, khổ đau. Trái tim từ bi là trái tim ôm lấy tất cả, không phân
biệt kẻ oán, người thân.
Pháp thiết thực hiện tại.
Nói tới đây thì tôi nhớ tới một danh từ mà mình học hồi hôm qua:
giáo
pháp của đức Thế Tôn là giáo pháp thiết thực hiện tại, hiện thành
toàn chứng.
Thiết thực hiện tại (samdrishtika) có nghĩa là nhằm giải quyết vấn đề
hiện đang có trong giây phút hiện tại. Drishti tiếng phạn có nghĩa
là thấy, các tổ ngày xưa dịch là chữ kiến, có khi dịch là chữ hiện,
nghĩa là cái gì đang xẩy ra trước mắt mình trong giây phút hiện tại
là samdrishtika (thiết thực hiện tại). Một trong những đặc tính của
giáo pháp đức Thế Tôn là Thiết thực hiện tại, tức là lo xử lý những
cái gì đó đang xẩy ra trong hiện tại. Hiện tại có những khó khăn, khổ
đau, bức xúc nào thì mình nhận diện những khó khăn, khổ đau, bức xúc
đó và giải quyết ngay trong giây phút hiện tại. Đó là giáo pháp của
đức Thế Tôn.
Giáo pháp
đức Thế Tôn không bảo mình đeo hy vọng vào tương lai hay hồi
tưởng lại quá khứ, ví dụ như bây giờ mình chịu khó, cực khổ để sau
này hạnh phúc trong tương lai thì đó là không phải samdrishtika. Thiết thực hiện tại
dịch ra tiếng Anh
là center in the present moment, focus on the present moment, tức là
hiện tại có những khổ đau trong bản thân và trong hoàn cảnh. Giáo
pháp của đức Thế Tôn là phải đáp ứng lại những khổ đau đó ngay trong
hiện tại chớ đừng có nói là ráng chịu khổ đi rồi sẽ có hạnh phúc, niết
bàn trong tương lai.
Cái đó là rất quan trọng, đó là dấu ấn của chánh pháp. Chánh pháp
không phải là cái gì đó mà mình đem rao bán: nếu anh mà đầu tư vào
chuyện này thì anh sẽ có hạnh phúc trong tương lai, bây giờ chưa có
hạnh phúc đâu, anh phải chịu khổ một thời gian thì anh mới có hạnh
phúc.
Cái đó không phải là giáo pháp của đức Thế Tôn. Giáo pháp của đức Thế
Tôn là phải giải quyết khổ đau hiện tại và có an lạc ngay trong giờ
phút hiện tại. Đó gọi là thiết thực hiện tại, tiếng Pali là
samditthika có nghĩa là thấy và nó đi đôi với tính cách vượt thoát
thời gian của pháp tức là akalika. Ka tức là thời ; A không phải thời,
dịch là phi thời.
Trong
kinh Tuổi Trẻ Và Hạnh Phúc, kinh Sammiddhi có danh từ phi thời.
Phi thời ở đây là vượt thoát thời gian và mà ngày xưa các Tổ ở thế kỷ
thứ ba, thứ tư dịch trong kinh A Hàm là bất quản thời nhật. Bất quản
là không kể đến ngày giờ, ngày tháng tức là nếu biết áp dụng là có kết
quả ngay trong giây phút hiện tại chớ không phải chờ năm năm hay bảy
năm hay là chết rồi mới có kết quả và hai cái đi đôi với nhau, là samdrishtika,
là Thiết thực hiện tại, có nghĩa là giáo pháp của đức Thích Ca không
rao bán cho người ta cái tương lai. Anh đưa tiền cho tôi đây, đầu tư
vào tôi anh sẽ có một tương lai tốt đẹp. Không! Giáo pháp của đức
Thích Ca là anh có thể hạnh phúc ngay trong hiện tại, tại vì giáo
pháp này giúp cho anh xử lý được, tháo gỡ được những khó khăn của
anh ngay trong giây phút hiện tại, là samdrishtika.
Nếu tháo gỡ trong giây phút hiện tại thì đâu cần phải cần thời gian?
Hễ bắt đầu thực tập là thấy khác rồi. Anh có cảm xúc, giận hờn, tuyệt
vọng và nếu anh biết giáo pháp, biết phương pháp thở, phương pháp đi
thiền hành, phương pháp nhận diện thì từ từ nó nhẹ đi. Nếu anh có
lòng từ bi, anh muốn người kia lắng dịu xuống, người kia bớt khổ,
anh tới người đó, anh nói người đó có những đức tính tốt này, có những
cái hay kia, anh rất là vui khi người đó đối xử tốt với mình. Như vậy
thì chỉ cần nói một hai câu thì cái mặt người đó tươi ra liền.
