PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 Nghệ thuật sống thiền :


Doanh nhân và đất mẹ (2)

Thở vào, tôi theo dõi hơi thở vào từ đầu cho tới cuối.

Thở ra, tôi theo dõi hơi thở ra từ đầu cho tới cuối.

 

Kính thưa quí vị,

Hôm nay là ngày 25 tháng 5 năm 2008.

Chúng ta đang ở tại Palm Garden, trong ngày sinh hoạt Doanh nhân và đất mẹ.

 

Đầu tư  vào mảnh vườn gia đình

Hôm nay tôi muốn nói về vấn đề đầu tư. Đầu tư không là vấn đề riêng của doanh nhân mà là của tất cả chúng ta. Chúng ta phải biết đầu tư vào bản thân, vì bản thân là gốc, nó cần được nuôi dưỡng, và bồi đắp. Đó là đối tượng đầu tư thứ nhất. Chúng ta phải có thì giờ và hoàn cảnh tốt ; phải có phương tiện ; phải có bạn hiền ; phải có thầy giỏi thì mới có thể thành công việc đầu tư vào bản thân của mình. Đó là giải pháp lâu dài.

 

Sau đó chúng ta cần phải đầu tư vào gia đình. Gia đình là mảnh đất, mảnh vườn, mà trên đó chúng ta nuôi lớn lên những cây đẹp. Nếu mảnh vườn khô cằn, thì ta, người bạn hôn phối và những đứa con của chúng ta sẽ gầy ốm, xanh xao. Do đó cho nên phải đầu tư vào mảnh vườn gia đình. Sau đó thì chúng ta mới có thể thành công trong đầu tư của một sự nghiệp, một doanh nghiệp.

 

Có những thực tập rất cụ thể cho những đầu tư như vậy, chúng ta không thể chỉ nói lý thuyết mà thôi. Buổi sáng chẳng hạn, khi ăn sáng, chúng ta có thể đầu tư được. Làm thế nào để mọi người có mặt  chung quanh bàn ăn. Ta, người bạn hôn phối của ta và các con, làm sao tập để mọi người đều ăn sáng chung một lần trước khi các con đi học, trước khi chúng ta đi làm. Cố nhiên là chúng ta có thể ăn sáng bằng thức này thức kia, nhưng tại sao chúng ta không để ra một phút (một phút đâu có nhiều lắm) để nhìn mọi người chung quanh bàn. Để thấy rằng những người thân của chúng ta đang có mặt. Chỉ cần nhìn trong hai giây, hay ba giây với năng lượng của chánh niệm, với sự chú ý, thì ta thấy được người ấy rất rõ. Nếu không thì người đó chỉ là mờ mờ nhân ảnh.

 


Thiền sư và Doanh nhân thiền hành vào buổi sáng. (Photo LĐO)

 

Nếu có tờ báo, chúng ta đừng đưa tờ báo lên che mặt người thương của chúng ta (Ý nói đừng đọc báo trong giờ đó mà bỏ rơi những người thương đang có mặt quanh ta - BTV). Dù tờ báo đó có những tin tức về kinh tế, doanh nghiệp, hay bất cứ một tờ báo nào. Núi cao chi lắm núi ơi / Che khuất mặt trời không thấy người thương. Ở đây không phải núi che mà là tờ báo che. Mình có thì giờ cho nhau. Buổi sáng được ngồi với nhau mà không chịu nhìn nhau, đưa tờ báo lên để che mặt người thương, để cho người thương không thấy được mình. Cho nên, nên dẹp tờ báo đi, nên tắt tivi đi, vì đó là những cái chia rẻ mình với nhau. Lúc khác hãy xem tờ báo đó, lúc khác hãy xem ti vi. Bây giờ ăn sáng với nhau, mình ngồi đó, mình nhìn nhau. Nhìn mỗi người hai giây thôi. Nhìn cho rõ, cho thấy được người đó, mỉm cười với người đó. Có nghĩa là anh biết em còn đó với anh, anh rất là hạnh phúc. Em biết anh còn đó với em, em rất là sung sướng. Mẹ biết con còn ở đó với bố mẹ và mẹ rất hạnh phúc. Tuy không nói, nhưng cái nhìn của mình chứng tỏ như vậy. Có như vậy, mình mới trân quí sự có mặt của nhau.

 

Đó là sự thực tập buổi sáng, chúng ta có dư sức để làm, tại sao chúng ta không làm. Cố nhiên là sau đó mỗi người đi một ngã. Người đi tới chỗ làm việc, người đi đến trường học. Mình chúc nhau mọi người có một ngày đẹp. Chúc con có một ngày đẹp, chúc ba có một ngày làm việc thoải mái.

 

Để có một buổi sáng vui vẻ, trong khi người bạn hôn phối đang chuẩn bị thức ăn sáng, mình xuống để giúp bày bàn. Đó là thời gian thực tập, đầu tư vào hạnh phúc. Mỗi cử chỉ trong thời gian đó, thí dụ nấu nước sôi, pha trà, cà phê, nướng bánh mì, hấp bánh bao… Tất cả những việc đó có thể làm trong chánh niệm với niềm vui. Chúng ta có đủ điều kiện để có hạnh phúc. Ngày xưa khi còn là một chú tiểu, tôi phải rửa bát cho một trăm thầy mà không có nước nóng, không có xà phòng, không có nước chảy trong vòi, chỉ có tro bếp thôi, như vậy mà cũng có hạnh phúc. Mấy chú ngồi với nhau, cảm thấy có mặt bên nhau và rửa bát rất hạnh phúc. Bây giờ chúng ta đứng trước chạn, có nước nóng, có nước lạnh, có xà phòng, có đủ thứ hết, mà làm gấp gáp thì rất là uổng. Thời giờ mình làm thức ăn sáng, có thể là thời giờ rất hạnh phúc. Mình vào bếp để chơi, để giúp cho người kia, sự có mặt của mình nó tạo ra sinh khí: chúng mình cùng có bên nhau. Ngày nay bên nhau chớ không phải ngày ấy bên nhau. Phải trân quí sự có mặt của nhau và cũng tập cho các con làm chuyện đó. Gia đình tíu tít vào buổi sáng. Chúng ta đang đầu tư vào gia đình của chúng ta.

 

Trong những thời gian giảng dạy ở Tây phương, tôi có đề nghị mỗi gia đình nên có một cái phòng, gọi là phòng thở, để nuôi dưỡng hệ thần kinh của mình. Mỗi buổi sáng trước khi đi học, đi làm, gia đình vào trong phòng đó ngồi xuống ghế của mình, thỉnh ba tiếng chuông và thở chín hơi. Mỗi tiếng chuông là ba hơi thở. Xong rồi xá nhau, rồi người đi học, người đi làm. Nhiều gia đình Tây phương đã làm như vậy. Khi có sự buồn giận, mình đi vào trong phòng đó đóng cửa lại và thỉnh lên tiếng chuông để thở. Trong khi mình thở trong phòng đó, những người trong gia đình cũng biết mình đang tu tập, mình đang chăm sóc cảm xúc của mình và họ cũng tôn trọng. Phòng thở của gia đình là cái chùa tí hon ở trong nhà của mình. Một gia đình văn minh thì phải có phòng thở. Chúng ta có đủ các phòng: phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, phòng ngủ và phải có một phòng để nuôi dưỡng thân tâm. Trong phòng đó chỉ cần có một bình bông và một vài cái gối ngồi là đủ. Nó là thiền đường nhỏ xíu, là mini thiền đường trong gia đình. Tôi nghĩ rằng ở thế kỷ 21, để được gọi là văn minh thì nên có trong nhà một phòng như vậy để chăm sóc những cảm xúc, cảm thọ, những buồn phiền. Thỉnh thoảng ngồi uống trà với nhau ở trong đó, để chồng có thể thấy được mặt vợ, con có thể thấy được mặt cha v.v… Điều đó ai mà không làm được, chúng ta chỉ cần tổ chức cho khéo.

 

Đầu tư vào bản thân

Đầu tư vào bản thân là bước thứ nhất. Cái vòng tròn này tượng trưng cho thân và tâm của mình. Và cái vòng tròn này tượng trưng cho doanh nghiệp của mình. Thường thường mình nghĩ rằng, mình đầu tư vào doanh nghiệp. Nhưng nếu không có bản thân thì làm sao có doanh nghiệp. Nếu bản thân ốm yếu, hư hao thì làm sao doanh nghiệp khỏe mạnh được. Cho nên trước hết là phải đầu tư vào bản thân. Mình trở về trung tâm của bản thân: trở về với mình, với thân mình, với tâm mình. Trong thân có những đau nhức, có những mệt mỏi, có những căng thẳng. Mình phải về để xử lý những cái đó. Học buông bỏ những căng thẳng, những bức xúc trong thân. Trong tâm cũng có những bức xúc, những căng thẳng, những phiền muộn. Mình phải học phương pháp ứng dụng hơi thở, nhận diện những bức xúc, buồn bực, lo lắng. Ôm lấy nó nhẹ nhàng, để làm cho nhẹ ra. Trong kinh quán niệm hơi thở, Đức Thế Tôn có dạy phương pháp làm nhẹ đi bức xúc của thân, làm nhẹ đi bức xúc của tâm. Trong khi giảng dạy, các thầy, các sư cô đã có thâu rất nhiều CD về bài giảng: làm thế nào để quản lý, xử lý, chăm sóc thân và tâm của mình.

 

Đó là đầu tư vào bước thứ nhất của sự đầu tư. Cũng như khi tôi chỉ dẫn cách thực tập cho các nhà tâm lý trị liệu: quí vị phải lo cho thân của quí vị trước, trước khi quí vị có thể trị liệu cho các bịnh nhân của quí vị. Trong khi giảng dạy cho các nhà tâm lý trị liệu Tây phương, tôi thấy có rất nhiều người không có khả năng chăm sóc bản thân. Trong khi đó, mỗi ngày phải tiếp tới 10 hay 15 bịnh nhân, và một hồi như vậy thì đánh mất mình luôn, gọi là burn-out, tiêu ma luôn. Có những nhà tâm lý trị liệu không truyền thông được với người bạn hôn phối của họ và có những khó khăn với con cái mà họ không giải quyết được, thì làm sao họ giúp những người khác được. Tôi biết rất nhiều về họ, tôi đã đem tâm lý học Phật giáo và những phương pháp trong đạo Bụt ra để giúp họ thực tập. Trở về bản thân, chăm sóc bản thân, rồi lúc đó mình mới có thể chăm sóc được cho người kia, và mình có thể đi xa. Nếu không sẽ nửa đường đứt gánh. Cho nên bước đầu là trở về chăm sóc bản thân. Chúng ta phải học cho được. Chúng ta có sách, có băng, có thầy, có bạn. Chúng ta phải nương tựa vào đó để học hỏi suốt đời. Chính tôi cũng vậy.

