PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Bốn phép tuỳ niệm
(tiếp theo bài :
Địa hành thần thông)

  • Tháng 10.2008 - Tâm Thiện Diệu & Tâm Thiện Ngộ phiên tả & biên tập :
    Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 31.05.2008
    tại tu viện Bát Nhã - Bảo Lộc (Lâm Đồng)
    [Chân Minh hiệu đính và cập nhựt 12.10.2008]
     

Kính thưa đại chúng.
Hôm nay là ngày 31 tháng 05 năm 2008 Dương lịch, chúng ta đang ở Thiền đường Cánh đại bàng thuộc Tu viện Bát Nhã, Bảo lộc, Lâm đồng.

Hôm qua chúng ta có nói đến Niệm như là một năng lượng làm cho mình có mặt trong giây phút hiện tại. Đối tượng của niệm có thể là hơi thở, bởi vì niệm bao giờ cũng là niệm một cái gì, khi chú ý đến hơi thở thì đó là niệm hơi thở. Khi chú ý đến bước chân thì đó là niệm bưóc chân. Khi chú ý đến hình hài của mình là niệm thân. Khi chú ý đến cảm thọ của mình thì gọi đó là niệm thọ. Khi chú ý đến tâm của mình thì gọi đó là niệm tâm. Khi chú ý đến các pháp thì gọi đó là niệm pháp.

Những đối tượng của niệm có thể đem lại hạnh phúc cho mình. Nhưng nếu mình niệm những cái không lành mạnh, không dễ thương, nhớ nghĩ nó và đem về trong giây phút hiện tại, thì mình sẽ đau khổ, đó gọi là: Tà niệm. Còn nhớ nghĩ và đem về trong giây phút hiện tại, những cái hạnh phúc giải thoát, thì đó là: Chánh niệm. Trong chánh niệm có 4 loại có thể thực tập hàng ngày, gọi là Bốn phép tùy niệm. Tùy niệm có nghĩa là tùy thân, những cái đi theo thân mình suốt ngày. Và nếu những cái đó đi theo mình suốt ngày thì mình có hạnh phúc. Bốn loại tùy niệm là: Niệm Phật - Niệm Pháp - Niệm Tăng - Niệm Giới. Quý vị nào đã học thuộc bài Bốn Phép Tuỳ Niệm rồi thì có thể đem ra thực tập.


Thầy trò, ông cháu bên nhau (h. Hồng Phượng: Hè 2007,  Xóm Trung, Làng Mai)
 

1) Niệm Phật

Tự thân của đức Như Lai, Người từ chân như tới, Thầy của chúng con, là bậc xứng đáng nhất để được cúng dường, đó là niện Phật. Trong bài niệm Phật nầy, mình kể ra mười đức của Như-Lai là: Như-Lai, Ứng-Cúng, Chánh-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-thượng-Sĩ, Điều-ngự, Trượng-phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật, Thế-Tôn. Khi dịch ra tiếng Việt thì rất dễ hiểu.

Mỗi người trong chúng ta có một cái thấy, một quan niệm về Phật khác nhau. Có một môn học chuyên học về Phật đó là Phật Thân Quán. Có nhiều người tưởng Phật là một ông thần, một đấng tạo hóa đó là một quan niệm về Phật của người đời.

Phật Thân Quán: Phật là ai? Từ đâu đến? Bây giờ đi đâu rồi? Làm sao tiếp xúc được với Phật? Những thứ nầy thuộc về Phật Thân Quán. Chúng ta là những người tu tập theo pháp môn của Phật. Trước hết chúng ta xem Phật là một vị Thầy tu, Bổn sư. (Nam mô đức Bổn sư). Điều nầy rất đúng, vì là một vị Thầy dạy cho các loài Người và Trời (Thiên-Nhơn-Sư, là một trong 10 danh hiệu của đức Phật).

Có nhiều người cho Phật là một ông Trời sáng tạo ra vũ trụ, ở trên mây nên mình chỉ có hướng về lạy. Nếu mình cầu xin thì Phật sẽ ban phước lành cho mình. Khi mình cầu xin vị Phật trên cao ban phước lành thì Phật không còn là một vị Thầy nữa, chỉ là một vị Thần linh mới có quyền ban phước, che chở tai họa cho mình.

