Trần Nhân Tông
và dấu ấn tâm linh Phật Việt
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu
mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt
Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của
người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước
ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện
lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới
vòm trời Đông Á. Ba triều đại ngắn ngủi, Ngô, Đinh, Tiền Lê qua đi
như những viên đá lót đường cho dân tộc Việt bước vào một vận hội
mới, cả dân tộc cùng đứng dậy bắt tay nhau xây đắp lên một thời
đại thịnh trị kéo dài gần suốt bốn trăm năm, mở đầu bằng bản Tuyên
Ngôn Độc Lập, kiên định ý chí tự chủ tự cường và tinh thần lạc quan
dân tộc của Tướng quân Lý Thường Kiệt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản tuyên ngôn Lý Thường Kiệt đã được khẳng định mạnh mẽ một lần nữa
chỉ trong một khoảng thời gian ngắn không lâu sau đó: Trong khi cả
thế giời đang rung chuyển trước bước tiến vũ bảo của đoàn quân thiện
chiến Mông Cổ thì vó ngựa của đoàn quân xâm lăng hung hản này đã ba
lần phải khựng lại trước bức tường ý chí sắt thép của quân dân Đại
Việt. Cả ba lần xâm lược cả ba lần đều bị đánh tan. Việt Nam trở
thành một mối ám ảnh kinh hoàng của cả triều đình, binh tướng Nguyên
Mông, đến độ mấy năm sau, Trần Phu, một viên quan cầm đầu sứ bộ nhà
Nguyên khi đặt chân vào đất nước Việt Nam còn cảm thấy rùng mình:
Kim khoa ảnh lý đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
(Giáo sắt sáng ngời lòng thắm khổ
Trống đồng vang dội bạc đầu phơ)
Sự kiện này đã làm cho rất nhiều người, kể những nhà nghiên cứu sử
học trên khắp thế giới, không khỏi ngạc nhiên nêu lên câu hỏi: Cái
gì đã tạo nên sức mạnh vô song này? Cái gì đã là chất keo gắn bó mọi
tầng lớp, đẳng cấp xã hội dân chúng đời Trần tạo nên sức mạnh Diên
Hồng, đập tan cả một lực lượng quân sự hùng mạnh vào bậc nhất thế
giới đương thời? Thiết tưởng chúng ta có câu trả lời không mấy khó
khăn: Đó là truyền thống tâm linh Việt Phật. Tiếng trống đồng đã làm
cho sứ giả Trần Phu phải lo sợ đến bạc đầu không phải chỉ mới vang
lên dưới thời đại nhà Trần mà đã từng vang dội cả trên một ngàn năm
trước đây trong những ngôi chùa tại những thôn làng hẻo lánh của
Việt Nam, đó cũng là tiếng trống Mê Linh của Hai Bà Trưng mở màn cho
cuộc khởi nghĩa dành độc lập đầu tiên của dân tộc.
Một thời đại thịnh trị không phải chỉ được đánh dấu bằng những võ
công oanh liệt mà phải là sự phát triển đồng bộ và toàn diện của cả
dân tộc trên khắp các mặt, từ vật chất đến tinh thần. Thời đại thịnh
trị không phải chỉ có những vị vua giỏi tôi hiền mà đỉnh cao của nó
là sự phát triển về mặt trí tuệ, tâm linh. Bắt nguồn từ truyền thống
tâm linh Việt Phật này mà cả dân tộc đã biến thành một dàn hợp xướng
dưới sự chỉ đạo của một người nhạc trưởng tài ba. Và trong khung
cảnh thời đại lịch sử này đã sản xuất cho dân tộc ta một nhà quân sự
thiên tài, một nhà chính trị thông minh và trên cao hết, một nhà đạo
sư, người thầy hướng dẫn tâm linh cho toàn thể dân tộc, đó là vị
quân vương Phật tử Trần Nhân Tông.
Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông
Và Dấu Ấn Tâm Linh Việt Phật.