 

Đầu tư vào người bạn đồng hành

Khi đã đi được bước thứ nhứt rồi, mình đi bước thứ hai. Mình tới giúp cho người bạn hôn phối của mình cũng làm được như vậy. Trong người kia cũng có những dằn vặt, những bức xúc, những đau khổ, mà mình lại rất cần sự yểm trợ của người đó. Có những lúc về nhà trong mệt mỏi, bức xúc và mình không nói chuyện được với người kia. Mình nghĩ rằng người kia không có khả năng nghe được và mình rất là cô đơn. Nếu là người đối tác thì mình thấy người kia khổ đau như vậy, mình không giúp được ý kiến, cũng như không làm dịu được nỗi khổ niềm đau của người đó, thì mình cảm thấy bất lực và như vậy không thể nào có hạnh phúc được. Cho nên người bạn hôn phối của mình rất cần được giúp đỡ, mình phải có thì giờ chăm sóc cho người đó: anh biết rằng em có những khó khăn, bức xúc. Anh muốn lắng nghe những khó khăn bức xúc của em, để anh có thể giúp đỡ em được. Có thể trong quá khứ anh đã không cẩn thận, anh đã áp đặt lên em những ý tưởng của anh, những phương thức của anh. Đó là vì anh chưa hiểu rõ những cội nguồn khó khăn của em. Vậy thì em hãy nói cho anh nghe, để anh có thể hiểu được và từ nay về sau anh sẽ không áp đặt, không chỉ trích, không lên án, không tạo ra những bức xúc với em. Đó là đầu tư vào người bạn đồng hành của mình, rất quan trọng. Mình phải có thì giờ cho người đó, phải lắng nghe người đó. Rồi trong những lúc khó khăn, người đó có thể lắng nghe được mình và chia sẻ những khó khăn của mình. Sẽ buồn biết bao nhiêu, nếu có những khó khăn bức xúc mà về nhà mình không thể nói với người đó, chia sẻ với người đó. Người đó có cảm tưởng bất lực, không giúp gì được mình, như vậy trong gia đình sẽ không có hạnh phúc. Cho nên bước thứ hai là phải tới với người kia và giúp người kia làm được điều mình đã làm được. Tức là trở về bản thân để chăm sóc thân tâm của chính mình.

 

Người kia cũng phải học trở về nội tâm, phải học cách tháo gở những khó khăn, những bức xúc. Làm dịu những cảm xúc, những sợ hãi, những buồn lo, những tuyệt vọng của người đó. Khi đó hai người trở thành liên minh với nhau, hai người bạn đường đích thực. Mình là người bạn hôn phối của người kia. Người kia là một doanh nhân, mình biết rằng hạnh phúc chỉ có được khi mình có thể giúp được người kia. Nếu nói rằng, mình là một người đàn bà, không biết gì hết về vấn đề đó. Anh muốn làm gì thì làm, không muốn nghe điều đó và không có khả năng nghe những khó khăn, những bức xúc của người kia. Đó là mình không đóng góp được gì cho hạnh phúc, cho sự nghiệp. Cho nên  người  doanh nhân và người bạn hôn phối của doanh nhân đều phải thực tập như nhau, nghĩa là phải trở về chăm sóc bản thân và hai người trở thành liên minh. Mỗi khi về nhà, mình có những bực dọc và nếu thổ lộ được với người kia năm bảy phút, và người kia lắng nghe được, nó đỡ không biết bao nhiêu mà kể. Cho nên sự thực tập không phải của một người mà là của hai người. Khi hai người biết chăm sóc bản thân và chăm sóc nhau, lúc đó doanh nghiệp, sự nghiệp của mình sẽ có một tương lai.

 

Đầu tư vào nhân viên

Bước thứ ba cũng làm giống như bước thứ hai. Trong doanh nghiệp, thế nào cũng có những cộng sự viên và những nhân viên. Mình biết rằng cộng sự viên nào, nhân viên nào cũng có những khó khăn, những bức xúc. Mình phải có thì giờ để lắng nghe họ, lắng nghe tình trạng gia đình của họ. Nếu ông là một nhà doanh thương có tài thì ông biết điều này. Nếu ông không biết lắng nghe và không biết được những khó khăn, những bức xúc của nhân viên, những khó khăn về kinh tế, về tình cảm của người đó, thì người đó không phải là một người cộng sự tốt của ông. Ông phải lưu tâm, ông phải có thì giờ hỏi thăm họ về tình trạng sức khoẻ, về tình trạng gia đình, về tình trạng kinh tế. Ông phải tỏ ra là người tri kỷ với nhân viên của ông. Người đó sẽ đem hết lòng để góp sức xây dựng nên doanh nghiệp của ông.

 

Chuyện này rất rõ ràng, không phải chỉ đầu tư vào tiền bạc, công sức, thời giờ, mà phải đầu tư trái tim của mình vào trong doanh nghiệp. Phải biết nhìn người đó bằng con mắt thương yêu. Họ cũng có những khó khăn, họ cũng có những bức xúc như mình, có khi nhiều hơn mình. Nếu biết lắng nghe thì mình là một vị bồ tát của họ, và họ sẽ là một người trung thành với mình suốt đời. Đầu tư thì giờ, trái tim của mình như vậy, không có uổng đâu. Kết quả sẽ rất lớn và chắc chắn doanh nghiệp sẽ thành công nhiều hơn, mau hơn. Đừng nghĩ làm như vậy mất thì giờ, mất tâm lực. Trong doanh nghiệp có những người cộng sự, những người nhân viên, phải đầu tư vào những người đó, như mình đã đầu tư vào mình và vào người hôn phối của mình. Trong vài ba tháng các vị sẽ thấy sự thay đổi trong doanh nghiệp của các vị. Nó sẽ có sinh khí, sẽ có tình huynh đệ, sẽ có sự đồng tâm đồng chí, và chắc chắn doanh nghiệp sẽ đi lên.

 

Doanh nghiệp cũng phải thực tập như mình. Doanh nghiệp phải trở về bản thân của doanh nghiệp, đừng chỉ lo chuyện ở bên ngoài. Không chỉ sản xuất rồi bán mà thôi, phải trở về với bản thân của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có những khó khăn, những mâu thun, những tranh giành quyền hành, những sự hiểu lầm nhau. Các ông, các bà phải giải quyết những vấn đề như vậy. Làm cho doanh nghiệp trở thành một đơn vị có hạnh phúc. Nội bộ của doanh nghiệp phải thông suốt, phải có sự truyền thông giữa giám đốc và nhân viên, giữa những người cộng tác với nhau. Nếu chưa được thì ông và bà chưa phải là một nhà doanh thương giỏi.

 

Trong đạo Phật, quí vị có thể học được rất nhiều điều để có thể áp dụng vào ba trường hợp này. Bản thân mình, bản thân của người bạn hôn phối và bản thân của doanh nghiệp. Mình phải đi vào trong doanh nghiệp để làm cho doanh nghiệp có sự thông thoáng, có sự truyền thông, có hạnh phúc, có tin cậy lẩn nhau. Ngày xưa ông Cấp Cô Độc, Anathapindika, đã làm như vậy. Ông đã đầu tư rất hay vào bạn bè, vào doanh nghiệp. Có lần ông bị sạt nghiệp, những nhà doanh thương cũng có thể có ngày sạt nghiệp, vì cuộc đời là vô thường, các cuộc khủng hoảng kinh tế thỉnh thoảng nó tới. Đừng nghĩ rằng cái đó không xảy ra với mình. Cái đó có thể xảy ra, nhưng nếu mình biết đầu tư như ông Anathapindika, thì vào những lúc như vậy mình không có đau khổ.

 

Tôi đọc sử, được ghi chép lại trong các kinh điển. Có lần ông Anathapindika bị phá sản, không còn một đồng nào, chính thức ăn cũng thiếu cho gia đình, nhưng ông không có khổ. Vì trong khi làm doanh nghiệp ông đã đầu tư rất nhiều vào nhân viên và bạn bè. Trái tim của ông Anathapindika là một trái tim rất lớn, một trái tim rất hào phóng. Các bạn của ông cần gì thì ông giúp liền. Những người hầu hạ ông, những người tôi tớ của ông (ngày xưa gọi là tôi tớ, hầu hạ), những người cộng sự của ông, ông lắng nghe, ông giúp đỡ họ rất nhiều. Cho nên khi ông lâm vào tình trạng khó khăn thì các bạn tới, những người tôi tớ làm công cho ông tới và giúp ông. Ông gây dựng lại sự nghiệp trong vòng nửa năm. Đó là chuyện đã xảy ra cho Anathapindika và mình phải chuẩn bị chuyện đó. Có thể một ngày nào đó, mình sẽ lâm vào tình trạng thất bại trong doanh nghiệp. Nó có thể xảy ra và nó đã xảy ra cho nhiều người. Nhưng nếu mình làm theo phương pháp của Anathapindika và mình biết đầu tư, thì những cái đó không bao giờ mất. Những gì mình đầu tư về phương diện tình người, nó sẽ còn mãi mãi. Tôi mong rằng quí vị có thể thấy được điểm quan hệ này. Khi mình có một địa vị, quyền bính, mình nên lợi dụng địa vị, quyền bính của mình để đầu tư vào con người, đầu tư bằng trái tim. Cái đó sẽ không bao giờ mất. Cướp có thể vào nhà mình cướp hết, vào nhà băng của mình cướp hết. Nhưng cái ông bà đầu tư bằng trái tim, không có tên cướp nào có thể lấy đi được. Chính cái đó nó sẽ cứu mình trong những lúc khó khăn, những lúc bức bách trong đời sống của mình.