Thật sự Thầy là một người chỉ đường cho mình đi, cho mình làm để diệt trừ những khổ đau và đem lại hạnh phúc. Vì thế Phật là một vị Thầy quan trọng nhất. Mình có thể nghĩ về Phật một cách khoa học. Một người được sinh ra trên trái đất nầy vào khoảng 2.600 năm về trước, từ một dòng họ gọi là Thích Ca (Sakya). Là một người con trai đã lớn, đã lập gia đình và có một đứa con. Sau đó không thỏa mãn với đời sống vương giả, vì thấy con đường làm vua không giúp được gì cho mọi người, nên đi tìm con đường khác, một con đường hướng về tâm linh. Sau đó đạt đến sự hiểu biết và thương yêu lớn gọi là đại-từ, đại-bi, rồi trở thành một vị Thầy đi dạy trong 45 năm. Trong số học trò của Ngài có những vị vua, những vị đại thần, những danh nhân, những công nhân đến những người đổ phân đổ rác. Học trò của Ngài đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Sau đó Ngài nhập diệt khi Ngài 80 tuổi.

Đó là đức Phật về lịch sử. Chúng ta có nhiều tư liệu để tìm hiểu về cuộc đời của Ngài. Những gì Ngài nói, làm đều được ghi chép lại rất là khoa học, là lịch sử có chứng cớ rõ ràng, không phải thần linh. Trước hết Phật là một con người, một con người có sinh ra và có chết đi, đó là quan niệm rất quan trọng.

Một câu hỏi được đặt lại là sau khi đức Phật chết rồi có còn gì nữa hay không? Hoặc chết là hết? Ngay trong thời gian đức Phật còn sống, có một nhà triết học ngoại đạo tới hỏi vị đệ tử tên là A Na Luật Đà: Bạch thầy, xin thầy cho tôi biết : một là, sau khi Phật chết rồi, Phật vẫn còn? hai là, sau khi chết đức Phật không còn? ba là, vừa còn vừa không còn? bốn là, vừa không còn vừa không không còn? Xin thầy nói cho rõ. Nhà triết học ngoại đạo đó đã buộc ngài A Na Luật Đà phải nói cho dứt khoát. Từ thời đó đã có rắc rối rồi. Đây là lối suy tư của Ấn Độ thời đó, cái gì cũng nằm trong bốn mệnh đề đó, gọi là tứ cú.

Thầy (A Na Luật Đà) trả lời rằng: Đức Thế Tôn chưa bao giờ giảng dạy hay nhìn sự vật qua bốn mệnh đề đó. Thầy A Na Luật Đà từ chối không chọn một trong bốn mệnh đề để nói. Khi ấy các nhà ngoại đạo nghĩ rằng ngài A Na Luật Đà chắc là mới tu chưa biết triết lý sâu xa, hoặc là ông nầy thiếu thông minh nên không nói tiếp. Thầy A Na Luật Đà vừa đi vừa suy nghĩ rằng nếu lần sau họ có hỏi thì trả lời sao cho hay hơn và đúng với ý của Phật, chi bằng đến gặp Phật và hỏi thẳng. Và Thầy đến gặp Phật và kể lại chuyện. (Nếu muốn biết Phật trả lời như thế nào thì xin xem Thiền môn Nhật tụng 2000)

Trong Sám Pháp Địa Xúc là một pháp sám rất đặc biệt của Làng Mai, và chùa Bát Nhã cũng có thực tập. Bài sám đầu tiên là tiếp xúc với Phật như một con người lịch sử cách đây 2.600 năm và tiếp xúc với Phật bây giờ. Vì theo giáo lý của đức Thế Tôn thì: Không có cái gì mà có thể trở thành không; và cũng không có cái gì không trở thành được. Bởi vì đức Thế Tôn đang tiếp tục dưới một dạng, một hình thức nào đó và mình phải tìm cho ra được để tiếp xúc với đức Thế Tôn ngay bây giờ và ở đây. Thì bài đầu của Sám Pháp Địa Xúc là liên hệ, tiếp xúc được với đức Thế Tôn. Dưới hình thức mới của Ngài, bởi vì Ngài chưa bao giờ từng mà trở thành không được. Ngài đang có và có dưới một cái dạng nào, mình phải tiếp xúc cho được.  