Kết quả có ngay trong giây phút hiện tại. Miễn trong lòng mình có sẵn
từ bi, có sẵn trí tuệ là mình nói được, còn nếu không có từ bi thì dầu
biết rằng câu đó hay, nhưng tự nhiên mình nói cũng không được, có từ
bi mới nói được. Từ bi có nghĩa là thấy người kia khổ và muốn giúp
người bớt khổ, tự nhiên mình nói được. Người kia có thể là chồng
mình, vợ mình, cha mình, chỉ cần nói một câu thôi là người kia dịu
xuống liền. Diệu pháp là như vậy, là phải xử lý vấn đề có trong hiện
tại, chớ đừng lo chuyện xa xôi và nó có kết quả liền lập tức.
* * *
Mời quí vị đọc lại bốn phép tùy niệm. Niệm Bụt như thế nào để có Bụt
trong từng giây phút của cuộc đời? Cuộc sống hàng ngày phải khéo léo,
khôn ngoan, mình không sống với Ma, mình sống với Bụt. Bụt cho ta 24
giờ một ngày, nếu ta biết cách chơi với Ngài, biết cách cầm tay Ngài
đi thiền hành mỗi ngày, ngồi với Ngài, ăn cơm với Ngài, chớ đừng nói:
Bụt đi
đâu rồi, con khổ vậy mà Ngài bỏ con mà đi?
Vậy tức là mình chưa niệm Bụt, chưa thấy Bụt đang có mặt khắp nơi và
trong bất cứ giây phút nào. Cũng như người đi tìm không khí: không
khí ở đâu, ngột ngạt quá?
Không khí ở ngay đây! Không gian ở đâu mà tại sao tôi thấy tù túng
quá? Không gian ở ngay đây! Và cũng như vậy, có những người chết
khát bên bờ sông!
Đi tìm Phật, mà ai dè Phật ở ngay đó, mà mình cũng còn đi kiếm. Phật
là Niệm, Định, Tuệ, là Tình thương, là Tuệ giác, Phật có mặt khắp
nơi trên thế giới và ngay chính trong mình cũng có Phật, nhưng mình
đè Ngài, ém Ngài xuống, không cho Ngài có cơ hội bừng tỏa ra. Phật
là Niệm, Định, Tuệ, là Tình Thương, là Tuệ giác.
Phép tùy niệm thứ nhất là niệm Bụt:
chỉ có mười mấy giòng, nhưng rất sâu và làm thế nào để mỗi năm mình
có quan niệm về Bụt sâu hơn, gần với sự thật hơn, chớ đừng có đọc
như một con vẹt.
Ngày xưa lúc mới tiếp xúc với Bụt, mình thấy Bụt khác. Giờ đây sau
bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm học mình thấy Bụt ngày xưa quê quá,
xưa quá. Bụt ngày xưa của mình là một ông Thần? Ví dụ có chú điệu đó,
chú được đi chùa từ hồi còn nhỏ và chú tưởng Bụt là cái ông suốt
ngày ngồi trong chánh điện, đợi người ta đem chuối, đem xôi tới, rồi
chú tưởng tượng là sau khi bổn đạo về hết, tất cả cửa đều đóng thì Bụt
từ từ mở mắt ra, đưa tay bẻ trái chuối. Chú điệu đó rình bên ngoài,
hé cửa nhìn vô xem thử Bụt đưa tay ra hái trái chuối như thế nào?
Rình hoài nhưng không thấy? Chú điệu đã có quan niệm ngây thơ như vậy.
Chú điệu đó về sau lớn lên đã đi tu, đã trở thành Giám đốc đầu tiên
của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Chúng ta ai cũng có quan niệm
ngây thơ về Bụt và nhờ niệm Bụt ta mới khám phá được Chân Bụt (tức Bụt
thật) là một người có tình thương, có tuệ giác và có từ bi. Cái thấy
của mình về Bụt phải lớn từng ngày, tại vì nó là hạt giống tuệ giác
chứ không phải là một mảnh kiến thức khô cứng. Nếu mình là người tu
thì cái thấy của mình về Bụt mỗi ngày mỗi tiến bộ, cái thấy về Pháp
cũng vậy, mỗi ngày mỗi tiến bộ. Cho nên khi học về Bốn Phép Tùy Niệm
này rồi, quí vị mới thấy rằng: ngày xưa mình tưởng mình biết Phật
Pháp Tăng là gì rồi, ai dè mình chỉ mới biết sơ sơ.
3) Niệm Tăng
Tăng bảo là gì? Chúng ta đã học rằng nếu Tăng mà có Niệm, Định và Tuệ
thì đó là Chân Tăng (real sangha) và nếu đó là Tăng đức thật thì có
uy nghi, có năng lượng hùng hậu. Nhìn cách đi, cách đứng, cách ngồi,
nhìn nụ cười, ánh mắt của vị Chân Tăng thì mình thấy được sự tỏa chiếu
Niệm, Định, Tuệ và Từ bi. Nếu có vị Tăng như vậy thì đó là một bảo vật,
không phải của riêng mình, của riêng Phật giáo mà là bảo vật của đất
nước, của nhân loại và trong Chân Tăng chắc chắn là có Phật và Pháp.
Cho nên xây dựng Tăng thân tức là mình cũng xây dựng Phật thân và
Pháp thân. Mình cúng dường Tăng thân cũng là cúng dường Phật và cúng
dường Pháp. Và trong Tăng thân có những người có trí tuệ, có từ bi,
có cái thấy sâu, có những người đã chứng quả tức là Tứ song Bát bối.