 

Trong đạo Phật người ta nói tới năng lượng gọi là chánh niệm: niệm, địnhtuệ là ba năng lượng mà người tu phải chế tác. Niệm là khả năng nhận diện được cái gì đang xảy ra. Thí dụ như khi tôi thở vào, tôi biết rằng tôi đang thở vào, tôi nhận diện được hơi thở vào, đó là niệm. Năng lượng nhận diện được cái gì đang xảy ra. Khi đang đi mà tôi biết là tôi đang đi, đó là chánh niệm khi đi. Khi uống trà, tôi biết là tôi đang uống trà, gọi là chánh niệm khi uống trà. Khi thở, tôi biết là tôi đang thở, đó là chánh niệm về hơi thở: mindfullness of breathing, mindfullness of  walking, mindfullness of drinking. Năng lượng đó bất cứ một người nào cũng có thể chế tác được. Niệm tức là năng lượng giúp cho mình có mặt bây giờ và ở đây. Để biết những gì đang xảy ra trong thân, trong tâm và trong hoàn cảnh.

 

Câu thần chú thứ nhứt:

Khi thương ai, mình biết rằng món quà quí nhứt mà mình có thể tặng cho người thương của mình không phải là tiền, không phải là xe hơi, không phải là nhà mà là sự có mặt của mình. Món quà quí nhất mà mình có thể tặng cho người thương của mình là sự có mặt tươi mát, dễ thương của mình. Nếu ông bận quá, không có thì giờ thì làm sao thương được. Thương có nghĩa là có thì giờ cho người mình thương. Thương vợ cũng vậy, thương con cũng vậy, thương chồng cũng vậy. Mình phải có thì giờ để mình có mặt cho chồng, cho con, cho vợ.

 

Có một cậu con trai 11 tuổi. Bố nó nói: này con, ngày mai là sinh nhật con, con muốn cái gì bố sẽ mua cho. Ông ta giàu có nức khố đổ vách. Ông có thể mua bất cứ cái gì mà đứa con muốn, nhưng đứa con không cần gì hết, nó cần một cái nhưng rất là khó. Bố nó rất bận rộn, không có thì giờ cho mẹ và cho nó. Bố nó đi như một mũi tên, không có thì giờ cho gia đình. Nó có bố nhưng có cảm tưởng như là không có. Bố không có thì giờ để chơi, để ngồi với con. Nó không biết trả lời ra sao. Rốt cuộc thì nó tìm ra câu trả lời: cái mà con muốn là bố, con không muốn một cái gì khác. Nếu người cha biết rõ tình trạng, người cha sẽ thực tập chánh niệm. Sẽ đem theo hơi thở, đem tâm trở về với thân để có mặt trong giây phút hiện tại. Nhìn vào đôi mắt của đứa con và nói: con ơi, bố đang có mặt ở đây cho con, bố đang có mặt thiệt sự cho con đây mà. Đó là món quà quí nhứt.

 

Đôi khi bố ngồi đó, nhưng bố không có mặt ở đó, vì bố bị thu hút vào lo lắng, tính toán của bố. Thành ra bố có mặt ở đó mà như không có. Mình tới v vai: có ai ở nhà không? Chỉ có xác mà không có hồn. Khi về nhà, có thể mình chỉ về với cái xác thôi, cái hồn của mình không có ở đó cho người vợ của mình, cho người con của mình, rất là tội nghiệp. Nếu người bố đó thông minh thì sẽ học được phương pháp của Bụt dạy. Đi một vài bước, thở một vài hơi, đem tâm trở về với thân. Nhìn con, thấy rõ con đang có mặt ở đó. Mm cười với con: con ơi, bố đang có mặt thực sự cho con đây, tới đây bố ôm một cái. Đó là món quà quí nhất mà mình có thể trao tặng cho người mình thương. Thành ra ông phải học cái này. Đi làm về ông có thể nhìn vào người hôn phối của ông. Ông nói: em ơi, em có biết gì không? Anh đang có mặt cho em đây.

 

Quí vị có đọc quyển Bông hồng cài áo chưa? Đó là phép thực tập: mẹ ơi, mẹ có biết gì không? Mẹ có biết là con thương mẹ không? Do you know then I love you? Đâu cần nhiều thì giờ, chỉ cần một giây chánh niệm là có thể làm được điều đó. Năng lượng chánh niệm đó sẽ ôm lấy cả hai người. Đó  là năng lượng của tình thương. Giây phút đó sẽ là giây phút người ta nhớ hoài, nhớ mãi, bất diệt. Bông hồng cài áo tôi viết vào năm 1962. Trong đó, quí vị đọc không phải như một bài thuyết pháp, nhưng kỳ thực là một bài thuyết pháp, là một sự thực tập.

 

Mình phải trân quí những gì bây giờ mình đang có, để mai này khi cái đó không còn nữa mình không có tiếc thương. Mẹ là một bảo vật, phải trân quí ngày hôm nay. Người hôn phối của mình cũng vậy, đang có mặt ngày hôm nay và mình phải đọc câu thần chú, không cần phải đọc bằng tiếng Phạn, đọc bằng tiếng Việt: em ơi, anh đang có mặt thực sự cho em đây. Anh ơi, em đang có mặt thực sự cho anh đây. Có thể ông lái xe và bà ngồi bên cạnh, nhưng tâm ý của ông hoàn toàn bị thu hút vào các công việc của ông. Ông có thể vừa lái và hát nho nhỏ một câu, nhưng tâm ông hoàn toàn để chỗ khác. Bà ngồi bên ông như là không có. Bà bị loại ra khỏi vòng chiến, khỏi sự có mặt của ông. Bà sẽ chết khô, chết héo nếu cứ ngồi như vậy hoài. Tại vì ông nghĩ tới những cái khác, không bao giờ ông nghĩ tới bà, dầu bà ngồi sát bên ông.

 

Khi thương, mình phải ôm lấy người mình thương bằng niệm, bằng sự chú ý, niệm là sự chú ý. Khi người kia được sự chú ý, người kia sẽ nở ra như một bông hoa. Vì vậy cho nên sự có mặt của mình quí giá nhất mà mình có thể tặng cho người thương. Dầu người đó là mẹ, là cha, là con hay là người bạn hôn phối của mình. Ông đừng mắc c, bà đừng mắc c, thực tập câu thần chú: do you now that I am here for you - Em có biết là anh có mặt cho em đây không? Câu nói đó chứng tỏ rằng mình có mặt thực sự, và mình đang ôm lấy người thương của mình bằng năng lượng của sự có mặt đó. Năng lượng đó tên là niệm - The energy of being there. Chữ niệm gồm có hai phần, một phần là chữ tâm, cái tâm của mình. Một phần là chữ giây phút hiện tại. Cái tâm của mình trở về với giây phút hiện tại, để nhận diện người thương của mình, để nhận diện cái gì quí báo mà mình đang có.

 

Đó là câu thần chú thứ nhất, các ông các bà phải học thuộc để mà thực tập với con, với chồng, với vợ, với mẹ, với cha. Rất là dễ, tôi không có giảng lý thuyết xa vời, trừu tượng tôi chỉ muốn cống hiến cho quí vị những phương pháp thực tập rất cụ thể. Quí vị có thể làm ngay chiều hôm nay, tối hôm nay. Quí vị có thể dùng điện thoại di động, thực tập từ sở làm cũng được. Không có chuyện gì nhưng cũng kêu về cho bà: em ơi, em biết gì không? Anh đang nghĩ tới em đây. Có tốn bao nhiêu thì giờ đâu, nhưng hiệu năng của nó vô cùng lớn. Ông cũng có thể gởi e-mail được, chỉ có một vài phút thôi.

 

Câu thần chú thứ hai:

Khi được người kia chú ý và công nhận là mình đang có mặt, thì mình có cảm giác sung sướng là mình đang được thương. Được thương có nghĩa là được công nhận đang có mặt. Ông lái xe, ông nghĩ chuyện khác, bà ngồi kế bên mà như không có mặt. Ông hãy nói cái gì để ý thức được rằng bà đang có mặt bên ông và ông trân quí sự có mặt đó. Thì đây là câu thần chú thứ hai, cũng bằng tiếng Việt, rất là dễ học thuộc: em ơi, anh biết rằng em có mặt đó cho anh và anh rất hạnh phúc. Mẹ ơi, con biết rằng mẹ đang còn sống đó với con mà con rất là hạnh phúc. Bố ơi, con biết rằng bố đang sống với con và con hạnh phúc quá chừng. Anh ơi, em biết rằng anh đang có mặt cho em, cho các con, em hạnh phúc quá chừng. Câu thần chú đó đâu có khó thực tập. Khi ông bà thc tập thì phép lạ biểu hiện liền lập tức. Tôi cam đoan rằng nó sẽ có hiệu năng. Nếu ông có niệm và có định, tức là tâm ông hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại. Ông mở trái tim ra và thực tập thì câu thần chú đó luôn luôn có hiệu nghiệm.

 

Câu thần chú thứ ba:

Khi ông có mặt rồi thì cố nhiên có những khó khăn gì, có những khổ đau gì xảy ra cho bà ; hay là bà thấy có những khó khăn, khổ đau nào xảy ra cho ông thì bà biết liền. Mình chỉ cần nhìn mặt người đó là biết có cái gì đó không ổn. Nhờ thực sự có mặt nên mình nhận ra được, khi nhận ra được thì mình phải có mặt cho người đó. Và câu thần chú thứ ba như thế này: em ơi, anh biết rằng em đang có khó khăn, em đang có khổ đau, vì vậy cho nên anh có mặt cho em đây – I know Darling you are suffe there for I am for you. Anh ơi, em biết rằng anh có khó khăn, buồn khổ, em có mặt cho anh đây. Bà thực tập đi, ông thực tập đi rồi sẽ thấy hiệu năng rất lớn của câu thần chú này.

 

Thường thường quí vị nghe những câu thần chú bằng tiếng Phạn, nhưng đây là câu thần chú bằng tiếng Việt. Tôi đã chế tác và tôi đã trao truyền cho không biết bao nhiêu người thực tập. Câu thần chú đó được dịch ra tiếng Tàu, tiếng Nhật Bổn, tiếng Đại Hàn... Hiện giờ ở bên đó đang có những người đang thực tập những câu thần chú như vậy.
 