Nói rằng truyền
thống tâm linh Việt Phật là sợi chỉ vàng xuyên suốt thời đại thịnh
trị Lý Trần không phải là một lời nói khoa trương chỉ để nhằm thoả
mãn tinh thần tự ái dân tộc hay tôn giáo. Cứ nhìn vào lịch sử của
các chế độ quân chủ phong kiến trên toàn thế giới ta mới thấy được
cái bản sắc độc đáo của chế độ quân chủ Việt Nam dưới thời đại nhà
Trần. Các vị vua nhà Trần khi nắm vương quyền đều tuân theo một định
chế bất thành văn, họ ở ngôi trong một khoảng thời gian nào đó rồi
thoái vị, nhường ngôi lại cho con, làm Thái Thượng Hoàng lui về nơi
dân giả. Việc làm này không những đã tạo nên một sự ổn cố chính trị
cần thiết cho quốc gia, tránh được nạn tranh giành quyền lực thường
xảy ra trong nội bộ của các vương triều, nhưng đồng thời cũng là một
hành động phản ảnh sâu xa tinh thần Phật giáo vốn coi vạn pháp là vô
thường. Thế nên các vị vua nhà Trần đã không có ai tham đắm quyền
lực, bám chặt vào ngôi vị mà ngược lại, đã coi ngai vàng như chiếc
dép rách, sẵn sàng quăng bỏ bất cứ lúc nào nếu cần, không chút
thương tiếc.
Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông cũng đã liệng bỏ “chiếc giép
rách” này sau mười bốn năm cầm quyền bính, quyết định lên đường vào
núi Yên Tử sáng lập ra một dòng Thiền độc đáo Việt
Nam: Thiền phái Trúc Lâm. Một người đã ở tuyệt đỉnh của quyền lực và
danh vọng như thế, một bước là lên xe xuống ngựa, cung phi mỹ nữ, kẻ
hầu người hạ bao quanh, thế mà nay đã lìa bỏ ngôi báu vào năm ba
mươi bốn tuổi, cái tuổi được coi như đẹp đẽ nhất của đời người để
bước theo bước chân của Tổ Ca Diếp trước đây, thực hành hạnh đầu đà,
đầu trần chân đất, trong cái khí hậu khắc nghiệt của vùng nhiệt đới
Việt Nam, lặn lội khắp nơi đem mưa pháp rải ra khắp chốn, cứu độ
nhân gian. Mang trái tim Bồ Tát, nung nấu bởi ý nguyện Bồ Tát, tấm
gương xả thân vì đạo của Ngài là một sự thể hiện tinh thần Bồ Tát
đạo, khiến Ngài trở thành môt nhân vật hiếm có trong lịch sử truyền
bá đạo Phật tại Việt Nam.
Với một tinh thần nhập thế tích cực, dấn thân triệt để, đem đạo vào
đời vì hạnh phúc của nhân quần xã hội như thế, dòng Thiền Trúc Lâm
chắc chắn không thể nào lại không mang dấu ấn của người đã sáng lập
ra nó. Một người vừa thông hiểu tất cả những gì là uyên áo nhất của
giáo lý đạo Phật, nhưng đồng thời cũng biết cả nghệ thuật điều binh
khiển tướng, một nửa đời người xông pha trên mình ngựa giữ yên bờ
cõi, mang lại an vui cho trăm họ, vua Trần Nhân Tông không những đã
kế thừa được những tinh hoa của quá khứ, mà đồng thời còn có khả
năng tổng hợp được những giá trị của thời đại, từ đó với những kinh
ngiệm sống của đời mình, vua đã phát huy truyền thống tâm linh Việt
Phật đến một mức độ rực rỡ nhất, đem Phật pháp gắn liền với thế gian
pháp, biến những giáo lý cao siêu trở thành một triết lý hành động
thực tiễn, có thể tóm gọn vào bốn chữ giản dị: CƯ TRẦN và LẠC ĐẠO.
Nội dung chính của tinh thần CƯ TRẦN LẠC ĐẠO Trần Nhân Tông là gì?
