Mấy
ngày hôm nay ở Nam Cali, trời thật nóng. Mặt đường nhựa mềm
nhũn dưới nắng. Khung trời thì lúc nào cũng xanh hơn hớn mầu
lụa nhưng chói chang của ánh mặt trời. Trong không khí ấy,
người ta hoặc là đua nhau ra biển hoặc nằm nhà trốn nóng. Tự
nhiên thèm những cơn mưa và những hạt mưa của thời xa xưa. Nằm
trong nhà, nhìn ra biển, trong trí nhớ lại thường hay nhắc đến
chữ “ngày xưa”, một từ ngữ mà nhân vật của Dương Hùng Cường hay
nhắc nhở. Ngày xưa. Ngày của một thời tuổi trẻ, của những mơ
mộng trẻ con đến đỗi buồn cười.
Buổi trưa hôm nay, nằm đọc lại truyện Dương Hùng
Cường. Nhìn ra nắng chói chang ngoài trời, nhớ lại những buổi xế
trưa ngoài phi đạo. Những cánh chim đi và đến, chẳng khác nào sự
ví von của máu trở về tim. Tiếng động cơ gầm rú của một thời
chiến đầy bão lửa, những cánh phi cơ nặng chĩu bom đạn của những
nỗi chết từ không trung bủa xuống địch quân. Ở Biên Hòa, thời
Dương Hùng Cường mô tả với thời sau này thật nhiều thay đổi.
Nhưng vẫn còn y nguyên nỗi bàng bạc của những người lính lãng
mạn nhiều mơ mộng. Ở phi trường Biên Hòa sau này, hình như rất
hiếm hoi những cây cao su và những tòa nhà xây gạch nung kiểu
Pháp ngày xưa. Những dãy nhà kiểu Mỹ, lầu gương kiểu Mỹ, đường
xá kiểu Mỹ… Nhưng những con người của “ngày xưa“ vẫn còn gần
gũi. Vẫn còn những nét của một thời hào hoa…
Dương Hùng Cường có hai tác phẩm : một là “Buồn
Vui Phi trường”, hai là “Vĩnh Biệt Phượng”. Cả hai đều là những
tác phẩm viết về những người Không quân và có chất Không quân
đậm đặc : một chút tếu tếu, một chút khinh bạc nhưng là của
những tâm hồn lãng mạn sống gần gũi với mây trời cao rộng. Khác
với Thế Phong, đã khởi nghiệp cầm bút từ ngoài dân sự, đi vào
không quân chỉ là một cách để yên thân nên tác phẩm của Thế
Phong “Hồi Ký Ngoài Văn Chương” được in sau này không phải là
một tác phẩm làm đẹp cho Không quân mà trái ngược lại. Thế
Phong viết trong cái tâm tư đầy mặc cảm của một người không
thành đạt, kể những chuyện để tự khen mình nhưng bộc lộ cái vị
thế yếu kém trong quân ngũ nên bất mãn chung thân…
Bốn mươi năm. Đọc lại những cuốn sách. Tâm tư
vẫn y nguyên, bất biến. Bồi hồi xiết bao, những ngày cũ xưa khi
nhớ lại. Đọc “Buồn vui phi trường “. Bốn mươi năm sống lại. Bốn
mươi năm, một thời gian thật dài để xóa nhòa tất cả, để quên
lãng hầu khắp. Thế mà, kỳ lạ quá. Rung động vẫn còn, có lúc mãnh
liệt hơn. Bởi lẫn lộn trong đó còn chân dung của tác giả được
tìm thấy, từ những ngày sống với và chia xẻ ở trại tù sau ngày
tan ngũ.
Đọc “Buồn vui phi trường" thấy được đời sống những
người lính mũ xanh của một thời kỳ có nhiều biến cố của dân tộc.