Thành công của mình không là thất bại của người kia

Khi doanh nghiệp biết trở về với chính nó và giải quyết những mâu thun, những bế tắt lập lại thông thoáng và tin cậy lẫn nhau, thì doanh nghiệp sẽ thành công. Lúc đó mình mới có thể đi bước thứ tư là liên hệ làm việc với những doanh nghiệp khác. Muốn cho doanh nghiệp kia đừng phản bội mình, đừng tranh đua với mình, thì mình cũng có thể giúp doanh nghiệp kia làm được những gì mình đã làm. Theo tinh thần của đạo Phật, sự thành công của mình không hẳn là phải mua bằng sự thất bại của người kia. Tại sao người kia thất bại thì mình mới thành công được. Tại sao mình không thể cùng thành công với nhau. Nói như những nhà chính trị bây giờ là hai bên cùng có lợi. Ở đây mình không nói lợi mà là hai bên đều thành công. Có lợi chưa chắc đã thành công. Có lợi mà không có hạnh phúc thì không có thành công. Cho nên những đối tác của mình, những hảng xưởng, doanh nghiệp mà mình làm việc chung, mình có thể làm trên cơ bản của tình huynh đệ. Mình không có mong chờ sự thất bại của họ để mình thành công. Mình nói rõ như vậy: tôi cũng muốn anh thành công. Tôi  không muốn anh thất bại để tôi thành công. Mình nói và làm như vậy thì đối tác kia sẽ cộng tác lâu dài với mình.

 

Thưa quí vị, tôi đã mở những khoá tu-tập cho giới doanh thương ở Tây phương. Khoá đầu tiên mở tại Làng Mai, Pháp quốc. Những bài giảng của tôi, hôm nay tôi trích một ít để hiến tặng cho quí vị, nó nằm trong những bài giảng đã được đánh máy ra và in lại thành một tập, được xuất bản từ Đại Hàn. Bằng tiếng Hàn trước và tiếng Anh sau đó. Sách bán rất chạy, có tựa đề tiếng Anh là The art of power, Nghệ thuật xử dụng quyền lực. Có một đạo hữu đã dịch ra tiếng Việt với tựa đề là Quyền lực và hạnh phúc. Trong đó có những chỉ dẫn để quí vị có thể tham cứu thêm.

 

***

Tôi xin kể tiếp câu chuyện của thương gia Anathapindika – ông Cấp Cô Độc. Khi ông Cấp Cô Độc đưa 500 người doanh nhân tới gặp Đức Thế Tôn, Ngài đã dạy kinh Người Áo Trắng (người tu mặc áo nâu, người cư sĩ mặc áo trắng). Kinh người áo trắng. Nếu muốn đọc, quí vị có thể thấy trong sách Nghi thức tụng niệm đại toàn của nhà xuất bản Tôn giáo. Trong đó có nhiều kinh nói về ông Anathapindika. Hôm đó, Đức Thế Tôn đã dạy cho các nhà doanh thương một bài thực tập, để các nhà doanh thương có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại: hiện pháp lạc trú. Ngài nói rằng, chỉ cần tu tập theo năm giới và bốn phép trì niệm, là có thể có hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Bốn trì niệm là: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới. Niệm tức là có ý thức, đem nó về giây phút hiện tại. Chúng ta đã được nghe bài Tam qui, tức là quay về nương tựa Bụt, quay về nương tựa Pháp, quay về nương tựa Tăng. Về nương Bụt trong con, về nương Pháp trong con, về nương Tăng trong con. Trong mình cũng có Phật, Pháp và Tăng.

   

Phật - Pháp - Tăng

Phật là khả năng hiểu và thương rất lớn. Người nào có khả năng hiểu biết lớn, thương yêu lớn, người đó là Phật. Có những Phật lớn và Phật nhỏ.

 

Khi giảng dạy những phương pháp chế tác hiểu biết và thương yêu, thì những điều giảng dạy đó là Pháp. Pháp có thể giảng dạy cũng như áp dụng. Khi áp dụng thì Pháp đó không phải bằng lời nữa. Một người có áp dụng Pháp, mình nhìn thấy được. Thái độ rất là thong dong, vững chải, có đầy hiểu và đầy thương, mình biết rằng trong con người này có Pháp. Dầu người đó không có thuyết pháp, nhưng cách đi, đứng, nằm, ngồi, nói chuyện, tiếp xử với đầy hiểu biết, đầy thương yêu đầy thảnh thơi, thì mình biết rằng Pháp đó là Pháp sinh động: living dharma. Còn Pháp kia là Pháp nói, là spoken dharma.

 

Tăng là đoàn thể thực tập theo Pháp đó. Tăng không hẳn là người xuất gia, có thể là một nhóm người tại gia. Vì chữ tăng là từ chữ shanga, và Shanga là Community, có nghĩa là đoàn thể. Tăng có thể gồm có nam xuất gia, nữ xuất gia, nam cư sĩ, nữ cư sĩ. Hoặc là xuất gia không, hoặc là tại gia không cũng được, cũng gọi là Tăng.

 

Nếu muốn tiếp tục thực tập sau một khoá tu, mình nên thiết lập một nhóm người địa phương để cùng tới nhau tu tập, gọi là dựng Tăng: Shanga building. Nếu quí vị muốn tìm thấy con đường hay, lợi ích cho mình, quí vị  nên tìm các bạn, thiết lập một nhóm người để cùng tổ chức tu tập với nhau. Quí vị cũng có thể chọn những người bạn trong giới doanh thương, để tổ chức lâu lâu tới với nhau một ngày, cùng thực tập với nhau để bảo hộ nuôi dưỡng cho nhau. Đó gọi là xây dựng tăng, rất cần. Các luật gia cũng làm như vậy, các y sĩ họ cũng đã làm như vậy. Họ thiết lập những tăng thân cho luật gia, những tăng thân cho y gia, những tăng thân cho các nhà tâm lý trị liệu. Họ tới để thực tập với nhau, sống với nhau trong hai ngày, ngồi với nhau, thở với nhau, đi với nhau. Chia sẻ những kiến thức, những kinh nghiệm thực tập với nhau, gọi là dựng tăng. Mình nương vào đó, gọi là qui y Tăng.

 

Tăng đây không có nghĩa chỉ là thầy tu xuất gia. Tăng ở đây có nghĩa là Đoàn thể đang thực tập theo pháp môn mầu nhiệm. Nếu quí vị chỉ thực tập ba câu thần chú đó thôi và thực tập chung như một gia đình, đó gọi là Gia đình Tăng. Nếu trong một lớp học, thầy giáo và các học sinh biết thực tập như vậy thì gọi là Học đường Tăng. Tăng có nghĩa là community, hội đoàn, nhóm người. Khi mình dựng nên được một Tăng thì có biết bao nhiêu người trở về, họ nương tựa vào đó để thực tập. Thành ra có công đức rất nhiều. Tại sao mình không thành lập một Doanh thương Tăng, để cho các bạn doanh thương có cơ hội gặp gở nhau, nâng đỡ nhau, thực tập với nhau.

 

Trì niệm năm giới

Năm giới là sự thực tập rất cụ thể của chánh niệm, sự thực tập của thương yêu và bảo hộ. Nếu quí vị nghiên cứu năm giới đó, quí vị thấy đây là phương pháp thực tập rất cụ thể để nuôi dưỡng tình thương trong người của mình, trong gia đình và trong thế giới của mình. 

 

Tháng ba năm 2000, tổ chức Unesco có phát hành Tuyên cáo 2000, gọi là Manifesto 2000. Đưa ra 6 điểm thực tập để cứu lấy tuổi trẻ, cứu lấy địa cầu. Liên Hiệp Quốc đã ra một nghị định trước đó, lấy 10 năm đầu của thiên niên kỷ làm thập niên để thực tập tình thương, thực tập bất bạo động. Tôi đã có dịp ngồi với một số các vị có giải Nobel hoà bình và thảo ra được những điểm của Manifesto 2000. Sáu điểm trong đó tương đương với năm giới trong đạo Phật. Manifesto 2000 đã được Unesco phát ra. Chúng tôi tin rằng, nếu mọi người trên trái đất thực tập theo sáu điểm của Manifesto thì thế giới sẽ có hoà bình, sẽ có an lạc, sẽ cứu được trái đất. Sau đó một năm, số người ký vào Manifesto, hoặc bằng online, hoặc bằng thơ từ đã lên tới 75 triệu người. Trong đó có thủ tướng Việt Nam, có nhiều vị lãnh tụ của các quốc gia ký vào đó.

 

Người ta đồng ý đó là con đường thoát của nhân loại. Nhưng sau khi ký người ta không có cơ hội thực tập. Vì vậy cho nên muốn thực tập là phải có Tăng thân. Theo truyền thống của mình, sau khi thọ trì năm giới rồi, mỗi tháng phải họp nhau để tụng đọc giới đó một lần. Tham dự pháp đàm để xem mình thực tập tới đâu, và làm thế nào để thực tập hay hơn nữa. Nhờ đó người ta mới thực tập. Còn đồng ý ký vào, rồi sau đó bỏ quên thì đâu có ích lợi gì. Cho nên Manifesto tuy có sáu điểm tương đương với năm giới, nhưng  người ta chỉ ký và đồng ý thôi, người ta không có cơ hội đem áp dụng vào đời sống cá  nhân, đời sống gia đình và xã hội.

 

Cái khác trong đạo Phật là sau khi thọ giới rồi, mình phải tụng giới mỗi tháng hai lần, phải tham dự pháp đàm, phải kiểm điểm coi thử mình đã thực tập tới đâu rồi. Sự thực tập của mình phải để cho người khác trông thấy, không phải là mình khoe, nhưng phải apparent.