Qua hành trạng và những thi văn của Ngài còn để lại, đặc biệt là “Cư
Trần Lạc Đạo Phú”, ta thấy tư tưởng của Trần Nhân Tông có những điểm
chính yếu nổi bật sau đây:
1.Tinh thần Cư Trần Mang Màu Sắc Giáo Lý Tứ Ân:
Đạo Phật không phải là một đạo xuất thế. Đạo Phật gắn liền với con
người và thời đại, thế nên trước tiên nó phải giải quyết được vấn đề
cơ bản và trọng yếu nhất của con người, đó là CƯ TRẦN. Không giải
quyết được chuyện “Cư Trần” thì đừng nói đến chuyện cao xa huyền
diệu. Không đứng vững được đôi chân trên mặt đất, thì tất cả mọi lý
thuyết dù thâm ảo đến mức nào cũng đều là những chuyện viễn vông, xa
rời thực tế. Thế nên mẫu người Phật Tử Việt
Nam theo Trần Nhân Tông quan niệm phải là mẫu người:
Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
Thi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ sáu)
Mô hình của một mẫu người Phật tử lý tưởng đời Trần vì thế không
phải chỉ là “sạch giới lòng, dồi giới tướng” để trở thành “Bồ Tát
trang nghiêm” mà còn phải là một mẫu người trượng phu trung hiếu vẹn
toàn. Thiết tưởng cũng cũng xin được mở một dấu ngoặc ở đây để lưu ý
rằng, tinh thần trượng phu trung hiếu mà vua Trần Nhân Tông đề cập
đến không phải chỉ là một sản phẩm đặc quyền của Nho giáo như người
ta thường biết. Tinh thần trung hiếu này thực ra là một bộ phận của
tư tưởng Tứ Ân đã xuất hiện từ lâu đời trong Phật giáo Ấn Độ thời cổ
xưa và sau này trở thành một lý thuyết xương sống của Tịnh Độ Tông
Phật giáo.
Sử gia Lê Mạnh Thát đã đúc kết mẫu người hình tượng đó như sau: “Đây
có thể nói là một đúc kết về hình tượng người Việt
Nam lý tưởng, chứ không phải chỉ của Phật giáo. Thực tế những người
làm nên sự nghiệp oanh liệt của dân tộc ta vào thời Trần Nhân Tông
có thể nói hầu hết đều là Phật tử, từ những vị lãnh đạo tối cao ở
trung ương như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến những người
dân ở xã ấp như Lê Công Mạnh và anh em con cháu. Vì họ là những Bố
Tát trang nghiêm nên đối với bản thân họ giữ gìn kỷ luật và sống
cuộc sống có lý tưởng. Nhưng đồng thời họ cũng là những trượng phu
trung hiếu, nên họ trung thành với tổ quốc, sống hiếu thảo với cha
mẹ ông bà.”
Nói đến khuôn mẫu con người thế gian không thể không nói đến khuôn
mẫu của con người tăng sĩ. Hình tượng đẹp đẽ này thiết tưởng chúng
ta không cần phải đi tìm ở đâu xa mà chính ngay ở hình ảnh của tổ
Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Con người tăng sĩ đó không những là một
pháp khí của thời đại mà còn là một biểu trưng cho một kẻ sĩ Việt
Nam, biết lo trước cái lo của trăm họ và vui sau cái vui của trăm
họ. Khung cảnh của thời đại lịch sử Lý Trần đã xoá đi cái biên giới
ngăn cách giữa tăng sĩ và kẻ sĩ. Suốt cả một ngàn năm Bắc thuộc, với
chính sách ngu dân, người Hán không cho mở trường học tại địa
phương, chùa chiền Việt Nam là nơi duy nhất tiếp cận với văn minh
học thuật
đồng thời cũng là lò rèn đúc, đào tạo trí thức cho nước nhà, thế nên
chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy những bậc đại tăng trong thời
đại Lý Trần đồng thời cũng là những sĩ phu “trụ tích trấn vương kỳ”
-chống cây thiền trượng xuống có thể làm yên xã tắc-.