Cũng như đám mây trên trời, hôm qua thấy đó mà nay không còn nữa, vậy thì đám mây còn hay không còn? Khi rót trà trong niệm thì thấy rằng đám mây đang có trong trà, tuy khi ấy đám mây không còn là đám mây nữa, nhưng không có nghĩa là nó đã mất, đám mây trở thành nước trà, nhìn vào trong trà thì thấy đám mây và khi uống trà trong niệm thì thấy mình đang uống mây. Đây không phải lần đầu mình uống mây mà mình đã uống mây cả đời, trong người mình có hơn 70% là mây. Mây tức là nước, vì vậy mây ở trên trời và mây cũng đang ở trong mình. Khoa học nói rằng có một hợp chất hóa học gọi là H2O. Và cái thứ đó khi thì biểu hiện thành mây, khi thành sương, khi thành mưa, khi thành nước đá hay tuyết. Vì vậy khi mình không thấy mây nữa thì đừng nói rằng không có mây, mà nó đang biểu hiện ở một dạng khác.

Vậy thì đức Thế Tôn đã có mặt trong mình như một con người lịch sử, và đức Thế Tôn vẫn tiếp tục dưới một cái dạng khác. Và bây giờ đức Thế Tôn dưới hình thức một vị Thầy của 2.600 năm về trước. Mình niệm được như vậy thì mình đã thành công.

Ngày xưa Ngài thể hiện là một người đàn ông nhưng tất cả đều vô thường. Và ngày nay Ngài có dạng dưới một hình thức khác mà mình phải tiếp xúc cho được. Thì đó là bài tập đầu trong Sám Pháp Địa Xúc. Hãy tìm đọc và khi lạy xuống mà mình tiếp xúc được với đức Thế Tôn, thì rất hạnh phúc và an vui, vì mình đã có đức Thế Tôn trong giây phút hiện tại và mình sẽ có cảm tưởng rằng mình không còn cô độc nữa, mình đã được bảo hộ và che chở.

Đó gọi là niệm Phật, một trong  bốn pháp Tùy niệm. (tiếng Phạn là Ano Smrti). Đem Phật vô trong giây phút hiện tại để mình sống với Phật. Có nhiều cách niệm Phật ví dụ lấy cuốn Đường Xưa Mây Trắng ra đọc, đó cũng là niệm Phật. Vì cuốn sách đó giúp mình có cảm tưởng rằng mình đang sống, tiếp xúc với Phật của 2.600 năm về trước. Vì vậy đọc Đường Xưa Mây Trắng là một hình thái niệm Phật. Và đọc cho cha mẹ nghe, như vậy là cha, mẹ, con đang niệm Phật. Nếu Đường Xưa Mây Trắng được dựng thành phim thì mình mời cha mẹ đi xem, cũng là niệm Phật. Bởi vì Phật đang có mặt trong giây phút hiện tại, là như vậy. Mình nên tiếp xúc cho được với bản chất, chứ không phải danh hiệu của Phật. Niệm danh hiệu cũng hay, nhưng làm sao mình phải đi vào được trong nội dung của Phật.

Sám Pháp Địa Xúc là tác phẩm tôi viết vào khóa an cư kiết đông ở Làng Mai. Mình có cảm tưởng rằng khi viết cuốn sám nầy mình đang tiếp xúc với đức Thế Tôn, hai thầy trò đang thủ thỉ với nhau rất thân mật. Sám Pháp Địa Xúc rất hay, không phải mình là tác giả rồi mình tự khen, hay tự kết tội và tha tội. Vì trong đó là một cuộc tâm tình của mình với đức Thế Tôn. Mình nói lên những điều vụng về dại dột của mình, và hứa với đức Thế Tôn là về sau không làm nữa. Vì vậy khi Sám Pháp Địa Xúc được dịch sang tiêng Anh thì những nhà xuất bản đặt tên là:  Intimate Conversations with the Buddha tức là: Nói chuyện tâm tình với đức Thế Tôn. Nói chừng một trang thì mình lạy xuống, rồi tiếp tục. Nên khi đọc xong cuốn Sám Pháp Địa Xúc, mình có thể trở thành một con người mới. Rất hữu hiệu, mình sẽ thay hình đổi dạng và khỏe hơn.