 

Chúng tôi có tu viện Lộc Uyển tại bang California. Tu viện có 400 mẩu Anh đất núi và đất rừng. Chúng tôi tổ chức bảo vệ sinh môi rất k, chúng tôi tôn trọng các loài thực vật và động vật ở trên đó. Từ ngày chúng tôi về tới đó, các loài cây cối và động vật ở trên đó rất là hạnh phúc. Hiện giờ tu viện Lộc Uyển ở bên Mỹ không dùng nhiệt điện nữa. Chúng tôi dùng toàn năng lượng mặt trời. Có khi cả ngàn người tu tập trên đó mà năng tượng mặt trời vẫn đủ. Như vậy chúng tôi đã đóng góp vào vấn đề giảm thiểu ô nhim. Tại tu viện Lộc Uyển, mỗi tuần chúng tôi nguyện một ngày không xử dụng xe hơi, gọi là car free day. Vì không dùng xe hơi một ngày là đỡ một ngày. Một ngày mình không làm ô nhiễm. Một ngày không gây ra phản ứng nhà kính. Mình coi đó như phẩm vật cúng dường Tam Bảo, cúng dường cho đất mẹ. Tu viện Lộc Uyển đã sửa những chiếc xe hơi, không chạy bằng xăng nữa, mà chạy bằng dầu thực vật. Khi xe đậu, quí vị có thể ngửi thấy mùi khoai tây chiên! Tại vì chúng tôi đi xin những dầu chiên của restaurants về lọc, chúng tôi chạy xe hơi bằng những loại như vậy, và đóng góp vào việc bảo hộ môi trường của trái đất.

 

Chúng tôi không nói miệng, chúng tôi sống như vậy và làm như vậy, cho nên người theo rất đông. Các bạn hữu người Mỹ được nghe và  thấy chúng tôi thực tập như vậy, và họ theo rất đông. Trên mạng hình như là car-free-days.org có nhiều người lên để phát nguyện, thực tập mỗi tuần một ngày không xe hơi để cúng dường cho đất mẹ. Cho đến nay chúng tôi đã nhận được sự hiến tặng hơn 60 ngàn ngày không xe hơi. Ngày 22.9 sắp tới, ngày toàn cầu khuyến khích không đi xe hơi. Chúng tôi nghĩ rằng sẽ có đủ con số 100 ngàn ngày không xe hơi để cúng dường cho trái đất, cúng dường cho Đức Phật. Nói là làm, đó là thân giáo, tức là dạy bằng hành động của mình. Living Dharma, không phải là Spoken Dharma. Pháp hành chứ không phải Pháp nói.

 

Năm giới, nếu nghiên cứu k, chúng ta thấy đó là những thực tập rất cụ thể để nuôi dưỡng tình thương và sự hiểu biết, bảo hộ bản thân, bảo hộ gia đình, bảo hộ trái đất. Mỗi khi có một khoá tu ở Mỹ châu, Âu châu, thường thường có hàng trăm người quì xuống tiếp nhận năm giới để thực tập. Họ biết rằng có được năm giới tức là có con đường đi, con đường thoát cho nhân loại.

 

Giới thứ nhứt là bảo hộ sự sống. Giới thứ hai là thực tập hiến tặng. Đừng có trộm cướp, lạm dụng, đừng khai thác quá mức tài nguyên của trái đất. Giới thứ ba là không lạm dụng tình dục, trung kiên với sự cam kết của mình, không làm cho gia đình mình tan nát vì thói tà dâm. Giới thứ tư là xử dụng ái ngữ và lắng nghe, để thiết lập lại truyền thông đã mất giữa vợ chồng, cha con, mẹ con, để đem hạnh phúc trở lại. Thực tập giới này rất là mầu nhiệm, chúng tôi đã giúp cho vô số các cặp vợ chồng, cha con tái lập lại truyền thông, làm hòa với nhau, đem lại hạnh phúc. Giới thứ năm là tiêu thụ và sản xuất trong chánh niệm. Xử dụng tài nguyên trái đất như thế nào để đừng làm ô nhiễm đất mẹ.

 

Các nhà doanh thương phải nghiên cứu những giới này, nhứt là giới thứ năm. Vì nếu công nghiệp của mình đang làm ô nhiễm trái đất làm cho con cháu mình sau này tiếp nhận một gia tài nghèo nàn, hư hỏng, khô cằn do sự khai thác không nương tay của mình. Chúng nó sẽ đau khổ rất nhiều. Quí vị biết rằng, Trung quốc trong 30 năm vừa qua đã khai thác thiên một cách quá vô trách nhiệm. Chỉ vì có ước muốn theo kịp các nước Tây phương, mà đã khai thác thiên nhiên một cách không thương tiếc. Và hiện bây giờ thiên nhiên bắt đầu quật trở lại, bao nhiêu tai nạn đã xảy ra dồn dập. Các con sông ở bên Trung quốc đã ô nhiễm đến mức không thể chịu đựng được nữa. Tôi nghĩ rằng với sự giác ngộ này, các nhà doanh thương Việt Nam sẽ không đi vào vết chân của Trung Quốc. Chúng ta phải dẫn dắt, lãnh đạo doanh nghiệp của chúng ta như thế nào, để chúng ta có thể bảo vệ được quê hương, bảo vệ được thiên nhiên, bảo vệ được đất mẹ. Đó là nội dung của giới thứ năm.

 

Khi phát nguyện tu tập, học hỏi theo năm giới thì tự nhiên mình có hạnh phúc rất lớn vì biết rằng mình có con đường đi. Những người mà họ không biết đi về đâu họ mới khổ đau. Mình có con đường đi, con đường tâm linh. Nó đem lại sức khoẻ cho chính mình, cho gia đình, cho quê hương, cho đất nước và cho tinh cầu của mình, thì mỗi bước chân là hạnh phúc. Đức Thế Tôn đã nói như vậy, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, là đủ để mình sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại. Với thành công đó, không bao giờ mình trở thành nạn nhân của sự thành công. Vì có nhiều người sinh nghề tử nghiệp, chính mình trở thành nạn nhân của sự thành công của mình. Còn nếu tu tập theo năm giới, mình không bao giờ trở thành nạn nhân từ sự thành công của mình. Tại vì mình có con đường tâm linh, có con đường của cha ông để lại từ hai ngàn năm nay.

 

Có một phu nhân của một vị cao cấp trong đảng, trong chính quyền. Một hôm tới xin tôi cầu nguyện cho ông nhà và cho gia đình. Tôi biết rằng trong tâm bà có những lo lắng, những sợ hãi. Cần yên tâm bằng cách nhờ một thầy có đức độ để cầu nguyện cho, cái đó cũng dễ hiểu. Tôi có nói với vị ấy như thế này: tôi sẽ làm, vì đó là phận sự của chúng tôi, là phải gởi năng lượng cho mọi người khi cần đến. Tâm của mình là một năng lượng rất lớn, nếu biết xử dụng tâm thì mình sẽ ảnh hưởng đến hoàn cảnh. Tâm của mình thay đổi được thế giới. Quí vị cũng biết rất rõ sự lên xuống của đồng Mỹ kim. Trước hết là do tâm của mình, không phải do những thực tại khách quan về kinh tế. Sự lên xuống của giá dầu xăng cũng vậy. Sự sợ hãi của mình đóng một vai trò rất lớn trong sự lên xuống của đồng tiền, của dầu xăng. Chính tâm của mình làm ra giá trị của đồng Euro, hay là đồng Dollar.

 

Ảnh hưởng của tâm rất lớn, nếu hành động trên cái tâm của lo lắng, sợ hãi, hận thù, thì thế giới sẽ khổ đau rất nhiều. Nếu làm việc, hành động trên cái tâm của thương yêu, tha thứ, thì thế giới sẽ có hạnh phúc. Cho nên mười thầy, hai mươi thầy, ba mươi đạo hữu ngồi với nhau để gởi năng lượng lành cho một người có bịnh, người đó thế nào cũng nhận được năng lượng lành. Khi quí vị phát khởi ra tâm niệm từ bi, không muốn thù oán, không muốn làm cho người ta khổ đau, thì tâm niệm từ bi đó trước hết có ảnh hưởng rất tốt trên sức khoẻ của quí vị. Nếu quí vị phát khởi một tâm niệm của hận thù, thì cái đó có hại cho sức khoẻ của mình và sau đó nó có hại cho sức khoẻ của thế giới. Nếu mỗi ngày mình biết phát ra tâm niệm của thương yêu, tha thứ, thì trước hết mình là người được hưởng, còn người kia được hưởng sau.

 

Lời nói cũng vậy, nói ra lời nói nhẹ nhàng, tha thứ, đùm bọc, thương yêu thì chính mình thấy khoẻ trước, rồi người kia được hưởng sau. Vì vậy cho nên tam nghiệp là tư tưởng, lời nói và hành động. Thân-khẩu-ý phải đi theo con đường của Phật dạy, tức là Chánh tư duy, Chánh ngữ và Chánh nghiệp. Chánh tư duy tức là tư duy theo chiều hướng của tha thứ, thương yêu, nâng đỡ lẩn nhau. Chánh ngữ là nói những lời không phải để trừng phạt, để trách móc, để lên án, để buộc tội. Mà nói những lời để làm cho người kia có niềm tin và hy vọng, tự tin và tháo gở được những khổ đau, gọi là Chánh ngữ. Mỗi ngày mình có thể phát ra những tư tưởng như vậy, nói ra được những câu nói như vậy và chuyển đổi sức khoẻ của mình, chuyển đổi sức khoẻ của người kia và của thế giới. Mình có thể làm được rất là nhiều mà không hẳn cần tiền, chỉ cần cái tâm mà thôi.

 

Tôi đã nói với vị phu nhân đó: Tôi làm theo sức của tôi thôi. Ông bà không làm gì hết thì không hiệu nghiệm lắm, vì vậy cho nên tôi đề nghị là mỗi hai tuần ông bà phải tổ chức tụng đọc năm giới. Chỉ cần thắp một cây hương, ngồi xuống với nhau và tuyên đọc năm giới. Tức là con đường của Phật, là sự thực tập rất cụ thể của hiểu và của thương. Như vậy đời sống của ông, của bà sẽ tạo ra  tần số có thể tiếp xúc với tần số của các vị Phật, Bồ Tát. Như vậy năng lượng của bảo hộ, của sự che chở chắc chắn sẽ có. Vị phu nhân đó đã hiểu và hứa rằng sẽ về nói chuyện với ông chồng, hai người cùng thực tập với nhau.