Lúc ấy quân chủng còn những bước chập chững sơ khai. Những người
trẻ tuổi xuất thân từ Rochefort, Salon, Marakech,… đã đặt nền
móng cho một không lực hùng hậu gồm hơn năm chục ngàn chiến sĩ
trong hàng ngũ và hai ngàn máy bay đủ loại về sau này. Những phi
trường lúc ấy còn nhỏ bé lắm và sinh hoạt cũng trong nhịp rời
rạc không như về sau này nhộn nhịp cùng với nhịp độ của chiến
tranh.
Những trang sách giở ra, một vùng trời nào quen
thuộc trở về, tôi có cảm giác của ngày xưa, một buổi trưa hè
ngồi đấu láo với những ông thượng sĩ già lão làng trong đơn vị.
Lúc ấy, chữ ngày xưa được nhắc đến, trìu mến và cảm khái xiết
bao. Ngày xưa, thời của những chiếc F8F khu trục, những chiếc
L’Alouette trực thăng còn vùng vẫy bầu trời. Ngày xưa, lúc các
ông tá, ông tướng của quân chủng còn là những sĩ quan thiếu úy,
trung úy bình thường. Ngày xưa khi còn Tây, còn những chuyến
viễn du, còn những giấc mơ có ga
Lyon
đèn vàng, có nàng tóc vàng sợi nhỏ… Ngày xưa, những phi trường
như Nha Trang, Pleiku, Biên Hòa,… chỉ là những ga xép, so với
thời gian về sau.
Kỷ niệm, làm sao tôi quên được những kỷ niệm thời
quân ngũ ở nơi đó. Bây giờ, từ những trang sách, giở ra, còn
tươi nguyên, nhức nhối… Người ta chỉ có một thời để yêu thương,
là lúc trở về với những điều đã thật xa và không trở lại. “Buồn
vui phi trường “ nhắc đến tâm cảm của một thời có thể nói là
nhiều mơ ước nhất của đời người. Cho nên, cái tâm trạng bồi hồi
không tránh được. Những nhân vật tượng hình bằng chính cuộc sống
nên lấp lánh nguồn sinh lực riêng. Và, một câu hỏi lại hiện ra.
Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?
Thập niên 50, 60, “Đời phi công “ của Toàn Phong
Nguyễn Xuân Vinh đã thổi một luồng gió mới vào tâm tư tuổi trẻ
thời ấy. Những bức thư gửi cho Phượng đã làm bao nhiêu giấc mộng
ấp ủ. Cất cánh vào không gian bao la, bay cao, bay xa. Hào
hùng như một tráng sĩ , như lời nhạc Không quân Việt
Nam, của Văn Cao : “phi công đâu ai tìm xác rơi.”. Quân chủng
từng bước thành lập và khởi đi từ những ý tưởng lãng mạn như
thế. Những chàng tuổi trẻ rời ghế học trò, ngồi vào phòng lái
theo tiếng mời gọi của không gian thôi thúc lên đường. Những
thần tượng một thời lên ngôi. Những cánh chim vút vào không
trung, với tinh cầu dẫn lộ. Không gian vô cùng rộng nhưng có lúc
nhỏ bé trong cần lái.
Ở Dương Hùng Cường, đọc để có một cảm giác khác.
Những trang tiểu thuyết, mô tả đời thường với những nét đáng yêu
cũng như đáng ghét của nó. Những nhân vật, có lúc buồn vui, có
cuộc đời trầm bổng, lên xuống. Khi bất mãn, ngôn ngữ phẫn nộ.
Lúc rong chơi, có ngôn ngữ giỡn đùa vô tư. Một hạ sĩ quan, xuất
thân từ Rochefort, nếu muốn thì những trường như Đà Lạt, Thủ
Đức lúc nào cũng mở rộng cửa đón chờ cho cấp bực thiếu úy từ
thời đó, và đường binh nghiệp chắc không đến nỗi tả tơi. Dương
Hùng Cường chắc có lúc cũng chạnh lòng với nỗi thiệt thòi. Nhưng
lẫn lộn trong đó, là niềm kiêu hãnh của những người khai sơn phá
thạch. Trong phẫn chí, vẫn có tự hào. Với văn chương, ông vẫn là
người luôn trân trọng tình bằng hữu, những người đã chia sẻ cùng
ông những tháng năm dài chiến tranh trên quê hương.
