Bánh chưng
Ngày Tết đã đến. Các Lạc Hầu, Lạc Tướng, Quan Lang và Mỵ Nương hôm
nay được mời vào hoàng cung cùng với thân thích của họ để xem vua
Hùng gói bánh Chưng và làm bánh Dầy cúng Tết. Ngày mai là ngày mùng
một.
Vua Hùng Vương đệ nhị là một ông vua rất vui tính. Sở dĩ vua có được
nhiều người hiền tài ra giúp vua làm việc nước cũng nhờ đức tính
hoan hỷ ấy. Vua cũng rất là độ lượng nữa: rất nhiều người lầm lỗi đã
nhờ đức độ lượng ấy mà cải hóa và trở nên những người dân tốt. Vua
sửa sang pháp độ, thiết lập nhiều thuần phong mỹ tục, làm cho nếp
sống người Văn Lang càng ngày càng thanh nhã, sáng đẹp và nhân hậu
thêm. Ai cũng biết là chính do quyết định của vua mà dân Văn Lang
biết ăn cau trầu và dùng cau trầu trong các lễ cưới xin và thù tạc.
Miếng trầu trở nên quan trọng và cần thiết; miếng trầu khiến cho
không khí giao tiếp giữa mọi người trở nên vui tươi, đằm thắm và mặn
mà hơn lên. Câu chuyện của hai người nhờ có miếng trầu càng thêm đậm
đà; thiếu miếng trầu hình như là thiếu sự đằm thắm: câu chuyện có
thể trở nên lạt lẽo. Vì vậy người ta nói
“miếng trầu là đầu câu chuyện”
và ngạc nhiên thấy những tục lệ mới được vua Hùng đặt ra làm cho
cuộc sống tươi thắm và đáng yêu hơn lên.
Đã
năm sáu năm nay, dân chúng bắt chước vua Hùng làm bánh Chưng và bánh
Dầy mỗi năm để cúng tổ tiên Lạc Long. Tục lệ này đã phổ biến khắp
xứ. Nhà nào cũng đã biết làm bánh Chưng và bánh Dầy. Nhưng người ta
đồn: bánh Chưng do chính tay vua Hùng gói mới thật là bánh Chưng
đẹp. Các Lạc Hầu và Lạc Tướng tâu lại với vua lời đồn đãi ấy của dân
chúng. Vua Hùng cười. Ngài mời các quan Lang, các Mỵ Nương, các Lạc
Hầu, Lạc Tướng cùng thân quyến họ tới dự một cuộc vui trong cung và
chính ngài sẽ gói bánh và nấu bánh Chưng trước mặt mọi người. Nhưng
ngài ra điều kiện: những người tham dự phải ở lại cho đến khi bánh
làm xong và nấu chín. Mọi người được yêu cầu có mặt trong cung từ
giờ tan chầu buổi chiều để cùng ăn cơm với vua trước khi dự vào cuộc
vui.
Các em bé được tham dự rất lấy làm vui sướng. Chính những cháu nhỏ
còn được ẵm trên tay cũng được phép đến dự cuộc vui. Những em bé đã
lớn đều mặc áo đẹp và đi hài cỏ mới.
Khi những người khách đầu tiên đến thì hoàng hậu và Mỵ Nương Thanh
Dung cũng đã sắp đặt xong mọi việc. Mỵ Nương Thanh Dung là công chúa
yêu nhất của Hùng Vương. Dung nhan nàng diễm lệ không kém gì dung
nhan của một tiên nữ. Cùng với mẹ, nàng đã trang hoàng cung điện rất
tráng lệ trong dịp lễ đầu năm này. Tay nàng ôm một quả trầu sơn đỏ;
khách nào tới, nàng cũng mở nắp quả để mời trầu. Còn với các em bé,
nàng đem kẹo dừa và bánh chuối của nàng làm ra để đãi các em. Bọn
trẻ tíu tít quanh nàng như một bầy chim.