Tăng
thân của đức Thế Tôn là đoàn thể mà chúng con quay về nương tựa,
tu thì phải có tăng thân để mình nương tựa, để che chở cho mình, tu
mà không có tăng thân rất khó thành. Xa lìa tăng thân đi ra một mình
thế nào cũng đánh mất sự thực tập của mình, thành ra mình tu, mình
phải luôn luôn cam kết là không đi ra khỏi tăng thân, phải sống với
tăng thân. Bỏ tăng thân mà đi giống như con cọp ở trên rừng bỏ xuống
đồng bằng, thế nào cũng bị con người bắt lột da.
Tăng
ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại.
Cho nên là người tu, mình phải nguyện suốt đời không đi ra khỏi tăng
thân.
Tăng
thân của đức Thế Tôn là đoàn thể để chúng con quay về nương tựa, là
đoàn thể đã đi trên con đường sáng ngời.
Tăng thân mà đi trên con đường sáng ngời là con đuờng của trí tuệ, của
từ bi. Không có con đường nào sáng hơn.
Là
đoàn thể đang đi trên đường chính trực.
Là đoàn thể đang đi trên con đường ứng hợp chân lý.
Là đoàn thể đang đi trên đường thánh thiện.
Chất niệm, chất định và chất tuệ
là ba chất thánh mà người tu là phải chế tác chất thánh mỗi ngày.
Trong hơi thở, trong bước chân, trong khi ăn cơm phải chế tác chánh
niệm, chánh định. Nhìn sâu vào để thấy cơm này là tặng phẩm của đất
trời, là công phu lao tác của biết bao nhiêu loài có mặt trong này.
Trong khi ăn bát cơm mà thấy như vậy, tự nhiên niềm biết ơn nó trào
ra và mình nguyện sống như thế nào để xứng đáng thọ nhận chén cơm
này. Đó là trong khi ăn cơm đã có tuệ rồi, nhờ tuệ mà mình có từ bi.
Thành ra nói ăn cơm cũng là tu, ăn cơm cũng là chế tác từ bi và tuệ
giác. Ăn thế nào để giảm thiểu được khổ đau của muôn loài; muôn loài
đang ăn nhau, con này ăn con khác. Ăn như thế nào để giảm thiểu
những khổ đau của con người. Và vì vậy được ăn chay là một hạnh phúc
lớn.
Khi ăn một hạt đậu rim, mình thấy rõ ràng hạt đậu rim này không phải
là con tôm. Ăn hạt đậu rim mà khỏi phải giết một con tôm và trong
khi ăn mình hạnh phúc quá chừng, nhất là ăn với lòng từ bi thì hạt đậu
rim thấy rất là ngon, thấy còn ngon hơn tôm rim ngày xưa mình ăn.
Con tôm khi bỏ vô chảo, nó cong cong lại, ửng vàng, nó đỏ lên. Còn
cái hạt đậu này nó đâu có đau khổ như vậy. Cho nên được ăn chay là một
vinh dự, một hạnh phúc lớn và phải biết ơn là mình được ăn chay, chớ
đừng nói là mình phải ăn chay, bị ăn chay.
Liên Hiệp Quốc cũng đã ra thông cáo, nhân loại nên ăn thịt bớt lại,
ít nhất là năm mươi phần trăm mới cứu được trái đất này, tại vì những
trại chăn nuôi để sản xuất thịt phá hoại môi trường rất nhiều. Cho
nên từ đó tới nay, tất cả các đệ tử của tôi, tôi khuyên ăn chay và
ăn tối thiểu phải mười lăm ngày một tháng, thay vì thập trai thì ăn
thập ngũ trai mới là đệ tử của tôi. Còn ăn dưới mười bốn ngày thì gần
gần thôi chớ chưa phải là đệ tử thiệt của tôi. Hiện giờ có rất nhiều
người, người Anh, người Pháp, người Đức, người Mỹ muốn làm đệ tử thiệt
của tôi nên họ ăn chay mười ngày lăm một tháng, có nhiều người họ ăn
chay trường luôn. Trong khi ăn mình chế tác từ bi, mình chế tác trí
tuệ, chính nhờ trí tuệ và từ bi đó mà mình độ đời được.
Quả vị tu chứng của Làng Mai.
Là
đoàn thể gồm thâu bốn đôi và tám bậc thánh quả.
Ngày hôm nay tôi giảng sơ sơ về cái này, giảng một chút thôi và quí
vị phải tự mình tìm hiểu thì mới hay. Bốn đôi và tám bậc thánh quả gọi
là Tứ song Bát bối.
Tứ song là bốn cặp, Bát bối là tám hạng người. Người tu mà chế tác
niệm, định và tuệ thì sẽ đạt được bốn quả vị: quả vị Nhập Lưu, quả vị
Nhất Lai, quả vị Bất Lai và quả vị A La Hán (Tu-đà-hoàn,
Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán).
Nhưng mà muốn đạt được quả này thì phải hướng về quả này và vì vậy
nó chia thành tám tức là hướng và quả.