Đọc “Buồn Vui Phi Trường”, bốn mươi năm về trước,
tôi có cảm giác đang nhìn vào dáng tượng mình qua tấm gương phản
chiếu. Đời sống của tôi và bạn bè tôi, trong vòng rào phi
trường, có hào hùng tuổi trẻ, có sôi nổi thanh xuân. Đọc, để
thấy mình đang trên phi đạo, nhìn ngắm cánh chim đi về. Một chút
viễn mộng phương xa, thời tóc xanh môi hồng sao ngắn ngủi. Tất
cả, tồn đọng trên trang sách, nhạt nhòa. Đọc, để thấy chia sẻ
với một người nay đã về hư vô sau những gian nan cuộc sống.
Tác phẩm thứ hai của Dương Hùng Cường là “Vĩnh
Biệt Phượng “, một chuyện tình thời chiến của những chàng phi
công. Tâm và Dương là hai bạn thân cùng đơn vị, là cặp bài trùng
của phi đoàn khu trục ở Biên hòa. Dương trong một phi vụ hành
quân đã bị bắn rớt và trải qua những giây phút thập tử nhất sinh
để mưu sinh thoát hiểm. Trong khi đó ở trên trời, Tâm đã nhất
quyết không rời vùng để cover cho bạn. Kết` cuộc là Dương thoát
hiểm trở về được căn cứ. Rồi, đến khi Tâm bị bắn rớt và Dương
đau đớn khi bị mất một người thân. Họa vô đơn chí với gia đình
Tâm, Thư Hương, em gái của Tâm, bị một anh chàng bác sĩ sở khanh
dụ dỗ đến mang thai và Dương vì tình bạn đã cưu mang cái bào
thai ấy và nhận lấy Thư Hương làm vợ dù đã có người yêu là
Phượng, một mối tình trong sáng và thánh thiện. Kết quả, là Vĩnh
Biệt Phượng :
“Phượng bàng hoàng như bị ai đập mạnh một nhát
búa. Bàng hoàng hơn cả sáng nay, nghe tin Tâm chết. Tai Phượng
như ù đi, không còn nghe thấy Dương nói gì nữa. Hình như Dương
còn nói nhiều lắm nhưng Phượng như bềnh bồng lao đao muốn ngã.
Nàng phải vịn vào một thân cây để đứng vững. Dương muốn đỡ lấy
Phượng, nhưng rồi lại thôi, sau một giây ngập ngừng.
Như thế mối tình ấy tới đây là hết rồi. Trong một
khoảnh khắc Phương thấy như trên thế gian này có hai người chết,
một người là Tâm nằm trong kia và một người là Phượng đang đứng
ở đây. Mắt nàng mở lớn nhìn vào khoảng trống trước mặt và nàng
biết rằng bây giờ chỉ cần nhẹ chớp mắt là nước mắt sẽ ào ào tuôn
ra. Tiếng Dương thoảng như tiếng gió:
Thôi, vĩnh biệt Phượng !...”
Trong hai tác phẩm, Dương Hùng Cường đều lấy
khung cảnh của nghĩa trang để cho những nhân vật của mình chia
tay nhau. Ở “Buồn vui phi trường “ cũng là nghĩa trang, khi
người đàn bà vừa mất chồng nắm tay đứa con thơ đi trên con đường
nghĩa trang của buổi chiều nạt nắng. Hình ảnh cô đơn và buồn
thảm qúa. Hình ảnh của người phi công hào hùng dường như bị nhòe
đi bởi những dòng lệ thương xót. Tôi đọc truyện của Dương Hùng
Cường trong sự chia sẻ, bởi tôi biết, tác giả đã ảnh hưởng rất
nhiều của sự thực. Bàng bạc trong truyện, là tâm cảm của một
người lính rất yêu quân chủng của mình, và những nhân vật là
tổng hợp của nhiều khuôn mặt có thực của đời quân ngũ. Cái đặc
thù ấy, là của riêng của những người cầm bút Không quân.