Khách đã đến đông đủ, mỗi người đều có ghế ngồi. Mọi người đều ăn
trầu. Ai nấy mặt mày rất tươi và câu chuyện nở như bắp rang. Đây đó
trong sảnh đường có những chiếc ống nhổ xòe miệng bằng đồng sáng
loáng. Các ông, các bà thỉnh thoảng lại kê miệng nhổ nước cốt trầu
vào những ống nhổ cao lớn ấy.
Bỗng có tiếng của cận vệ vọng lên:
- Đức vua Hùng ngự giá.
Mọi người đều đứng dậy. Trẻ em cũng im phăng phắc. Từ cửa ngoài,
Hùng Vương bước vào phòng, theo sau là một vị Lạc Hầu phụ tá. Vua
mặc áo đại triều rất đẹp, trên ngực có thiêu rồng. Chiếc mũ của vua
lóng lánh châu ngọc kết thành hình chim Lạc. Áo vua màu vàng, chân
vua đi hài đỏ. Vua đưa hai tay mời mọi người:
- Xin mời các vị ngồi xuống, cứ tiếp tục chuyện trò vui vẻ như
thường.
Mọi người tuân lệnh. Không khí trong sảnh đường vui nhộn trở lại
nhưng có một vài người đưa mắt theo dõi cử chỉ của vua Hùng. Ngài đi
khắp sảnh đường, hỏi thăm từng Lạc Hầu, Lạc Tướng, nói chuyện với
từng phu nhân, vuốt tóc từng em bé. Giọng ngài ôn tồn và hòa nhã.
Cuối cùng, ngài đến ngồi ở ghế dành cho ngài nơi giữa sảnh đường.
Thức ăn được quân hầu mang ra từ nhà bếp ngự. Đây là một bữa ăn đơn
giản chỉ gồm có một món xôi đậu phụng và một món cháo. Đức vua cũng
dùng cùng một món ăn như tất cả mọi người.
Cơm xong, thị vệ dọn ra giữa sảnh đường một bàn dài, trên đó các vật
dụng làm bánh được trình bày sẵn sàng. Khách đến quan sát thì cũng
chỉ thấy những vật liệu thông thường: lá dong và lá chuối rất xanh,
gạo nếp còn nguyên những hạt dài vút sạch và để ráo nước, nhân bánh
bằng các thứ đậu màu vàng đã được làm sẵn. Những vật liệu này, ai
cũng đã biết là để dùng làm bánh Chưng cúng Tết; ai cũng chỉ thao
thức muốn học cách gói bánh khéo của vua mà thôi.
Bỗng thấy thị vệ khiêng ra giữa sảnh đường một chiếc thùng lớn và
thiết lập một bếp lửa ngay tại giữa gian phòng rộng bao la. Hỏi ra
mới biết vua Hùng định luộc bánh Chưng ngay tại giữa sảnh đường. Bếp
lửa đốt lên, không khí càng trở nên ấm áp tươi vui. Mùa đông ở Phong
Châu khá lạnh.
Vua Hùng xuất hiện bên cạnh bếp lửa, lần này ngài đã thay áo gọn
gàng và giản dị. Mọi người yên lặng khi ngài mở lời:
-
Các Lạc Hầu, Lạc Tướng, các vị phu nhân, các anh, chị, em, các con
và các cháu, hôm nay ta mời quý vị đến đây để kể lại một câu chuyện
xưa, câu chuyện đã làm cho ta và quý vị trở nên thân thiết như ngày
hôm nay. Làm thức ăn để cúng giỗ Tổ tiên, việc đó người nội trợ nào
cũng biết làm, cũng có thể làm; cho đến làm bánh Chưng và bánh Dầy,
quý vị cũng đã biết. Ta biết có thể ta không làm bánh đẹp và ngon
được bằng các bà nội trợ ngày nào cũng quen tay với việc bếp núc. Sở
dĩ hôm nay ta mời quý vị là cốt để bày tỏ một tình cảm mà ta tin
rằng đất nước chúng ta cần phải bồi đắp và duy trì, đó là
sự yêu thương.