 

Hiện bây giờ chánh sách của nhà nước là bài trừ mê tín, bài trừ tham nhũng. Vì nạn mê tín và nạn tham nhũng đang hoành hành ở đất nước ta rất nhiều, nhất là ở miền Bắc. Tôi có vô một chùa, ở đó thờ rất nhiều Phật và Bồ Tát, và trong tay tượng Phật và tượng Bồ Tát nào cũng có tiền hết. Người ta tới đút lót cho các vị Bồ Tát, các vị Phật. Tất cả chư Phật, chư Bồ Tát đều trở nên những người tham nhũng. Cái đó đâu phải đạo Phật. Người ta nói: Phật và chư Bồ Tát còn ăn hối lộ, tại sao mình không ăn. Cho nên đây là lúc hơn bao giờ hết, mình cần phải đem chánh pháp ra để giúp bài trừ mê tín, bài trừ tham nhũng.

 

Tôi tin rằng trong việc theo đuổi sự nghiệp của các vị, quí vị có thể đóng góp tích cực vào việc này để giúp dân giúp nước. Tiềm lực của dân tộc rất lớn, đức tin của người Việt rất lớn. Nếu chúng ta không khai thác đúng để phát triển năng lượng hiểu và thương. Cứ để cho mấy ông thầy cúng, mấy ông thầy phù phép lợi dụng. Người ta sẽ khai thác năng lượng đó để làm phát triển sự mê tín và sự tham nhũng. Xin quí vị giúp cho một tay. Tôi đã về quê hương ba lần. Tôi đã quan sát. Tôi thấy những tiềm lực rất lớn lao của dân tộc, của đất nước mà chúng ta có những rào cản, chúng ta có những khó khăn. Chúng ta cùng nắm tay nhau để vượt những rào cản và những khó khăn đó. Để xử dụng được nguồn năng lượng vĩ đại của đất nước, của dân tộc, của văn hoá. Đưa đất nước đi lên, không đi vào vết chân của những người đi trước đã làm ô nhiễm đất nước, đã nuôi dưỡng mê tín, đã nuôi dưỡng tham nhũng.

 

Tôi rất vui có được ngày hôm nay làm việc và thực tập chung với quí vị. Bây giờ chúng ta dành ra 10, 15 phút. Nếu có câu hỏi nào quí vị muốn đặt thì đây là cơ hội.

 


Thiền sư và Tăng thân trong giờ Pháp thoại. (photo LĐO)

 

Nhân duyên tương tác là phải giữa hai người?

Thưa Thầy, hạnh phúc, tương duyên là cái mối của người này với người khác, cho và nhận chứ không thể một chiều. Con là giám đốc của một công ty lớn. Con đối xử rất tốt và đầu tư rất lớn vào những người làm việc cho con, nhưng họ vẫn bỏ ra đi là vì sao? Tại sao con phải giữ họ, trong khi họ muốn bỏ ra đi. Nhân duyên tương tác là phải giữa hai người. Xin Thầy chỉ giáo cho điều đó.

 

- Tôi nghĩ là sự thực tập lắng nghe sẽ đem lại câu trả lời. Có nguyên do gì đó, khiến cho người đó không được thoải mái lắm với doanh nghiệp này và muốn đi tới một doanh nghiệp khác. Có thể không hẳn là doanh nghiệp khác trả tiền nhiều hơn. Vì vậy cho nên mình có cảm tưởng là mình đã làm hết sức để tỏ thiện chí với người kia, nhưng có thể đó là cái ý của mình thôi. Mình phải lắng nghe người kia xem họ có những bức xúc nào, những khó khăn nào, những nhu yếu nào mà mình chưa đáp ứng được khi đó mình mới hiểu được lý do tại sao họ bỏ mình, họ đi. Vì đôi khi những cái mình hiến tặng cho họ, họ không cần, họ cần những cái khác mà mình không hiến tặng. Điều này chỉ có thể hiểu được, khi hai bên ngồi lại nói chuyện thân tình với nhau. Đôi khi có thể là sự truyền thông chưa thật sự có, có thể có sự chênh lệch giữa hai người. Chỉ có thể nói chuyện với tư cách là ông chủ và nhân viên, chưa nói chuyện được giữa hai đối tác như là hai người bạn. Cái tình đó phải là tình bạn. Khi người ta là bạn với nhau, người ta mới có thể nói được những điều trong lòng cho mình nghe. Tôi đề nghị rằng ông về, ông ngồi xuống, không phải là với tư cách của một ông chủ, mà là với tư cách của một người bạn, thì người kia sẽ nói cho ông nghe: tại sao.

 

 

Hạnh phúc là gì, có đo được không?

Bạch Thầy, xin Thầy cho con biết hạnh phúc là gì, có đo được không. Tại vì đối với doanh nhân, đối với những người làm công tác khoa học kỹ thuật, mọi thứ đều đo được bằng những con số. Thì hạnh phúc có đo được không? Xin mạn phép hỏi Thầy, Thầy có đo được hạnh phúc của Thầy không? Mỗi ngày hạnh phúc của Thầy được mấy giờ? 

 

- Hạnh phúc của tôi không có đo được, tại vì nó lớn quá đi, không có thước nào, không có cân nào có thể đo được. Quí vị biết được điều đó, thí dụ như tình thương, khi mà có tình thương thì đố quí vị đo được hay là cân được. Nhưng thường thường người ta hỏi rằng: hạnh phúc là gì? Khi có người ta không nhận biết, khi mất rồi người ta mới biết rằng nó vừa mới bỏ đi. Bởi vì vậy niệm là quan trọng, niệm tức là khả năng nhận diện rằng bây giờ ta đang có hạnh phúc. Hạnh phúc đang có đó nhưng quí vị không biết là nó đang có, nên quí vị không biết trân quí. Thành ra vấn đề ở chỗ niệm hay là không niệm.

 

Trở về với giây phút hiện tại để nhận diện rằng, mình đang có những điều kiện hạnh phúc. Đôi khi những điều kiện đó dư để cho mình có hạnh phúc, nhưng vì mình không có khả năng tiếp xúc với điều kiện để biết rằng: đó là hạnh phúc. Mình nghĩ rằng còn thiếu điều kiện này, điều kiện kia cho nên đạp lên hạnh phúc mình đi. Đó là sự dại dột của nhiều người. Cho nên lời dạy của Đức Phật là trở về với hiện tại và thấy được những điều kiện hạnh phúc đang có mặt. Khi nhận diện được rồi thì tự nhiên hạnh phúc tràn trề liền lập tức. Điều này đúng với hầu hết tất cả chúng ta. Có những ngưi trong chúng ta có một ít bịnh, sức khoẻ không toàn hảo, tiền bạc không có dư giã như người khác, nhưng vẫn hạnh phúc tràn trề như thường. Cái đó do tâm của mình nhiều hơn là những yếu tố khách quan bên ngoài. Một giờ đồng hồ nếu biết sống, nó đem lại rất nhiều hạnh phúc. Hạnh phúc có thể rất lớn.

 

Ví dụ như chúng ta có được cơ hội về đây sống chung với nhau một đêm và một ngày. Bây giờ đây, mỗi người trong chúng ta đều đã nếm thử một chút hạnh phúc đó. Trước khi tới chúng ta đâu có ngờ rằng, chúng ta sẽ có kinh nghiệm đó, và khi đi về rồi, một người bạn hỏi ta, ta cũng khó để có thể nói lại được những gì chúng ta có kinh nghiệm ở đây. Thành ra nói chuyện cân, đo hạnh phúc, tôi thấy nó hơi tức cười. Hạnh phúc có nhiều hay có ít, hạnh phúc bền hay không bền là do trái tim của mình, do tâm của mình, do nhận thức của mình. Hạnh phúc thật sự chỉ có thể có mặt, khi có sự yên ổn trong thân và trong tâm. Nếu thân không an, có quá nhiều căng thẳng, đau nhức thì không có hạnh phúc được. Nếu tâm có nhiều lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, cũng không có hạnh phúc. Cho nên thân an và tâm an, lúc đó mới có hạnh phúc. Do đó mình có danh từ an lạc. Nếu không có an thì không có lạc. Cho nên an là sự thực tập. Nếu mình thực tập an được thì lạc sẽ tự nhiên tới. Sự thực tập này không phải chỉ ở thân, mà còn phải thực tập bằng tâm nữa.
 

 

Đám cưới ở Làng Mai

Bạch Thầy, vợ con qui y từ nhỏ và đã ăn chay ba năm nay. Nhưng vợ con là chủ một doanh nghiệp nhà hàng tiệc cưới, do đó hàng ngày giết không biết bao nhiêu là gà, heo. Như vậy Thầy có lời khuyên gì cho con trong chuyện cầu nối giữa hai vợ chồng với nhau, để làm sao kéo vợ con về được.

 

- Ở bên Làng Mai, chúng tôi thỉnh thoảng làm đám cưới cho những cặp trẻ người Việt hay người Tây phương. Đám cưới ở Làng Mai rất đẹp. Có thiền hành, có ngồi thiền, có nghi lễ, có đủ mọi thứ. Nó đẹp, cho nên những người đã cưới nhau cách đây ba bốn chục năm, bây giờ muốn làm đám cưới trở lại. Cố nhiên là Làng Mai đâu có cần giết con gà, con heo nào đâu. Vì vậy cho nên tôi nghĩ rằng, nếu chúng ta giới thiệu nghi thức đám cưới đó cho những cặp vợ chồng chưa cưới, chắc chắn họ sẽ chọn loại đám cưới đó. Thanh thoát vô cùng, đẹp vô cùng. Có chiều hướng tâm linh rất cao. Rất thanh thoát mà không tốn kém, cũng không có sát sanh. Nhưng làm sao thuyết phục được, nếu người ta không tới để mà thấy. Ở trong kinh có nói rằng, giáo pháp của Đức Thế Tôn phải tới và thấy tận mặt. Cũng như chúng ta đã ngồi chung với nhau, đi thiền hành chung với nhau, đó là pháp. Tôi đố quí vị về kể lại cho những người khác được, kể lại nó không thể giống như sự thật. Vì vậy giáo pháp là phải tới và thấy tận mắt – to come to see yourself. Nếu các thầy, các sư cô ở Việt Nam, ở tu viện Từ Hiếu, Bát Nhã có thể tổ chức được những đám cưới như vậy để làm mẫu. Nếu những chủ nhà hàng tới coi đám cưới đó, thì sẽ buông bỏ cách của mình. Những cặp sắp lấy nhau, họ thấy được đám cưới như vậy, rồi họ sẽ đòi làm đám cưới như thế. Tôi tin chắc như vậy. Vì đã có những người lấy nhau đã ba bốn chục năm rồi, khi thấy đám cưới đó, vẫn muốn làm đám cưới lại.
 