Buổi sáng khi mình ngồi thiền xong thì nên đứng dậy thực tập Sám Pháp Địa Xúc trước khi ngồi xuống tụng kinh. Chỉ cần thực tập một chương thôi cũng đủ, đọc khoảng 3 phút, mình nói chuyện tâm tình với Phật, hứa và lạy xuống ba lạy. Ba lạy cho thật lâu, mỗi lạy ít nhất là 3 hơi thở. Trong khi năm vóc sát đất thì mình hứa hẹn với Ngài rằng mình sẽ làm đúng theo những lởi mình đã hứa.

Bài tùy niệm đầu tiên là niệm Phật, theo truyền thống thì muốn tiếp xúc với Phật thì nên tiếp xúc với mười danh hiệu của Ngài. Mười đặc sắc của một vị Phật. Chữ Phật (Bụt) có nghĩa là thức dậy, là tỉnh dậy, là biết không còn mê ngủ nữa và biết những gì đang xẩy ra. Buddha là người tỉnh thức, hiểu biết. Còn Tổ Lâm Tế gọi là Người Vô Sự. Đạo dạy tỉnh thức là Buddhism, gốc của nó là chữ Bụt. Ngoài Trung Quốc và Việt Nam ra, tất cả các nước khác đều gọi là Bụt như Nhật, Lào, Tích Lan v.v... Chỉ có người Việt mình vào thế kỷ 13 trở đi thì gọi Bụt là Phật thôi, vì ảnh hưởng Trung Quốc. Thật ra trước đó mình cũng gọi là Bụt như các nước khác. Ngay cái đời vua Trần Nhân Tông vẫn gọi Buddha là Bụt. Vì vậy bây giờ mình gọi Bụt trở lại cũng không có gì là mới, đó là trở về với gốc cũ mà thôi. Mình có thể định nghĩa Bụt là một con người có chất liệu của Niệm, Định và Tuệ. Đây là ba loại năng lượng mà người tu cần phải chế tác. Khi ba loại năng lượng đó hùng hậu trong con người của mình, thì gọi đó là Bụt. Nơi đức Thế Tôn thì ba loại nầy đi tới một mức độ rất hùng hậu. Còn nơi chúng ta cũng có nhưng có rất ít (Niệm-Định- Tuệ).

Hôm qua mình đã bắt đầu về Niệm. Đây là năng lượng giúp mình tiếp xúc được với hiện tại, biết cái gì đang xẩy ra trong lãnh vực: thân, cảm thọ, tâm và các hiện tượng, đối tượng của tri giác chính mình. Khi lực lượng Niệm hùng hậu thì bắt đầu có Định. Ví dụ như mình đem tâm chú ý tới một bông hoa thì gọi là niệm hoa. Biết rằng bông hoa đang có mặt. Nếu cái niệm đó được duy trì thì mình có định. Định có nghĩa là chỉ chú tâm vào một cái, khi sự chú tâm đó hùng hậu rồi thì mình có định. Năng lượng của niệm sẽ chuyên chở năng lượng của định. Hai năng lượng nhưng cùng một bản chất, duy trì niệm cho lâu dài thì định phát sinh. Khi có định rồi thì mình có thể nhìn sâu vô được và có thể chọc thủng được bức màn của vô minh. Và mình sẽ thấy đuợc sự thật. Ví dụ khi làm toán mình để ý và chú tâm vào bài toán, khi sự chú tâm vững rồi thì mình tìm được đáp số của bài toán. Tìm ra đáp số là tuệ. Vì vậy khi định hùng hậu rồi thì tuệ phát sinh từ trong định. Trong niệm có định, trong định có tuệ. Khi mà tuệ lớn thì sinh ra tình thương lớn. Đại trí sinh ra đại bi. Bụt là người có đại trí và đại bi (hiểu biết lớn, đưa đến sự thương yêu lớn. Không hiểu thì không thương). Bụt là con người có ba loại đó: Niệm, Định và Tuệ. (Smrti - Samadhi - Prajna).