Dự Lưu là quả đầu tiên, tức là đi vào dòng. Hễ đi được vào dòng rồi
thì thế nào cũng ra biển, sớm muộn gì cũng ra biển. Nhưng mình đã đi
vào dòng chưa? Mình đã hòa nhập với tăng thân và thực tập giới, định,
tuệ chưa? Nếu đã tiếp nhận giới và hòa nhập với tăng thân và thực tập
mỗi ngày, tức là mình đã nhập lưu, đã vào dòng, mà hễ vào dòng thì
thế nào cũng ra biển. Mỗi người có thể tự biết được là mình đã chứng
được quả vị vào dòng hay chưa?
Nhưng trước khi vào dòng, muốn vào dòng mình phải hướng về chuyện
vào dòng. Chưa vào dòng được, nhưng mình đang chuẩn bị để đi vào
dòng. Rồi khi có chiếc thuyền thả xuống, mình ngồi lên và thả theo
dòng nước thì lúc đó là vào dòng thiệt, chớ còn trong lúc đang kiếm
thuyền, đang chuẩn bị cắt đứt những sợi dây ràng buộc, lúc đó mình
chưa thật sự dự lưu, mình đang hướng về dự lưu thôi, gọi là dự lưu
hướng và khi dự lưu hướng thành công, mình chứng được dự lưu quả là
mình đã ngồi trong dòng rồi. Dòng đang chảy thì thế nào mình cũng ra
biển. Cái đó là đã có đường đi rồi con không còn lo sợ. Cho nên tiếp
thọ Năm giới, thực tập Năm giới, an trú với Năm giới, có hạnh phúc với
Năm giới, tức là mình đã đi vào dòng, mình được quả đầu tiên trong bốn
quả vị. Ở Làng Mai, những quả vị này được đặt tên khác cho dễ hiểu.
Tôi xin nói về những quả tu chứng của Làng Mai, của tu viện Bát Nhã.
Quả đầu là quả An Trú:
tức là ở yên. Có nhiều người trong chúng ta đứng chỗ này mà vẫn vọng
về chỗ khác, đứng núi này trông núi nọ, đang còn tìm kiếm, đứng
không yên, ở không yên một chỗ, không bằng lòng với chỗ, với sự thực
tập của mình thì người đó chưa đạt tới quả an trú, tức là ở yên.
Trong chúng ta có những người xuất gia, có những người cư sĩ, có những
người có cảm tưởng chỗ này là của mình rồi, đuổi mình cũng không đi.
Mình đã nắm được pháp môn rồi, đây là con đường của mình chớ không
còn nghi ngờ gì nữa, mình hạnh phúc sống ở đây, không đi chỗ nào nữa,
những người đó bắt đầu chứng quả an trú. Còn nếu thấp thỏm, đứng núi
này trông núi nọ, đặt vấn đề nghi ngờ này kia nọ là chưa an trú. An
trú là ở yên, như an cư lạc nghiệp, yên, bằng lòng. Thấy mình có con
đường đẹp, có niềm tin vững chãi, thầy mình không còn tìm kiếm gì nữa
thì nó tương đương với quả vào dòng.
Quả thứ hai là
quả Đã Về Đã Tới:
tức là không tìm hạnh phúc trong tương lai nữa, thấy trong giây phút
hiện tại có quá nhiều điều kiện hạnh phúc rồi, mình sống ngay trong
giây phút hiện tại, không có đánh mất mình, không có bon chen, bươn
chải tìm về một hướng nào khác và nghĩ rằng nơi đó mới có hạnh phúc.
Thực tập trở về giây phút hiện tại, nhận diện rằng mình có những điều
kiện của hạnh phúc, có dư dả những điều kiện hạnh phúc, mình có hạnh
phúc ngay trong giây phút hiện tại và mình biết rằng có hạnh phúc
trong giờ phút hiện tại, chắc chắn có hạnh phúc trong tương lai. Khi
sống được như vậy là chứng được quả thứ hai
đã về
đã tới
rất là thong dong, không bươn chãi nữa, không hối hả nữa, không chạy
nữa, dừng lại được. Đó là quả thứ hai và trong chúng ta có một số
người đã đạt tới quả đó.
Mình rất hạnh phúc với chiếc áo này, với cách sống này, mỗi ngày
mình tiếp xúc với bao nhiêu cái mầu nhiệm của sự sống. Tuy cuộc đời
có sanh, lão, bệnh, tử, có vô thường, vô ngã, nhưng mình chắc là
mình có thể sống hạnh phúc trên những cái đó. Sanh ra cũng là hạnh
phúc, lớn lên cũng là hạnh phúc, già đi cũng là hạnh phúc, mà chết
cũng là hạnh phúc, tại vì mình thấy rõ ràng rằng cái chết nó chuẩn bị
cho cái sống, cũng như cái chết của đám mây là sự phát hiện của cơn
mưa. Làm mây rất đẹp, làm mưa cũng là rất đẹp, tại sao mình phải sợ
làm mưa? Có tuệ giác đó thì mình chấp nhận hết tất cả mọi cái, ăn
xôi cũng hạnh phúc, ăn mì gói cũng hạnh phúc.