“Hồi ta còn bé, vì mẹ ta nghèo nên tuy là con vua mà ta chẳng được
sống đầy đủ về mặt vật chất như các anh chị khác. Mẹ ta lại không
cần đến sự giàu sang nên không hề than nghèo với vua cha… Bà lại còn
dạy ta nên sống đơn giản để có thì giờ tìm học những gì hay và đẹp
trong cuộc đời.
“Một hôm vua cha ra lệnh cho tất cả Quan Lang là người nào cũng phải
biện ra những phẩm vật để đem đến hoàng cung cúng giỗ tổ tiên, dặn
rằng phẩm vật phải được chế biến và soạn sửa rất chu đáo để tỏ lòng
hiếu kính và biết ơn những vị đã khai sáng ra trăm họ. Phẩm vật phải
được mang tới hoàng cung sáng mùng một Tết.
“Có cả thảy hai mươi hai vị Quan Lang, con trai của vua, mà có một
vài vị hiện đang có mặt hôm nay trong sảnh đường này, dự vào hàng
Lạc Hầu và Lạc Tướng, đang cùng góp sức với ta để giữ gìn việc nước.
“Ta là người Quan Lang nghèo nhất, lại không ở gần cung điện, cho
nên được lệnh rất trễ. Thêm nữa, mẹ ta vừa mới mất nên ta không có
ai để thưa hỏi về những việc liên hệ tới triều đình.
“Ta nghĩ: vua cha ra lệnh này giống như là bắt con cháu dự vào một
cuôc thi; hễ ai biện được phẩm vật giá quý nhất và ngon lành nhất để
cúng dâng Tổ tiên là người ấy được ban khen, chưa chừng còn được
truyền ngôi báu cho nữa. Ta hơi buồn cười, tự bảo mình chẳng nên dự
vào cuộc thi này, một cuộc thi có tính chất khoe khoang sự sang giàu
và sự khéo léo về nghề nấu nướng. Quốc gia có đẹp đẽ và hùng mạnh
hay không là nhờ những người có lòng, có đức, có hiểu biết, chớ
không phải là nhờ ở những người có nhiều tiền bạc, có thể sắm đủ các
thứ trân cam mỹ vị và có tài làm bếp khéo. Nghĩ vậy, ta bèn bỏ đi
chơi, rồi chiều về nhịn đói mà ngủ, trong lòng hơi buồn vì cuộc thi
mà vua cha đã đặt ra. Ta nghĩ dù ta có tiền bạc rất nhiều, có thể
sắm được những món sơn hào hải vị quý giá vào bậc nhất, ta cũng sẽ
chẳng tham dự vào cuộc thi đầu năm tại triều đình.
Nhưng đêm ấy trong giấc mộng, ta thấy mẹ ta. Mẹ cười rất hiền và nói
với ta: “này Liêu, con đã hiểu lầm ý phụ vương. Cha con không đòi
con sự giàu sang cũng không đòi hỏi một tài nấu bếp khéo léo. Cha
con chỉ đòi hỏi một tấm lòng, và con thì mẹ biết có tấm lòng đó”
Ta định hỏi thêm ý mẹ, nhưng mẹ chỉ mỉm cười, một tay chỉ vào đồng
lúa một tay chỉ lên trời xanh, không nói thêm gì. Rồi ta tỉnh dậy.
Ta suy nghĩ lại lời mẹ, và thấy rằng mẹ ta có lý. Một ông vua thông
minh và hiền đức như cha ta, há lại không đủ tâm sâu xa trong việc
thi tài mà bề ngoài có vẻ tầm thường như thế? Ta liền nghĩ: mở nước,
dựng nước là công trình của tổ tiên, làm sao để có thể tỏ bày lòng
biết ơn đó đối với tổ tiên, đồng thời biểu lộ ý chí muốn giữ gìn,
bảo vệ đất nước mà tổ tiên đã gây dựng ra? Không lẽ bỏ tiền ra mua
sơn hào hải vị là có thể làm được việc đó?