Những vị Thiền sư Việt Nam đời Trần vì thế, tuy có về ở ẩn trong
chốn am mây nhưng tấm lòng vẫn canh cánh với chuyện nước non. Ta như
vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời khuyên bảo của quốc sư Phù Vân
với vua Trần Thái Tông khi vua lìa cung điện bỏ trốn vào Yên Tử với
ý định xuất gia: “Phàm làm đấng minh quân, thì phải lấy ý muốn
của thiên hạ làm ý muốn của mình,
và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ không
về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút
nào quên.”
2. Tinh Thần Lạc Đạo: Khơi Mạch Nguồn Cho Một Dòng Thiền Độc Đáo
Việt
Nam:
Nhà thơ Nguyễn Trãi trong một bài thơ đề tựa ở chùa Hoa Yên, Trúc
Lâm Yên Tử đã nói về vua Trần Nhân Tông như sau:
Vua Trần Nhân Tông thời trước còn để dấu tích lại,
Trong hào quang trắng thấy rõ đôi con ngươi của mắt Phật Thích Ca.
Lời tuyên xưng này không có gì là quá đáng. Một điều không ai có thể
phủ nhận được rằng tư tưởng Kinh Kim Cương là hệ tư tưởng chủ đạo
của Thiền học đời Trần và người đã phát triển tinh thần Kim Cương đế
mức độ toàn hảo nhất, lại chính Lục Tổ Huệ Năng. Thế nhưng lịch sử
đã chứng minh cho chúng ta thấy Lục Tổ là một người Việt
Nam. Thực ra cũng không cần phải đem sử liệu ra để dẫn chứng. Đọc
qua bộ Pháp Bảo Đàn Kinh, mà thực chất là một cuốn tự truyện của
Ngài Huệ Năng còn để lại, ta thấy rõ một điều rằng nếu như ngài Huệ
Năng không phải là người “ngoại quốc” thì chắc chắn là Ngũ Tỗ đã
không phải trao truyền y bát cho Ngài một cách lén lút vào đêm hôm
khuya khoắt, và cũng sẽ không có chuyện cả một sơn môn -đặc biệt là
một tông phái Thiền vốn đặt tinh thần phá chấp lên hàng đầu- đã phải
sôi sục lên vì lòng tự ái dân tộc, để môn nhân đệ tử của Ngũ Tổ đã
phải bỏ cả chuyện tu tập, chạy theo truy đuổi Huệ Năng cho đến cùng
để thu lại y bát mà họ xem như quốc bảo.
Nếu Tổ Bồ Đề Đạt Ma trước đây đã mang Thiền học Phật giáo vào Trung
quốc và trở thành vị Tổ thứ nhất của phái thiền Đông độ thì chúng ta
cũng có thể xem người thanh niên Việt Nam mù chữ Huệ Năng –vì chính
sách ngu dân của người Hán như đã nói ở trên- là vị Tổ thứ nhất của
Thiền học Việt Nam. Và, người kế thừa xứng đáng nhất của dòng Thiền
Huệ Năng, người phát triển tinh thần “Kiến Tánh Thành Phật” của Tổ
Huệ Năng đến mức toàn vẹn nhất không ai khác hơn là Trúc Lâm Tổ Trần
Nhân Tông. Trong “Cư Trần Lạc Đạo Phú” Ngài đã diễn tả lại ý niệm
ấy một cách dễ hiểu hơn:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Của báu trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Con đường “lạc đạo” đối với Trần Nhân Tông không phải là con đường
hướng ngoại mà là một hành trình quay trở về với chính mình. Quay về
với chính mình tức là quay về với bản thể uyên nguyên. Hãy cứ để cho
mạch đời tuôn chảy thì suối nguồn tâm linh sẽ khai mở và con người
sẽ tìm lại tự tánh của chính mình. Danh từ nhà Thiền gọi đó là “bản
lai diện mục”, là đạt đạo. Và khi đã đạt đạo thì mỗi một hành động
trong đời sống bình thường của con người, từ ăn, ngủ, đi đứng cho
đến hái rau, gánh nước, che củi, nấu cơm,… đều tỏa ra sáng ánh sáng
giác ngộ. Thế nên đối với Tổ Trúc Lâm, con người không phải đi tìm
chân lý ở đâu xa, chân lý nằm chính ngay trong lòng cuộc sống. Phiền
não cũng chính là Bồ Đề và cõi Ta Bà đồng thời cũng là cảnh giới
Tịnh Độ. Kho báu đã có sẵn ở trong mình mà con người cứ mãi rong
ruổi chạy đi tìm của báu ở khắp nơi, chẳng khác gì hình ảnh của
người cùng tử trong kinh Phật thường nói đến. Con người không biết
rằng họ không cần phải đi tìm cầu Phật ở đâu xa, Phật ở ngay bên
trong mỗi một chúng ta, như quốc sư Phù Vân đã khẳng định, “trong
núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó
chính là chân Phật”. Cứ sống một cuộc sống có đạo đức nhân nghĩa,
đem tình thương trải rộng ra muôn loài thì mỗi một con người đều là
một vị Phật, Bồ Tát.