Quả
vị Đã Về Đã Tới đó, đâu cần phải một vị Phật hay một vị Bồ tát nói
là mình chứng hay là chưa chứng; mình chứng thì mình biết. Mỗi bước
chân đã về đã tới, mỗi hơi thở đã về đã tới, mình sống rất hạnh phúc
và rất thảnh thơi, mà nếu không thảnh thơi thì làm sao mình giúp
người khác được? Mình có sự thảnh thơi, ở yên, bằng lòng với điều
kiện hạnh phúc mà mình đang có. Mình có thầy, có anh, có chị, có em
trong đạo, có pháp môn để tu tập, có cơ hội để giúp đời, độ người,
mình đòi cái gì nữa? Chỉ có cái là mình chưa biết lợi dụng, thừa
hưởng được tất cả những cái đó mà thôi.
Thầy thấy tuổi trẻ rất là quý, mà tuổi già cũng rất là quý. Tôi đang
tận hưởng những giây phút tuổi già của tôi. Tuổi già có những cái
hay mà tuổi trẻ không có. Ví dụ tuổi già như tôi thì không có cái
năng lượng tình dục, tôi khỏi phải bảo quản gì hết. Mỗi cái nó có
cái hay riêng, như dòng suối khi phát sinh trên núi thì nó hối hả,
mong tới biển càng sớm càng tốt, nó không yên được, nhưng khi xuống
đồng bằng nó đi chậm lại. Đi chậm lại thì nó có cơ hội quán chiếu được
đám mây, mây trắng, mây vàng, trời xanh, trăng sao. Lúc thành dòng
sông nó có những niềm vui mà dòng suối không có được. Dòng suối nhảy
nhót như vậy thì làm sao phản chiếu được mây trời, trăng sao? Và khi
đi chậm lại thành một dòng sông thì nó có cơ hội yên tĩnh để phản
chiếu được mây trời trăng sao, hạnh phúc lắm!
Thành ra tuổi trẻ cũng hạnh phúc, tuổi già cũng hạnh phúc lắm, mà
cho đến chết đi cũng hạnh phúc, tại vì chết đi để cho sự sống được
tiếp tục. Mình đâu phải đợi tới năm đó mới chết? Mỗi giờ mỗi phút đều
có sự chết nó xẩy ra trong cơ thể. Mỗi ngày có bao nhiêu tế bào chết
để cho những tế bào mới sinh ra. Nếu những tế bào này không chết thì
làm sao những tế bào mới phát sinh ra được? Khi mình gãi, biết bao
nhiêu tế bào của mình chết, nó rớt xuống đất hàng ngàn tế bào và nhờ
những tế bào chết cho những tế bào sống sinh ra, cho nên da mình mới
tươi, mới mát được. Vì vậy cái chết là điều kiện cần thiết cho sự sống.
Khi mình có tuệ giác đó rồi thì không sợ chết nữa, tuệ giác đó rất
là quan trọng cho hạnh phúc của mình.
Như vậy nếu có ai hỏi quí vị: bác có chứng được quả đầu là An Trú
chưa?
Bây giờ mình phải trả lời, tại chứng hay chưa mình biết. Mình có ở
yên hay chưa, hay mình còn thấp thỏm còn tìm tòi, mình còn đứng núi
này trông núi nọ? Nếu mình thấy mình an trú được rồi thì mình nói:
có, bây giờ tôi đang an trú, đang thảnh thơi, bây giờ và ở đây. Mình
nói rõ ràng rằng mình chứng quả đó: an trú, thảnh thơi, bây giờ và
nơi này. Cái đó nằm trong tầm tay của quí vị, nếu quí vị quyết chí sẽ
chứng được quả đó. Nó tương đương với quả Vào Dòng. Như mua vé máy
bay, máy bay cất cánh thì thế nào cũng tới.
Quả thứ ba là
quả Tương Tức:
đến quả tương tức này thì mình thấy được rằng có sự liên hệ giữa
mình với những người khác và những hiện tượng khác rất là mật thiết.
Nhìn vào cha mình thấy con, nhìn vào con mình thấy cha, mình thấy
cha là con, con là sự tiếp nối của cha, mà không phải hai thực tại
riêng biệt nữa, cha và con bất nhị. Phật và chúng sanh cũng là bất
nhị, cũng không phải là hai thực tại tách rời ra được. Nếu không có
chúng sanh thì không có Phật, mà nếu không có Phật thì cái đó không
phải là chúng sanh, tại vì chúng sanh có hạt giống của Phật ở trong
đó, thành ra gọi là Phật Sanh bất nhị.
Giữa mình với đám mây nó tương tức. Đám mây không phải là một vật
khác, mình không phải là một vật khác, nhìn cho kỹ thì mình thấy
trong con người của mình có ít nhất bảy chục phần trăm mây. Khoa học
nói như vậy. Khi mình uống một ly nước chanh, tức là mình đang uống
mây, mình không thể nào sống mà không có mây. Mình là mây, mây là
mình, mình thở ra là mây đó. Quí vị có biết rằng, mỗi ngày chúng ta
chế tác ra mây, hơi thở của chúng ta làm ra hơi nước. Thành ra nói rằng
giữa mình và mây là hai cái khác nhau, không có đúng. Mây còn đó thì
mình còn đó; mình còn đó thì mây còn đó. Phải thấy được cái duyên
sinh, tương tức của vạn pháp. Cái này là do tu thiền mà thấy.