“Ta bỗng nhớ lại dáng điệu của mẹ ta, một tay chỏ vào đồng lúa nếp
xanh rờn, một tay trỏ vào bầu trời xanh ngắt. Đúng rồi, đồng lúa
vuông vắn kia là biểu hiện của đất; vòm xanh kia là biểu hiện của
trời. Trời thì che đất thì chở, đó là vốn liếng của tổ tiên để lại.
Ta phải chứng tỏ là ta có khẳng năng tiếp nhận và bảo vệ gia sản đó
của cha ông.
“Ta ngồi bên bờ ruộng, trầm ngâm hết buổi sáng. Đến giữa chưa ta
bỗng thấy tâm tư bừng sáng. Ta đứng dậy, đi về nhà, đem gạo nếp ra
chọn lấy toàn những hạt nếp còn nguyên vẹn và ngâm nước. Ta cũng đi
ngâm các thứ đậu. Và ta đi ra rừng, hái rất nhiều ngọn lá rong to
bản, thật xanh. Ta muốn làm một thứ bánh hình vuông, tượng trưng cho
đất, gói bằng lá xanh, tượng trưng cho màu cây cỏ xanh tươi trên mặt
đất. Bánh làm bằng gạo nếp, là thứ thực phẩm quý nhất mà cũng là phổ
thông nhất trong dân gian, ai cũng có và nghèo đến mấy cũng có. Ở
giữa bánh, ta để nhân đậu và các thứ hành thơm, tượng trưng cho
những sản phẩm mà đất mẹ cung hiến cho con người. Ta gói bánh lại
rất vuông, rồi dùng lạt tre để cột bánh. Xong ta bỏ vào nồi lớn và
luộc cho chín.
Trong
khi nồi bánh đang sôi, ta đi nấu cơm nếp. Nấu chín, ta bỏ cơm vào
cối gỗ, lấy chày gỗ giã thật nát, thật nhuyễn. Sau đó ta lấy cơm nếp
ra, nắn thành hình tròn dẹt, tượng trưng cho trời. Ta cắt lá tròn để
lót ở dưới cho xinh đẹp. Cả hai thứ bánh đều làm bằng những vật liệu
không tốn kém, những vật liệu cần thiết nhất cho sự sống của dân
chúng Văn Lang.
Khi bánh chín, ta bóc thử một chiếc để xem. Màu xanh của lá đã in
một lớp xanh lên trên màu trắng của nếp. Cắt bánh ra bằng một sợi
lạt tước nhỏ, ta thấy nếp và nhân bánh đưa lên một mùi thơm rất quen
thuộc và ngon lành. Ta biết cái bánh này có thể tượng trưng cho đất
mẹ một cách xứng đáng, và rất hài lòng. Khi cầm đến chiếc bánh tròn
màu trắng, ta thấy nó đã cứng nhắc lại. Màu trắng tinh tuyền của nếp
và hình thái tròn trịa của bánh làm cho bánh có tính cách tinh khiết
tròn đầy của bầu trời. Ta chọn mỗi thứ mười chiếc, để riêng ra rồi
đi ngủ.
“Đêm ấy, ta lại nằm mơ thấy mẹ ta. Bà không nói gì, chỉ nhìn ta mỉm
cười, có vẻ bằng lòng.
“Sáng hôm sau, ngày mồng một Tết, ta mặc áo chỉnh tề, bỏ bánh vào
hai chiếc rổ, và gánh vào triều chào vua cha. Ta thấy các anh ta
nhiều vị đã đến trước, và trình bày lên nhiều loại phẩm vật rất là
tinh tươm. Ta nghĩ ta là đồ khùng, đã đem đến những loại phẩm vật có
thể làm mọi người phì cười khi trông thấy.
“Nhưng
giờ cúng giỗ đầu năm đã đến. Ta cũng liều dâng các thứ bánh của ta
lên bàn thờ và lùi xuống để cho Phụ Hoàng bắt đầu mở cuộc hành lễ.