Dương Hùng Cường hay nhắc đến những người đã chết
và họ là những khuôn mặt quen thuộc của Không Quân. Những trường
hợp trở về của những người mấp mé cái chết là những giai thoại
của quân chủng này. Như trong Buồn Vui Phi Trường, tả lúc trở
về của người phi công mà ông gọi là Ông Táo vì lúc đó chỉ khoác
cái áo mưa và không mặc quần. Cũng như, trong Vĩnh Biệt Phượng,
cũng tả rất chi tiết và sống động cuộc mưu sinh thoát hiểm của
Dương. Không phải, bay trên mấy từng cao là an toàn. Có những
cái chết của những anh hùng của những thiên anh hùng ca...
Tự nhiên, tôi nhớ lại khuôn mặt dàn dụa nước mắt
của đại úy Vũ Công Hiệp khi một mình trở về phi đạo sau khi
thiếu tá Phạm Văn Thặng phải làm crashed và hy sinh ở Kontum.
Cái lắc cánh từ giã người bạn nó đau đớn làm sao và hình ảnh một
chiếc phi cơ đơn độc trở về sau phi vụ khi buổi chiều tắt nắng ở
phi trường Pleiku là một ấn tượng nhớ đời. Một cánh chim lạc đàn
đã để lại những đau thương cho cả những người ở lại. Một điều rõ
ràng, Dương Hùng Cường trong tác phẩm của mình đã viết về những
người chỉ huy, những người bạn với cả sự cảm khái cao độ.
Với tôi, vào Không quân năm 1968, đến 1975 là bảy
năm trong quân chủng, cũng có nhiều lần cảm khái như thế. Mới
đùa dỡn với mấy đứa bạn ở phi đạo buổi sáng tiền phi thì chỉ vài
giờ sau đã nghe nổ tung ở giữa lưng trời. Và, cái cảm giác bồn
chồn lo lắng ở biệt đội khi thấy con tàu chưa về khi trời đang
tối để thấy thương mến và gần gũi hơn người phi công đang vượt
qua nguy hiểm, qua thiên nhiên mây mù khắc nghiệt, qua lửa đạn
của dàn phòng không địch …
Tác giả “Buồn vui phi trường” còn một bút hiệu
khác, tàn bạo đối với những quan tham lại nhũng. Dê Húc Càn.
Trên tuần báo “Con Ong “ thời đó, những bài viết châm biếm đã
làm nhức óc nhiều đối tượng. Lúc hung hăng như một người lên
đồng, lúc thâm thúy như một ông đồ xứ Nghệ, chất xây dựng cũng
ngang bằng với chất đả phá. Từ ngôn đến ngữ, cái chửi mất gà dân
gian của mấy bà Bắc kỳ nhà quê hòa nhập vào cái hóm hỉnh riễu
đời của Trạng Quỳnh dể thành một đồng thuận phẫn nộ trước những
sự ác, trước những bất công.
Sau năm 75, gặp Dương Hùng Cường ở trại tù Long
Khánh, tôi nhìn ra một nhân dáng mới. Phẫn nộ đời người được dồn
nén vào tiếng nói. Thấm sâu và thâm thúy. Một lời diễn tả. Một
nụ cười. Một biểu tỏ phản kháng. Diễu cợt, là một phản ứng giải
tỏa. Tôi hình tượng lại cái miệng tròn vo và đôi mắt diễn tả
linh hoạt. Những buổi trưa nóng bức nằm tán dóc dưới mái tôn hội
trường ở Long Khánh. Bộ bà ba nâu, đôi guốc tự đẽo có quai dây
cáp to tướng cùng chiếc điếu cầy hút thuốc lào tự chế là những
biểu tượng để nhớ về ông, nhà văn mà có một thời tôi yêu thích.