 

Điều gì Thầy đang trăn trở nhất?

Bạch Thầy, chúng con được biết là suốt cuộc đời của Thầy là hy sinh. Ngoài chuyện tu tập Phật-pháp, Thầy còn hy sinh và trăng trở rất là nhiều cho tổ quốc Việt nam này. Trong thời đại này, trong cơn bão này, trong cơn khủng hoảng kinh tế này. Thầy có một trăn trở gì mà ở đây có đông đảo doanh nhân, Thầy nói cho chúng con nghe một điều mà doanh nhân cùng đóng góp với Thầy để chia sẻ, để cùng với đất nước giải quyết để qua cơn khủng hoảng, khó khăn trong giai đoạn này. Một điều mà Thầy đang trăn trở nhất.

 

- Ngày xưa khi còn trẻ, lúc mới có 14, 15 tuổi. Tôi đã đọc trong sách báo, và trong lịch sử của Việt Nam, đạo Phật đã đóng góp sự xây dựng một quốc gia có k cương, đã đem lại hoà bình cho đất nước nhiều trăm năm. Vào những thời đại như Lý và Trần, đạo Phật rất là hưng thạnh. Hòa bình kéo dài, tình thương rất là sâu đậm. Học giả Hoàng Xuân Hãn có viết trong cuốn sách Lý Thường Kiệt rằng: đời Lý là đời thuần từ nhứt lịch sử Việt Nam. Thuần từ nhứt, tức là có tình thương nhứt. Đời Trần đã tiếp tục đời Lý, có những ông vua như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Người nào cũng có tu thiền, người nào cũng có thực tập và đất nước có hoà bình. Đất nước hùng mạnh, có thể đánh đuổi được những binh lực rất hùng hậu như là quân nhà Nguyên.

 

Tôi nhớ một giai đoạn lịnh sử, là sau khi chúng ta đã đuổi được quân Nguyên. Thám tử đã trình lên một rương tài liệu. Trong đó có những lá thơ của một số các quan trong triều, muốn thông đồng với giặc. Để trong trường hợp Đại Việt thất bại, họ còn giữ được một vài chức vụ của họ. Tức là, có những người có hạt giống của phản bội. Vua Trần Thánh Tông trong buổi họp triều đã nói như thế này: này quí vị, có phải là mục đích của chúng ta là đánh đuổi quân giặc để dành lại độc lập cho đất nước hay không? Nếu đúng như vậy là ta đã thành công rồi, chúng ta đạt được mục đích rồi. Thì đây là lúc chúng ta tới với nhau một khối, đừng có chia rẽ, chúng ta thống nhất nhân tâm lại. Tôi đề nghị mình đem cái rương tài liệu này đốt, để cho an lòng trăm họ. Trước mặt bách quan, vua Trần Thánh Tông ra lịnh đem đống tài liệu đó đốt trước mặt mọi người. Tất cả đều vui mừng, những cái như vậy chỉ có thể làm với trái tim thuần khiết, nhân từ của một người Phật tử mà thôi. Tha thứ để làm đoàn kết.

 

Tôi cũng có trình bày với các vị lãnh đạo quốc gia. Chúng ta đã thống nhất được lãnh thổ, bây giờ chúng ta phải làm thế nào để thống nhất được lòng người, Nam Bắc một nhà. Đây là chuyện chúng ta có thể làm chung với nhau được. Đạo Phật ngày xưa đã giúp cho vua A Dục thống nhất được toàn cõi Ấn Độ, thống nhất được lòng người ở Ấn Độ. Đạo Phật có thể đóng góp rất nhiều cho sự thống nhất lòng người ở Việt Nam, sau khi chúng ta đã thống nhất được đất nước. Năm ngoái về đây, tôi có được phép nhà nước tổ chức những trai đàn chẩn tế cầu nguyện cho tất cả mọi người, người Nam cũng như người Bắc, người cộng sản cũng như người chống cộng sản, đều được chấp nhận bình đẳng với nhau. Gọi là Trai đàn Bình đẳng Giải oan Chẩn tế. Đồng bào Nam cũng như Bắc đã có cơ hội tới với nhau, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt màu da, tôn giáo hay là ý thức hệ, hay là đảng phái chánh trị, ôm lấy nhau mà khóc và cầu nguyện cho những người đã khuất, dầu người đó là người Nam hay người Bắc, người cộng sản hay là người chống cộng sản. Đó là hành động phát xuất từ trái tim thương yêu, nó có công dụng thống nhất lòng người. Nó cần thống nhất nhân tâm.

 

Điều đó chúng ta chưa làm xong, chưa làm được. Tôi nghĩ rằng chúng ta có những tiềm lực. Đạo Phật là gia sản tinh thần quí giá của dân tộc,  gia sản đó không phải chỉ riêng cho người Phật tử, mà gia sản đó là chung cho tất cả mọi người. Dầu theo Công giáo hay Tin lành, mình cũng có được, đó cũng là phần gia sản của mình. Người Cộng sản, người Công giáo, người Phật tử đều được thừa hưởng cái gia sản đó. Đạo Phật mới nhìn qua, người ta có cảm tưởng đó là một giáo lý, một tôn giáo có tính cách tín mộ, khấn cầu. Nhưng nếu nhìn cho sâu, chọc thủng được cái vỏ bên ngoài, đi vào trong thì đó là một kho tàng tuệ giác rất lớn. Một nguồn tuệ giác nếu biết xử dụng, mình giải quyết không biết bao nhiêu là vấn đề. Mình tháo gở những khó khăn của bản thân, của gia đình, của cộng đồng, của đất nước. Tháo gở bằng tâm từ bi, tháo gở bằng trí tuệ hiểu biết. Nếu chúng ta áp dụng tuệ giác đó, chúng ta sẽ thành công với tư cách một cá nhân, một sự nghiệp và với tư cách của một người công dân. Chúng ta sẽ đem sự hiểu biết và thương yêu tới cho mỗi người.

 

Niềm thao thức của tôi là làm thế nào để chúng ta có thể tới với nhau, xử dụng được nguồn tuệ giác của đạo Phật, gia sản tinh thần của đất nước. Để giải quyết những vấn đề hiện đang có, những tệ nạn xã hội đang lan tràn. Bao nhiêu thanh niên tự tử hàng ngày, bao nhiêu cặp vợ chồng bị ly tán, bao nhiêu gia đình đổ vỡ. Xì ke, ma tuý nghiện ngập, tự tử, tham nhũng, mê tín. Tất cả những điều đó là những điều chúng ta phải xác nhận là đang có và đang phát triển. Thì với sự thực tập này, với giáo dục này, với đạo lý này chúng ta có thể đương đầu được. Chúng ta có thể làm giảm thiểu tệ nạn đó, chúng ta có thể xây dựng lại được gia đình, chúng ta có thể xây dựng lại được học đường, xây dựng lại được xã hội. Cha ông chúng ta đã xử dụng được đạo Phật để xây nước, dựng nước thì tại sao chúng ta không làm được chuyện đó. Đó là niềm thao thức của chúng tôi.

 

Hiện bây giờ chúng tôi đang cống hiến nền đạo đức đó cho Tây phương. Tây phương đang xử dụng được tuệ giác đó, thì không có lý nào có gốc gác Việt Nam, mà bây giờ đây mình không xử dụng được. Chúng tôi tin chắc rằng pháp môn thực tập thành công đối với trí thức và giới trẻ ở Tây phương. Đem về Việt Nam thế nào cũng sẽ thành công. Trong những lần vừa qua, khi chúng tôi về tổ chức những khoá tu cho người trẻ, cho người trí thức thì thấy rằng giới trẻ, giới trí thức ở Việt Nam đáp ứng một cách rất nồng nhiệt. Nếu các nhà chánh trị, nếu các giới doanh thương nhận thấy được điều đó thì sẽ ủng hộ cho công việc tổ chức những sinh hoạt của chúng ta như ngày hôm nay. Để cho những giới trẻ, giới trí thức tìm thêm con đường tâm linh. Nếu chúng ta chưa có chiều hướng tâm linh trong đời sống hàng ngày thì chúng ta vẫn còn mờ mịt. Khi có con đường đi rồi thì ta không còn lo sợ nữa. Ta biết làm thế nào để giải quyết vấn đề hiện bây giờ chúng ta đang có. Thành ra chúng ta phải tin vào giá trị hiệu năng của gia sản tinh trần, gia sản văn hoá của cha ông mình để lại. Ngày xưa đã thành công thì không có lý bây giờ không thành công. Ở Tây phương thành công thì không có lý ở Việt Nam không thành công. Tôi xin quí vị để ý cho điều đó.
 

 

Nghiệp?

Bạch Thầy, gần đây các vùng kinh tế thuộc châu Á nổi lên phát triển rất mạnh và cũng gần đây thiên tai tàn phá châu Á là nhiều nhất. Đây có phải là nhân quả không? Và như vậy thì phải hiểu như thế nào về nhân quả trong doanh nghiệp, nhân quả của một quốc gia, thưa thầy.