Trong đời sống hàng ngày khi mình thấy bông hoa, thấy một đám mây,
thấy một ly trà đều phải sống có Niệm, có Định để đạt tới cái thấy
đó, cái thấy tương tức. Tương tức có nghĩa là cái này là cái kia,
cái này có trong cái kia, cái kia là cái này, cái kia có trong cái
này. Khi thấy như vậy mình sẽ không có kỳ thị nữa. Giữa cha và con
không có sự dằng co, hạnh phúc của cha là hạnh phúc của con, hạnh
phúc của con là hạnh phúc của cha. Làm cho cha cười được con rất khỏe;
làm cho con nhẹ nhàng, cha rất sung sướng. Nhưng cái đó có được, có
thể có được khi mình có tuệ giác tương tức. Tương tức là duyên sinh,
cái thấy duyên sinh. Khoa học bây giờ rất khâm phục tuệ giác
duyên sinh, tuệ giác tương tức đó. Rất là hay.
Quả thứ tư là
quả Vô Sinh:
hiện
tiền chứng đẳng quy tâm vô sinh túc chúng
là hiện giờ tất cả chúng con trong tăng thân đều đem trái tim mình
quay về và thế nào chúng con cũng sẽ chứng được quả vị vô sinh rất
là mau chóng. Đó là lời hứa hằng ngày của mình đối với Bụt trong Nhật
Tụng Thiền Môn. Vô sinh là gì mà mình phải chứng? Vô sinh là một
danh từ đầu thôi, nó đại diện cho một số danh từ: Vô sinh bất diệt,
Vô khứ vô lai, Phi nhất phi nhị, Phi hữu phi vô. Thành ra chữ Vô
sinh này chỉ là cái biểu hiệu đầu của Niết bàn thôi. Ban đầu quán
chiếu thì mình thấy có vạn pháp, có sinh và có diệt, có có và có
không, có tới và có đi, có một và có khác.
Ví dụ như có thì giờ mình nhìn lại tập hình của gia đình, mình thấy
mình, có hình mình trong đó. Ba má chụp mình hồi sáu tháng, mình tức
cười quá, không tưởng tượng rằng ngày xưa mình đã từng là cục thịt
nho nhỏ đó, bây giờ mình khác quá chừng. Cũng có cái hình của ba lúc
năm tuổi nữa, mình tức cười quá, không ngờ ba cũng có lúc là thằng
nhỏ như vậy và mình đặt vấn đề là mình có phải là cục thịt nho nhỏ,
đỏ hỏn đó không? Bây giờ là mình đã 25 tuổi rồi, cái hình hài của
mình rất khác, năm uẩn của mình rất khác, sắc thọ tưởng hành thức
mình hoàn toàn khác. Vậy mình và cái em bé sáu tháng đó là một hay
là khác, là một người hay hai người khác nhau? Theo tuệ giác này,
mình với cục thịt đỏ hỏn đó không phải là một người mà cũng không phải
hai người khác nhau. Sự thật phi nhất phi dị, không phải cái đó mà
cũng không phải cái khác, không phải một cũng không phải khác.
Khi nhìn đám mây, mình thấy đám mây có đó rồi sau đó không thấy đám
mây. Mình thấy đám mây như là có sinh có diệt. Mà sinh tức là từ
không trở thành có, mà diệt là từ có trở thành không. Nhìn cho kỹ
thì thấy không phải như vậy, trước khi là đám mây thì nó không phải
là không có? Trước khi là đám mây thì tiền thân của nó là biển cả,
là dòng sông, là hơi nóng của mặt trời. Nếu không có dòng sông,
không có biển cả, không có hơi nóng của mặt trời, không có hơi thở của
con người thì làm sao có đám mây được? Đám mây không phải từ không
mà trở thành có và khi đám mây trở thành mưa thì mình tưởng đám mây
từ có trở thành không. Đám mây sao trở thành không được? Đám mây chỉ
trở thành mưa, trở thành tuyết, trở thành sương, trở thành nước trà,
trở thành máu huyết của mình, chớ đám mây đâu có thể nào từ có trở
thành không được. Vì vậy thực chất của đám mây là không sinh cũng
không diệt. Thấy được cái đó, không phải trên bình diện lý thuyết,
mà thấy được trong thực chứng của mình thì gọi là Vô sinh. Vô sinh
có nghĩa là Vô diệt. Thấy được Vô sinh, Vô diệt của vạn pháp, của bản
thân mình thì không sợ hãi nữa.