Người tu phải mỗi ngày chế tác ba cái năng lượng nầy. Hể một người có đủ ba năng lượng nầy thì người đó là Bụt. Vì Niệm, Định và Tuệ là chất thánh mà mình có thể chế tác được. Còn những cái tham, sân, si, buồn khổ đó là chất phàm. Mình có chất phàm, nhưng mình cũng có chất thánh, nếu mình đi từng bước chân có chánh niệm, có định, có an lạc hạnh phúc là mình đang chế tác chất thánh trong mình. Đừng mặc cảm, chất thánh và chất phàm nương vào nhau mà có. Cũng như bùn với sen, sen phải có bùn mới mọc lên được. Từ phàm đi tới thánh, từ sự quên lãng, đam mê lo lắng mình sẽ đi đến Niệm, Định và Tuệ, Từ Bi đó là hướng về chất thánh, hướng thượng. Người tu là phải cố gắng đi lên, cố gắng chế tác chất thánh cũng như dùng rác để trồng rau. Chất phàm sẽ giúp ta chế tác chất thánh (rác ủ thành phân để bón rau).

Chúng ta thuộc về thiền phái Lâm Tế. Tổ Lâm Tế sống ở đời Đường và đã có hơn 40 thế hệ. Thầy là thế hệ thứ 42. Tổ Lâm Tế có một quan niệm về Bụt rất rõ ràng (Phật Thân Quán rõ ràng). Phật là con người, ngoài con người không thể tìm ra Phật. Nếu muốn tìm và thấy Phật thì phải tìm nơi con người. Cho nên có giáo lý gọi là: Phật sinh-bất nhị. Phật và con người không phải là hai thực thể riêng biệt (Phật và chúng sinh không phải là hai). Điều kiện căn bản để thành Phật là con người. Khi thành Phật rồi thì mình vẫn là con người, một con người có chất thánh. Đó là quan niệm về Phật rất khoa học, không mê tín. Khi đi được những bưóc chân có Niệm - Định - Tuệ, có an lạc thảnh thơi thì biết rằng trong con người của mình có chất Phật. Và mình đang tiếp nối đức Thích Ca, với Thầy mình, với đức Bổn Sư. Phần tiếp xúc với Bụt không phải là chuyện khó. Một tăng đoàn đang thực tập có hạnh phúc tức là có Bụt ở trong. Còn một tăng đoàn không có Niệm - Định - Tuệ có thể chỉ là hình thức mà không có nội dung. Một tăng đoàn mà trong đó có những người biết thực tập Niệm - Định - Tuệ thì trong Tăng có Phật, có Pháp. Tam bảo là ba viên ngọc quý, và ba viên ngọc đó không hề tách rời nhau. Trong một cái có hai thứ kia, Phật luôn phải có Tăng, khi thành Phật thì phải xây dựng Tăng thân, Tăng thân rất quan trọng. Tăng thân là nơi nương tựa của con người để người ta tới tu. Thành ra nếu ai thành Phật thì phải xây dựng Tăng thân. Cho nên khi Bụt giác ngộ dưới cội Bồ đề thì Bụt đi xây dựng yếu tố đầu tiên là Tăng thân. Tức là năm người bạn tu khổ hạnh ngày xưa: Kiều Trần Như, Ca Diếp, A Nan…