 

- Trong đạo Phật có danh từ nghiệp. Nghiệp ở đây có nghĩa là hành động. Chữ Karma có nghĩa là hành động. Hành động dưới ba dạng là: tư duy, nói năng và động tác. Tư duy có ảnh hưởng trên sự sống. Nói năng và hành động cũng có ảnh hưởng đến sự sống. Tư duy còn gọi là ý nghiệp, nói năng gọi là khẩu nghiệp và làm có nghĩa là thân nghiệp. Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Như trong bài giảng, khi phát khởi một tâm niệm lành, một tư duy lành thì nó có khả năng chữa trị cho mình và chữa trị cho thế giới. Khi nói lên một điều lành thì chữa trị được cho mình và cho thế giới. Khi làm một điều lành thì bảo vệ được cho mình và cho thế giới. Cái đó gọi là thiện nghiệp. Còn nếu phát khi ra tư duy hận thù, đam mê, ích kỷ thì cái đó hại cho sức khoẻ mình và cho thế giới. Nói năng cũng vậy và hành động cũng vậy. Nó gây tan nát, nó gây hư hỏng gọi là ác nghiệp, là tà nghiệp. Chúng ta phải gây nghiệp tốt gọi là thiện nghiệp. Trong đời sống hàng ngày với tư cách của một con người, một người cha, một người mẹ, một người thầy, một người anh, một người chị, một nhà giáo, một nhà doanh thương thì luôn luôn chúng ta có khả năng tạo nghiệp tốt. Tạo nghiệp tốt thì sẽ có nghiệp báo tốt. Tạo nghiệp xấu thì có quả báo xấu.

 

Nghiệp không phải là vấn đề của riêng cá nhân. Nó có vấn đề cộng đồng, gọi là cộng nghiệp – collective karma. Nếu chúng ta cùng chết trong một trận động đất, hay là cùng chết trong một cơn sóng thần. Dầu cho chúng ta ở bên Hoà Lan, chúng ta có cùng nghiệp đó thì chúng ta cũng qua đấy để chết chung. Khi gánh chịu những tai nạn chung như vậy, gọi là cộng nghiệp. Trong nghiệp mình phải phân biệt biệt nghiệpcộng nghiệp. Trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Ví dụ như khi mình lái xe buýt, thị giác thần kinh của mình không chỉ có liên hệ tới mình không thôi, mà nó còn liên quan tới tất cả mọi người ngồi trên xe. Thành ra con mắt của mình và thị giác thần kinh của mình, không phải là sở hữu riêng của mình. Giá trị của sự lành mạnh của con mắt mình cũng như là tuệ giác đó, nó có liên hệ tới sinh mạng của người ngồi trên xe buýt. Cho nên nói rằng: con mắt của tôi là của tôi, thị giác thần kinh của tôi là của tôi là không đúng. Nó cũng là của người khác nữa. Do đó khi chăm sóc cho mình tức là chăm sóc cho cha, cho mẹ, cho trái đất. Gọi là giữ thân cho mẹ. Đó cũng là một phần bài trường ca mẹ Việt Nam của Phạm Duy. Mình giữ cái thân này cho mạnh khoẻ, cho nhẹ nhàng. Cái đó không phải là giữ cho mình không, mà còn giữ cho tổ tiên, giữ cho cha mẹ và cũng giữ cho các thế hệ tương lai. Đó là giáo lý vô ngã. Không có gì là của riêng một cách hoàn toàn, và cũng không có gì là chung một cách hoàn toàn. Biệt nghiệp và cộng nghiệp đan lại với nhau. Thành ra bất cứ một cái gì mình làm có tính cách xây dựng, bảo hộ, thì không những mình được hưởng mà rất nhiều người chung quanh cũng được hưởng. Bất cứ cái gì mình làm có tính cách phá hoại, ô nhiễm thì không phải chỉ có một mình mình chịu đựng, mà có những người xa gần cũng chịu đựng. Bởi vậy bây giờ thiên tai nó xảy ra khắp nơi, ở bên Mỹ cũng có bão tố, cũng có cháy rừng. Ở Á châu cũng có.

 

Á châu lâu nay chúng ta có đạo đức Đông phương. Nhưng có một thời chúng ta coi nhẹ đạo đức Đông phương và nhìn về Tây phương. Để ham muốn vào sự phát triển công nghệ và kỹ thuật. Chúng ta bỏ bê giá trị đạo đức Đông phương của chúng ta. Trong khi đó một số người ở Tây phương, họ bắt đầu chú ý tới đạo đức Đông phương của chúng ta. Chính ngay trong giới khoa học cũng nói với nhau rằng: những cái mà khoa học bây giờ đang tìm ra, đạo đức Đông phương ngày xưa đã tìm ra rồi. Như học giả Oppenheimer có nói rằng: khoa học Tây phương chỉ có thể chứng minh được bằng toán học và bằng những thí nghiệm rằng tuệ giác Đông phương ngày xưa tìm ra là đúng. Cho nên bây giờ không còn Đông phương và Tây phương riêng rẽ nữa. Chúng ta đã hoà nhập với nhau, đã toàn cầu hoá. Và cái nghiệp đã trở thành nghiệp chung rồi. Bên này khủng hoảng thì bên kia sẽ khủng hoảng. Bên kia khủng hoảng thì bên này sẽ khủng hoảng. Chúng ta đang lâm vào trường hợp đồng sinh cộng tử. Thành ra không có hy vọng rằng chỉ mình được an toàn. Và nếu có gì xảy ra thì xảy ra cho bên kia thôi, đừng hy vọng như vậy. Chúng ta lo cho người cũng là lo cho mình, cái đó là tương tức - interbeing. Phải thấy như vậy thì hành động mới chính xác. Cho nên trong doanh thương, doanh nghiệp mình phải thấy bất cứ một cử chỉ, một hành động của mình, một sự khai thác nào của mình cũng có ảnh hưởng toàn cầu. Mình phải có trách nhiệm về đất mẹ. Tên chủ đề của bài thuyếp pháp hôm nay là gieo hạt từ bi. Mỗi giây phút đều có gieo hạt từ bi, tức là phải thực tập tình thương. Gieo hạt từ bi là phương pháp duy nhất để giữ gìn đất mẹ. Đất mẹ đây là tổ quốc, đất mẹ đây là trái đất, là hành tinh của chúng ta.
 

 

Xin Thầy cho biết về Làng Mai?

Con xin hỏi một câu cuối cùng. Xin Thầy cho biết về Làng Mai. Như vậy thì doanh nhân có thể tổ chức đi thăm Làng Mai và tu tập ở Làng Mai hay không? Chúng con hình dung là rất khó, vì doanh nhân chúng con chỉ tu có một nửa thôi.

 

- Ông giám đốc của hảng Ford cũng có tới tu viện của chúng tôi để tu. Tôi có tặng cho ông ta một cái chuông. Mỗi ngày ông thỉnh chuông và thở. Các doanh nhân và các nhà chánh trị thỉnh thoảng tới Làng Mai. Có những ông dân biểu tới Làng Mai rồi cũng đi khất thực, cũng đi rửa bát, giống hệt như những người khác. Tu học cũng đàng hoàng lắm. Mỗi năm vào mùa hè tại Làng Mai, thiền sinh từ các nước về rất đông. Làng Mai rất là đơn sơ, đơn sơ một cách lạ kỳ. Chúng tôi biến những chuồng bò thành thiền đường ; biến những nhà chứa rơm trước kia thành cư xá. Nhưng tới mùa hè thì các thiền sinh nườm nượp từ các quốc gia về. Thường thường mình đếm trong mỗi mùa hè là từ 45 đến 50 nước. Thật là một trung tâm quốc tế. Nó ngược lại với chỗ này, chỗ này sang bao nhiêu thì nó bình dị bấy nhiêu. Mùa hè cắm lều được, nên chúng tôi tiếp nhận được rất nhiều thiền sinh. Đủ các giới, phần lớn là giới trẻ, giới trí thức. Có những người đem cả gia đình tới tu học và họ ở một tuần. Ở Làng Mai, nếu tới thì anh tới ít nhứt là một tuần, nếu chỉ  tới một ngày thì được khuyên là đừng nên tới. Tại vì không có thấm, một tuần thì tạm thấm để về tiếp nối được. Có những cặp vợ chồng họ tới một tuần, rồi họ thấy muốn ở thêm tuần nữa, hai tuần và có những gia đình họ ở luôn bốn tuần. Bởi vậy, nếu mình về Làng Mai thì hoặc chọn một tuần, hai tuần, ba tuần hoặc bốn tuần.

 

Thường thường sau khoá tu mùa hè, chúng tôi đi giảng dạy ở các nước như Hoa Kỳ, Anh, Đức, v.v... Mỗi nước họ đòi hỏi mỗi năm phải cho họ một khoá tu, mà ở Tây phương có biết bao nhiêu là nước. Á Đông cũng có bao nhiêu là nước: Thái Lan, Hồng Kông mỗi năm cũng đòi một khoá. Bây giờ Malaysia, Indonesia, v.v… ở đâu cũng đòi, thành ra chúng tôi thiếu giáo thọ. Nếu quí vị có ai phát tâm tu tập để thành giáo thọ, cái đó có thể gọi là doanh thương tâm linh, để đem hòa bình an lạc cho thế giới. Chúng tôi không quảng cáo, nhưng vì tu học về họ chuyển hoá, họ hạnh phúc nên họ đồn với nhau, cho nên càng ngày thiền sinh tới càng đông. Nếu quí vị qua được bên Pháp, trước hết nên nhớ rằng điều kiện bên đó rất là khiêm nhượng. Quí vị có khi phải nằm ở trong liều, phải ngủ trong túi ngủ để tu tập, không có (khách sạn) bốn sao, ba sao đâu. Có một nhà doanh thương, ông Developer. Ông làm ra từng thành phố một, vậy mà khi tới Làng Mai ông phải ngủ trong một cái liều. Vì ông ấy dài quá, thành ra ông nằm ở trong, mà chân lòi ra khỏi liều một khúc. Nhưng sau khoá tu ông trở thành một người hộ pháp rất lớn. Ông đã giúp cho trung tâm tu học Làng Mai bên Mỹ. Chúng tôi mong quí vị có thì giờ tới Làng Mai tu tập và nên nhớ rằng Làng Mai không phải là chỗ tham quan, hành hương. Làng Mai là nơi tu tập, vì vậy cho nên cố gắng ít nhất là bảy ngày thì mới thấm được. Quí vị có thể đem theo các cháu. Có các thầy, các sư cô sẽ lo chương trình tu học cho các cháu.  

 

Bây giờ xin mời sư cô Chân Không hát bài Le Sourire, sư cô có thể hát bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Bài này là bài đặc biệt của Làng Mai, do một vị giáo thọ của Làng sáng tác.

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.