Đợt sóng đi lên, rồi đi xuống, giống như đợt sóng nó sinh ra, trưởng
thành, già đi và nó chết. Đợt sóng có đó hay không có đó? Kỳ thực đợt
sóng luôn luôn là nước. Đợt sóng nó lên cũng là nước, đợt sóng nó xuống
cũng là nước, đợt sóng nó có cũng là nước, đợt sóng nó không cũng là
nước và khi tiếp xúc được tự tánh của mình là nước rồi thì mình
không sợ lên, sợ xuống, sợ có, sợ không nữa, cái đó gọi là vô sinh.
Khi mà đạt tới vô sinh là thoát khỏi sinh tử, sống chết. Sống chết
không làm mình sợ hãi. Đó là quan hệ cao nhất trong đạo Phật. Cái đó
là Vô úy, tức là thành một vị Bồ tát, mình không sợ sống, sợ chết nữa.
Sống chết là dáng ở bên ngoài, bên trong nó không có sống, không có
chết. Cũng như lên xuống chỉ là đợt sóng, chớ lên cũng là nước,
xuống cũng là nước. Nó không có có, có không; nó không có cao, có thấp
thì cái đó là Vô sinh. Và trong tăng thân có những người như vậy. Có
những người đạt tới quả vị An Trú thì không thấp thỏm nữa. Có người
đạt tới quả vị Đã Về Đã Tới thì
không
đi đâu nữa, có chi để làm, mà không đi cũng tới.
Không đi tìm nữa thì đó là con người Vô Sự, nothing to do nowhere to
go là quả vị của Người Vô Sự như tổ Lâm Tế đã nói.
Đã Về Đã Tới, con người nào đã chứng được quả vị Đã Về Đã Tới thì rất
là thảnh thơi, không có nôn nao, không có háo hức đi tìm cái gì nữa.
Đã về rồi, Đã Tới rồi và cái về của mình cũng thanh thản, không cần
phải gấp gáp. Trịnh Công Sơn nói:
chiều nay còn mưa sao em không lại, nhỡ mai trong cơn đau vùi, làm
sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau…
Đi về gấp gấp. Thầy thì nói:
bước
chân con hãy về thanh thản.
Con về, nhưng mà con cứ thanh thản về, mỗi bước chân là Đã Về Đã Tới
rồi, thành ra con đâu cần phải hấp tấp về mau như Trịnh Công Sơn,
con cứ đi từng bước như vậy là thầy bằng lòng rồi. Mỗi hơi thở, mỗi
bước chân là Đã Về Đã Tới. Thành ra câu thơ của thầy là:
Bước
chân con hãy về thanh thản.
Mỗi bước chân là đã về rồi chớ không cần phải hấp tấp. Muốn so sánh
nhạc Trịnh Công Sơn với thơ Nhất Hạnh thì so sánh bước đi.
Bước chân con hãy về thanh thản, con đâu cần gấp vì mỗi bước chân là
con về rồi, là mỗi bước chân là con tới rồi.
Dặn
dò.
Trong mùa An Cư Kiết Hạ này, Thầy đề nghị đọc hai cuốn sách trong ba
tháng và phải đọc như là đọc kinh, dầu đây không phải là kinh (đừng
đọc nhiều, đọc chừng hai cuốn là đủ rồi). Cuốn thứ nhất là Người Việt
Tính chất, Thói Hư và Tật xấu của nhà xuất bản báo Thanh Niên Tiền
Phong. Đây là cuốn sách của nhiều tác giả viết. Báo Tiền Phong lập
ra một diễn đàn để người ta viết những bài nói về thói hư tật xấu của
người Việt Nam như ăn gian nói láo,… Tuy rằng người Việt Nam có những
tánh tốt như cần cù, hy sinh vì đại nghĩa, tảo tần lo chồng, lo con,
thông minh. Có những cái hay thiệt nhưng cũng có rất nhiều tật xấu
như xả rác ngoài đường tùm lum hết,...
Ở tu viện Lộc Uyển các thầy viết một câu như thế này:
Xin nhớ
rằng chúng ta đang ở trong khuôn viên một tu viện
và câu:
Nên nhớ
rằng chúng ta đang ở trong ngôi trường của một tu viện.
Trong khuôn viên tu viện mình biết mình nên làm cái gì, không nên
làm gì. Dưới suối và trên này đều có câu đó để cho biết rằng họ đang
ở trong một tu viện và những điều không nên làm trong tu viện.
Những thói hư tật xấu của cả một dân tộc, phải chuyển hóa, phải quét
sạch, trước hết là ngay trong thân tâm của mình. Tuy là cuốn sách chớ
không phải cuốn kinh, nhưng kỳ thật là nói về đệ nhất Đế :
Khổ Đế
và đệ
nhị Đế:
Tập Đế. Đây là kinh Soi Gương, cả một dân tộc nên soi gương để
thấy những lọ nghẹ trên mặt mà tìm cách rửa cho nó sạch. Phải đọc
như đọc kinh mới được và mình có thể thêm thắt những cái thấy của
mình vào. Hiện giờ chỉ có một cuốn thôi, nếu cùng đọc qua thì sợ trễ
quá thành ra tôi đề nghị mình photocopie ra từng chương, rồi chia
cho mỗi phòng để các thầy, các sư cô, các sư chú cùng nhau đọc và
làm sao trong mùa hè đọc hết cuốn này. Và mình phải thấy đó là gia
tài để lại và tìm cách quét dọn cho nó sạch sẽ, đẹp đẽ? Ngày xưa
Trung quốc cũng dơ, cũng xả rác, cũng vô trách nhiệm như mình vậy,
nhưng bây giờ thành phố của họ rất là đẹp, rất là sạch. Thành ra các
vị giáo thọ sẽ chăm sóc như thế nào để chúng ta cùng đọc cuốn này
như đọc cuốn kinh. Ngày hôm qua chúng ta học: Tất cả các pháp thế
gian đều là phật pháp.