Hể có Phật là có Tăng, Phật luôn muốn xây dựng Tăng để mọi người được nương tựa, và nếu có Tăng là có sự thực tập, mà sự thực tập đó là Pháp. Vì vậy trong chân Tăng có chân Phật và chân Pháp. Một đoàn thể tu học mà không giữ giới, không uy nghi, không chánh niệm thì không phải là chân Tăng.  Tuy bề ngoài là Tăng nhưng không gọi là Chân Tăng (True Sanga). Muốn biết đoàn thể là chân tăng hay không chỉ cần nhìn thấy họ có chánh niệm, chánh định và từ bi hay không? Mặc dù có ít, nhưng ít ra cũng có. Có biết giải quyết vấn đề bằng trí tuệ hay không? Hay là chỉ biết giải quyết theo sự buôn vui của mình. Khi thấy đoàn thể đó có chánh niệm trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, có định lực, có năng lượng tập trung thì chúng ta biết rằng đoàn thể đó có: Niệm - Định và người ta sẽ phát khởi niềm tin liền. Tăng đoàn là chân Tăng chỉ khi họ có niệm và định, còn nếu không thì không phải là chân Tăng. Chân Tăng tức là có Phật, vì vậy trong Tăng có Phật và có Pháp. Pháp ở đây không phải chỉ là các bài pháp, các quyển kinh. Mà pháp đây là sự linh động. Khi ngồi với niệm và định, tuy không nói gì nhưng kỳ thực đó là pháp. Nhìn vào, người ta sẽ thấy kính phục và quy y liền. Có niệm, định thì sức mạnh tinh thần sẽ tỏa ra, đó là Pháp. Pháp sinh động không phải pháp nói và pháp viết, mà là pháp sống. Chỉ cần nhìn một người có an lạc, thảnh thơi có niệm và có định thì đây là một bài pháp rồi. Đây mới thực sự là một bài pháp, một bài thuyết pháp không lời. Pháp đó mới thật là pháp sinh động. Nói năng có chánh niệm, có từ bi, hay làm việc trong chánh niệm, thì đó là một bài thuyết pháp rồi.


2) Niệm Pháp

Bây giờ sang niệm Pháp: Diệu pháp của đức Thế Tôn là thiện thuyết, có nghĩa là pháp được diễn bày một cách khéo léo. Nếu trình bày một cách vụng về thì không phải là giáo pháp, vì người ta không thể tiếp nhận được, bởi vì họ không hiểu. Cũng một giáo pháp đó mà nói với trẻ em thì phải nói khác; nói với những doanh thương thì phải nói khác; với những người khoa học thì phải nói một cách khác. Có nghĩa là phải trình bày giáo pháp cho có khế cơ, tức là phải thích hợp với tâm lý, hoàn cảnh và khả nang tiếp nhận của từng thành phần. Thì đó là pháp thiện thuyết. Thiện thuyết là phương pháp trình bày một cách khéo léo và thông minh để thích hợp với mọi người. Nếu người nghe không tiếp nhận được thì mình thất bại. Thành ra pháp không thể cố định. Ngôn ngữ và cách trình bày phải khéo léo, thích hợp với người nghe.

Giáo pháp của đức Thế Tôn là hiện thân thọ chứng. Hiện thân là với kiếp nầy, sinh mạng nầy trong giây phút hiện tại, mình có thể tiếp nhận và kinh nghiệm. (Thọ là tiếp nhận, chứng là trải qua là kinh nghiệm. Không cần kiếp sau, thân khác mà là ngay kiếp nầy, ngay cái thân mệnh nầy). Không cần giải thích mà là trực tiếp kinh nghiệm.

Giáo pháp của đức Thế Tôn là: xa lìa nhiệt náo. Là những cơn sốt do sự giận hờn, tuyệt vọng, bức xúc gây ra. Mình đang có những cơn giận, tuyệt vọng bức xúc, tham đắm, say mê, thèm khát đó là những cơn sốt đốt cháy. Giáo pháp của đức Thế Tôn sẽ dập tắt ngọn lửa của những cơn sốt đó.

Trình bày giáo lý, giáo pháp như thế nào để có thể dẹp được những cơn giận, thèm khát, tuyệt vọng của người nghe. Khi họ đang trong cơn sốt mà mình đem được giáo pháp của đức Thế Tôn rưới lên, để làm dịu lại tâm hồn của người nghe. Đây là công năng của pháp ngay trong giây phút hiện tại.