Tổ Trúc Lâm đã trao truyền cho đời cái chìa khoá mở vào cuộc sống
hạnh phúc, an lạc rất mực giản dị, chỉ võn vẹn nằm trong hai chữ
“Tùy Duyên”. Giản dị nhưng lại gói trọn cái tinh yếu của đạo Phật.
Ngài chỉ cho ta thấy rằng cuộc sống là một giòng luân lưu chuyển
động bất tận. Tất cả vạn pháp hiện hữu đều do duyên sinh, duyên
khởi, tương tục và tương tác. Nắm vững chân lý này thì người ta có
thể sống tuỳ duyên, nhưng “Tùy duyên” ở đây không phải là một cuộc
sống thả nổi như lục bình trôi mà là sự tĩnh thức để tắm mát trong
dòng hiện sinh, đó là con đường “lạc đạo”. Dòng Thiền Trúc Lâm Việt
Nam đã chuyên chở tư tưởng của Huệ Năng vào đời sống thực tiễn.
Thiền học đời Trần vì thế đã gắn bó với đời sống và con người, kết
hợp hài hoà giữa triết lý và hành động, tạo nên sức sống và một
phong vị mới mang màu sắc Việt Nam. Thế nên nếu chúng ta xem ngài
Huệ Năng là vị Tổ thứ nhất của Thiền Tông Việt Nam thì người kế thừa
xứng đáng nhất không ai khác hơn là Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông.
3. Sứ Mệnh Chấn Hưng Phật giáo.
Một trong những công nghiệp lớn của vua Trần Nhân Tông còn để lại mà
đời sau không thể không nhắc đến, đó là nỗ lực hoằng truyền chánh
pháp, chấn hưng đạo Phật. Từ cuối đời Lý, đạo Phật Việt Nam đã có
những dấu hiệu suy thoái. Khi tinh thần đạo lý từ bi suy sụp thì tín
ngưỡng quyền năng ma thuật lộng hành đưa con người vào vòng mê tín.
Bên cạnh đó là những tệ trạng xã hội khác gây ra bởi sự tôn sùng
đạo Phật quá mức nhưng lại thiếu sự điều hướng, tổ chức. Chuyện đúc
tượng xây chùa tráng lệ nguy nga hơn cả cung vua là hiện tượng khá
phổ biến. Tình trạng “thiên hạ bán vi tăng” dưới thời Lý không phải
là điều đáng mừng cho Phật giáo mà là điều lo nghĩ cho tất cả những
ai có ý thức trách nhiệm. Bởi vì không thiếu gì những kẻ xấu đã lợi
dụng chốn thiền môn, cấu kết với giới tăng sĩ biến chất để làm những
điều xằng bậy. Tình hình này đã được phản ảnh trong bản điều trần
của Đàm Dĩ Mống được ghi chép lại trong Đại Việt sử lược: “Nay Tăng
đồ cùng với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, dựng bậy
thầy trò, tụ nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới trường tinh
xá, ngang nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh viện, riêng tự
gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột. Chúng làm nát tục hư
đạo, dần dần thành thói. Việc đó nếu không cấm, để lâu càng tệ
thêm”.