“Sau buổi lễ, người ta mang xuống từng phẩm vật để cho Vua Cha thẩm
xét, như đã định trước. Đức Phụ Hoàng đã dừng lại hỏi tỷ mỷ về lai
lịch của từng phẩm vật một. Có thứ chỉ tìm thấy trong rừng sâu núi
cao; có thứ chỉ tìm được dưới lòng sông đáy biển. Khi phụ vương thấy
những chiếc bánh, ngài hỏi của ai, và ta thưa là do chính tay ta làm
lấy. Ngài hỏi tỷ mỷ về những chi tiết, cách làm, ý nghĩa của hình
vuông, hình tròn, và ngài nhìn ta rất lâu, khiến ta phát thẹn. Ta ăn
mặc chẳng được tược tươm tất lắm, có đâu được như các vị Quan Lang
khác. Ngài bảo cắt hai thứ bánh cho ngài nếm thử, và khảo sát các
phẩm vật khác, tới đâu cũng hỏi thăm tỷ mỷ.
“Sau đó một tháng, ta được chiếu chỉ của ngài triệu vào cung. Ngài
bảo ta là người có lòng, có hiếu, và có khả năng giữ gìn đất nước
nối nghiệp tổ tiên, và sẽ được ngài truyền ngôi giữ nước. Ta ngạc
nhiên hỏi vì sao. Ngài bảo chính những chiếc bánh Chưng và bánh Dầy
mà ta làm và dâng cúng hôm tết đã giúp cho ngài đi đến quyết định
chọn lựa ta để trao truyền ngôi báu. Ngay chiều hôm ấy, ngài ban
chiếu cho thần dân biết về quyết định truyền ngôi. Trong các hàng
Quan Lang, không có vị nào tỏ ý gì ganh ghét.
“Bây giờ đây, giữa lúc chúng ta có mặt chốn cung điện thì trên khắp
nước Văn Lang nhà nào nhà ấy đang chuẩn bị cúng lễ tổ tiên. Ta biết
nhà nào cũng bắt chước nấu bánh Chưng và làm bánh Dầy để sáng mai
này dâng cúng. Ta đã ban chiếu về việc bánh Chưng và bánh Dầy, cũng
như ta đã ban chiếu dùng cau trầu trong các hôn lễ. Mấy năm nay,
việc dâng cúng bánh Chưng bánh Dầy đã trở nên tập tục.
“Tuy nhiên ta muốn các khanh hiểu rằng chính lòng hiếu kính, niềm
tin tưởng, sự thương yêu đất nước và ý nguyện bảo vệ đất nước mới
chính là những phẩm vật quý giá nhất mà ta có thể dâng cúng lên tổ
tiên. Làm bánh Chưng hoặc làm bánh Dầy dù đẹp hoặc ngon đến mấy
nhưng nếu không đủ lòng hiếu kính, niềm tin tưởng, sự yêu thương và
ý thức bảo vệ thì vẫn chưa đẹp và chưa ngon như ta mong ước.
“Vậy tối nay, các lạc hầu, lạc tướng, các anh chị, các con và các
cháu hãy cùng ta, đem lòng yêu thương mà gói bánh Chưng, giã bánh
Dầy để sáng mai này có phẩm vật xứng đáng dâng lên tổ tiên của giống
nòi. Ta tin rằng chúng ta sẽ làm được những chiếc bánh rất đẹp”
Vua Hùng nói xong, mời mọi người đến gói bánh. Ai cũng cảm động, ai
cũng thấy mình cùng chung một giống nòi, một đất nước. Vua tôi đều
cười vang trong không khí cởi mở của một gia đình lớn.
Năm ấy, tất cả các Lạc Hầu, Lạc Tướng, Quan Lang, Mỵ Nương và thân
quyến đã ở lại trong hoàng cung suốt đêm. Họ đã đợi cho bánh Chưng
chín, vớt đem lên bàn thờ cúng một lần với bánh Dầy. Mọi người đã
cùng với đức vua thân yêu của họ cúng lễ giao thừa trong niềm hân
hoan và tin tưởng ở tương lai đất nước…
|