Giáo pháp của đức Thế Tôn còn vượt thoát thời gian, tiếng Hán-Việt là bất quán thời nhật. Có nghĩa là không tinh đến thời gian, nó có hiệu năng ngay lập tức.  Nếu đem áp dụng vô thì nó có hiệu quả tức thời, không cần đợi đến 5-7 năm. Cũng như phương pháp thở của mình khi thực tập thiền đi, nếu chúng ta thực tập đúng thì sẽ làm dịu lại cái tâm mình ngay lập tức. Nếu mình nắm được pháp môn rồi thì chỉ cần bước một bước là cảm thấy vững chải, thảnh thơi và an lạc liền, và trạng thái đi như bị ma đuổi sẽ chấm dứt liền. Giáo pháp của đức Thế Tôn có hiệu năng tức thời, miễn là mình biết phương pháp áp dụng thì sẽ thấy có sự thư giản liền. Cần phải nắm cho vững, áp dụng cho khéo là được. Khi nghe tiếng chuông, chấm dứt suy nghĩ và nói năng, trở về với hơi thở thì sẽ thay đổi liền.

Giáo pháp của đức Thế Tôn là đến để mà thấy có nghĩa là khi nghe không kể lại được. Mình phải tiếp xúc trực tiếp mới cảm nhận được sự vi diệu. Nhờ người nói lại cũng không thành công.

Giáo pháp của đức Thế Tôn có khả năng dẫn đạo đi lên, có nghĩa là có khả năng hướng thượng, đưa mình đi lên, như máy bay đưa mình đi lên bỏ lại sau lưng những hệ lụy, buồn khổ, những ràng buộc, phiền nảo.

Nếu đó đích thực là chân pháp thì có khả năng dẫn đạo đi lên, chứ không đưa mình đi vòng quanh. Mà giáo pháp của đức Thế Tôn là phải tự mình thông hiểu, chứ người khác không giúp mình được.

Trong bài tùy niệm: Diệu Pháp của đức Thế Tôn, con đường mà chúng con nguyện đi theo là giáo pháp đã được nhiệm mầu tuyên thuyết; có nghĩa là thiện thuyết. Là giáo pháp có thể chứng niệm được ngay trong giờ phút hiện tại hiện thân thọ chứng. Là giáo pháp có giá trị vượt thoát thời gian. Là giáo pháp mà mọi người có thể đến và tự thấy. Là giáo pháp có công năng dẫn đạo đi lên. Là giáo pháp có công năng dập tắt phiền não, xa lìa khổ não; là giáo pháp mà người trí nào cũng có thể tự mình thông đạt. Chúng ta có tâm phán xét, có trí tuệ, ai cũng có thể tự mình thông đạt và niệm pháp như vậy là một tuỳ niệm. Niệm Phật là một tuỳ niệm. Có Phật có Pháp trong từng giậy phút của cuộc đời là mình có hạnh phúc.


Thứ ba là: Tuỳ niệm Tăng.

Tăng là một đoàn thể cùng tu học. Trong đó có các thầy, các sư cô, các vị cư sĩ tu hành và giữ giới đàng hoàng. Biết thở biết nhận diện những cái buồn bực để chuyển hóa hóa. Biết nói lời ái ngữ và lắng nghe với tất cả tấm lòng từ bi, đó là Tăng. Không ai mà không cần đến Tăng, dù một người tu lâu như Thầy đã hơn 60 năm rồi, mà vẫn cần đến Tăng. Quy y Tăng thì mình đuợc che chở bảo hộ và cái năng lượng của Tăng sẽ giúp đỡ mình. Vì vậy phải trở về với Tăng. Và người Phật tử muốn đi theo con đường giải thoát và giác ngộ, thì nên trở về nương tựa với Tăng. Chúng con nguyện một lòng trở về với Tăng Thân, xin quy y Tăng già da.

Nếu mình có buồn Sư Ông, giận Sư chị, Sư em thì chỉ đi vài ba ngày thôi rồi phải niệm Tăng và trở về với Tăng Thân.


Thứ tư là: Tuỳ niệm Giới.

Niệm giới rất là hạnh phúc, bởi vì giới sẽ bảo hộ cho mình… Ngày mai sẽ học tiếp…
☺☺☺

 Xem tiếp>>

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.