Đến đời Trần, tệ trạng này vẫn không có gì thay đổi, đến độ vị quân
vương Phật tử thuần thành Trần Thái Tông cũng đã phải lắc đầu ngao
ngán: “Khi tới chùa chiền, gần Phật gần kinh, mắt không thèm ngó,
phòng tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai, cuối mắt đầu mày, ham mê sắc
dục, không kiêng Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần, trố mắt ham vui, đầu
chưa từng cúi”, và “chẳng riêng người tục, cả đến thầy Tăng, kinh
luận tranh giành, cùng nhau công kích, chê các sư trưởng, nhiếc đến
mẹ cha, cỏ nhẫn lụi vàng, lửa độc rực cháy, buông lời đau vật, cất
tiếng hại người, không nghĩ từ bi, không theo luật cấm, bàn thiền
tựa thánh, trước cảnh như ngu, dẫu ở cửa không, chưa thành vô ngã”.
Sử gia Lê Văn Hưu, người được vua Trần Thánh Tông chỉ định biên soạn
bộ Đại Việt Sử Ký cũng đã nhận xét rằng hiện tượng xây dựng chùa
miễu nguy nga, độ tăng ồ ạt là một việc làm hoang phí sức người sức
của một cách vô ý thức và đưa ra lời bình luận như sau: “Của không
phải do trời mưa xuống, sức chẳng phải của thần làm cho, há chẳng
phải là khơi vét máu mỡ của dân ư ? Khơi vét máu mỡ của dân mà có
thể gọi là làm phước được ư? “
Đứng trước tình trạng này, một con người hành động và là một Phật tử
có ý thức trách nhiệm với đạo pháp, vua Trần Nhân Tông phải làm gì
đây? Vua biết chắc một điều rằng, Ngài không thể dùng quyền uy của
vương triều để chấn hưng đạo Phật. Triều đình có thể ban hành những
đạo dụ để răn dân, trừng phạt những điều sái quấy, thế nhưng quyền
lực vẫn không đủ sức mạnh để lay chuyển một tệ trạng đã bám sâu gốc
rễ trong lòng xã hội. Vua Trần Nhân Tông đã phải đi trên một con
đường gay go hơn, đó là con đường cảm hoá nhân tâm, lấy bản thân của
mình ra làm gương sáng cho người đời noi theo. Thế nên khi khoác lên
mình chiếc tăng bào, vua đã lặn lội “đi khắp nơi sức dân gian phá
hủy các dâm từ và thuyết pháp khuyên dân làm mười điều thiện”. Hào
quang của một vị vua anh hùng hai lần đại thắng quân Nguyên nay là
một tăng sĩ đầu trần chân đất đi khuyến tu vẫn có sức mạnh thuyết
phục hơn cả một ngàn đạo luật của triều đình. Sức mạnh thuyết phục
đó chính là tình thương. Thế nên khi vua ra đi, cả dân tộc đã ngậm
ngùi đưa tiễn, vì kể từ đây đất nước đã vắng bóng một đấng từ phụ.
Tang lễ của Ngài, người dân tham dự đông như nêm cối, tràn ngập từ
kinh đô cho đến bến sông Hồng đến độ linh vị của vua không thể nào
di chuyển được, thế mới biết dân chúng đã thương yêu Ngài đến mức
nào. Vua mất đi, nhưng thông điệp khuyến tu của Ngài còn vang vọng
mãi đến muôn đời sau:
Thân như hô hấp tị trung khí
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ Quyên đề đọan nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân
Thân như hơi thở mỏng manh,
Đời như mây nổi trên vành núi xa.
Tuổi xuân chớ để luống qua,
Để rồi khóc hận như là Đỗ Quyên.
(Tâm Hà thoáng dịch)
|