Dưới mắt ông, những kẻ chiến thắng chỉ là những thằng hề của
thời cuộc. Nói gì thì nói, những kẻ không chính nghĩa sẽ phải bị
hủy diệt. Trước cả ngàn người cải tạo thuộc một trung đoàn ở
Long Khánh, ông đã đấu lý với những người quản giáo về truyền
thống đoàn kết hay chia rẽ cũng như cuộc chiến vừa qua là cuộc
nội chiến hay truyền thống chống xâm lăng. Những ngu dốt mà tự
kiêu, những quê mùa mà tự hãnh, những nông cạn của ngôn ngữ loài
vẹt là đích nhắm để diễu cợt những người Cộng Sản. Không còn báo
in, báo viết, thì còn báo nói. Con ong tiêu rồi thì còn con
kiến, bù nhọt mà chích thì cũng phù mỏ như chơi. Những tay
“ăng-ten” có lúc làm ông khốn đốn nhưng rồi vì sức khỏe yếu nên
ông được thả về. Sau bị bắt lần thư hai và chết taị khám Chí
Hòa. Một hy sinh của kẻ sĩ. Hình như, không bao giờ ông hài lòng
với cuộc sống mình. Đường binh nghiệp, cấp bậc khiêm tốn. Viết
văn làm báo, nhiều tai nạn nghề nghiệp, nhiều hiểu lầm nhiều ân
oán. Thành ra, trong bất kỳ điều nào ông tỏ lộ, cũng có nét bất
mãn chung thân. Và thời thế nhiễu nhương của một đất nước chiến
tranh đã làm những ước mơ thời tuổi trẻ khi đang bồng bềnh trên
sóng nước của tàu Athos II tàn lụi đi...
Khi tôi vượt biển và định cư ở Hoa kỳ, tôi lại
được đọc Dương Hùng Cường, bài từ trong nước gửi ra hải ngoại.
Vẫn cái văn phong cũ, vẫn cái thâm thúy xưa, những bài phiếm
như những cái nhếch mép của một người thấy những nhố nhăng trên
đời. Như bài viết “Khi chàng Trương Chi không đẹp trai”. Một ý
nghĩ tinh ngjhịch. Một sự ví von gợi lại những liên tưởng. Cộng
Sản như là anh Trương Chi “người thì thật xấu hát thì thật hay”.
Còn nhân dân miền
Nam như là Công chúa Mỵ nương, khi chỉ nghe tiếng hát chưa gặp
mặt thì mê đắm mê say nhưng khi gặp mặt thì lại thất vọng vì
dung nhan quá xấu của anh chàng chài lưới. Tiếng hát Trương Chi
được ví với sự tuyên truyền đường mật của Cộng sản và khuôn mặt
xấu xí là bản chất phi nhân của chế độ hà khắc bạo ngược, lấy
cứu cánh làm biện minh cho phương tiện. Bài viết đăng ở hải
ngoại gây ra nhiều tiếng vang trong công luận nhưng cũng gây
nhiều phản ứng của công an Cộng sản. Dương Hùng Cường vi bắt
giam tại nhà tù Chí Hòa và chết trong ngục tối . Một cái chết
thảm thương nhưng cũng là một cái chết tiêu biểu cho những
người cầm bút luôn tranh đấu cho quyền tự do sáng tác và tự do
ngôn luận…
Viết những dòng tạp ghi, tưởng nhớ lai một người
cầm bút đã làm tôi yêu quân chủng của tôi. Tôi nhớ câu nói anh
em thường truyền miệng từ nhan đề của một bài viết của nhà văn
Đào Vũ Anh Hùn. Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Và, chúng ta
phải không quên những kẻ sĩ như Dương Hùng Cường. Tôi không đủ
thân thiết để nói lão Dương ơi những lời cảm xúc nhưng vẫn có
thể nói một câu: Vĩnh Biệt Dương Hùng Cường, kẻ sĩ đã sống và
chết trong một thời đại tăm tối của lịch sử. Và, một độc giả đã
ái mộ ông từ hơn bốn mươi năm trước mươi năm trong thời khắc
hôm nay có vài hàng chữ về ông với lời cầu chúc chân thành linh
hồn ông sẽ yên ổn trong cõi đời vĩnh viễn.
|