Bây giờ đem ra áp dụng.
Cuốn sách thứ hai mà quí vị có thể đọc trong mùa an cư này là Nẻo Về
Của Ý. Trong Nẻo Về Của Ý này kể lại câu chuyện tôi thành lập một tu
viện trong rừng Đại Lão ở tại Bảo Lộc vào khoảng năm 1954-1955 gì
đó, hồi đó phần lớn quí vị chưa sanh ra. Quá trình lập Phương Bối Am
như thế nào đều được viết trong này, rất là vui. Cuốn sách này được
dịch ra nhiều thứ tiếng, được phát hành rộng rãi trên thế giới và là
tác phẩm văn học chớ không phải là tôn giáo.
Phương Bối là cái nôi tinh thần, nôi tâm linh cho dòng tu Tiếp Hiện
và trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Đạo Phật Dấn Thân, Đạo Phật Nhập
Thế đều phát xuất từ cái nôi Phương Bối. Hiện bây giờ trên thế giới
người nào cũng biết: đạo Phật Nhập Thế, Con Đường Thanh Niên Phụng Sự
Xã Hội, Dòng Tu Tiếp Hiện mà họ đang thực tập có nguồn gốc từ Việt
Nam. Cái nguồn gốc đó ngày xưa nằm trên Bảo Lộc, cách đây chừng mười
mấy cây số. Hôm nào đó, các thầy các sư cô tổ chức du ngoạn để quí vị
nên thăm lại Phương Bối Am.
Ngày xưa
thầy Thanh Từ có một cái thất ở đó gọi là Thiền Duyệt Thất
và tôi đã làm bài thơ tặng Thiền Duyệt Thất trước khi đi Hoa Kỳ.
Gối nhẹ
mây đầu núi
Nghe gió thoảng hương trà
Thiền duyệt tâm bất động
Rừng cây dâng hương hoa
Những chữ trong đó đã dùng đặt tên cho những thiền đường của tu
viện.
Mây đầu núi, tâm bất động, thiền duyệt
thành ra mình đều phát xuất từ nguồn đó. Mình nên làm cuộc hành
hương lên đó, cách đây chừng mấy cây số thôi và hiện bây giờ đây cái
bể nước mà tôi xây để chứa nước mưa và có những cây tôi trồng cách
đây năm chục năm vẫn còn đó. Quí vị có thể tới sờ mó và thở không
khí đó.
Ngày mồng chín tháng sáu này, sau lễ xuất gia của cây Ngô Đồng,
chúng ta sẽ đi thăm Hòa thượng Thanh Từ. Hòa thượng Thanh Từ cũng
xướng xuất một dòng thiền đi song song với dòng thiền Làng Mai.
Chúng ta có liên hệ rất là tốt với Hòa thượng và sẽ báo tin cho Hòa
thượng biết là mình đã viết thơ cho Thủ tướng chính phủ, yêu cầu Thủ
tướng chính phủ cấp lại đất cho mình (chớ đất đó bị lấy hết trơn,
bây giờ không còn gì hết), tái lập lại Phương Bối để khi các thiền
sinh ngoại quốc về Việt nam, họ tìm về được cái gốc của họ. Phó Thủ
tướng nói:
chuyện này có thể được.
Sau này tại Phương Bối - Bảo Lộc mình có quần thể gọi là Phương Bối
- Bát Nhã. Mình xây dựng Phương Bối thì Phương Bối sẽ trở thành Nội
viện của Bát Nhã. Theo ý tôi, mình nên xây dựng rất đơn sơ, tại vì
Phương Bối ngày xưa đẹp mà rất đơn sơ. Mình sẽ tổ chức để không có
du khách, chỉ có những người xuất gia tới để tu với mình thôi. Và
khi cần tổ chức những khóa tu lớn ba ngàn, năm ngàn người đều làm
trên Bát Nhã. Còn Phương Bối là Nội Viện của giới xuất gia và chỉ có
sự thăm viếng, thực tập của một số rất ít người tại gia thôi. Vì vậy
quí vị nên đọc cuốn Nẻo Về Của Ý, cuốn này rất dễ đọc, đọc như đọc
tiểu thuyết, rất là hay. Thầy hoàn tất cuốn này vào ngày 11 tháng 5
năm 1966, lúc đó quí vị còn chưa sanh ra. Cuốn này ở đây có nhiều lắm
nên mình không phải photocopie ra nữa, phát cho mỗi phòng một vài cuốn.
☺☺☺
Xem tiếp >> |