Có
những bài thơ, đọc lại là cả một sự hồi tưởng, đối với riêng
tôi. Hơn thế nữa, nó còn là một phần đời sống.
Một trong những bài thơ vừa kể, tôi viết năm
1972. Lúc đó, tôi ở Pleiku và quá giang chiếc trực thăng ghé về
thăm nhà ở lại một đêm rồi sáng trở lại đơn vị trong cùng
một chuyến bay. Khi về nhà, lúc
ấy buổi xẫm tối, tôi vội vàng lấy xe để đi chơi thì bất ngờ có
một hình ảnh làm tôi khựng lại. Hình ảnh của mẹ tôi ngồi trước
bàn thờ Phật với tiếng kinh trầm và mùi hương ngát. Tôi biết mẹ
tôi đang cầu nguyện cho đứa con ở xa. Lúc ấy, chiến tranh đang
khốc liệt với nhiều chết chóc. Ở xóm tôi, đã có nhiều chiếc xe
GMC chở về quan tài phủ cờ của những người lính tử trận là
những đứa bạn thuở ấu thời của tôi. Và tự nhiên tôi dắt xe vào
nhà, …
Góc hiên đôi mắt cuộn tròn
dong tay nắng cũng hoàng hôn bóng trời
mẹ ngồi chải tóc sợi rời
đậu vai áo một nụ cười thêu hoa
mây rơi rụng xuống mái nhà
màu lá biếc cũng nhạt nhòa cành vui
cổng gió cửa đóng ngùi ngùi
nghe sóng cuộn giữa ghềnh trôi óc thầm
mẹ ngồi bóng xế trăm năm
tay lần chuỗi tiếng kinh trầm trầm bay
khói sương ở đỉnh núi tây
nên xa xăm lắm tháng ngày mênh mông
đi về xuôi ngược bến sông
chiều như đang rụng xuống lòng phố quên
Mẹ ngồi như tạc nỗi niềm
Tóc phơ phất gọi tịnh yên trong hồn
Kinh đen con nước xuống ròng
Trơ gốc cọc để trống không mặt lầy
Đi về tôi vẫn loay hoay
Chợt nghe lạnh ngọn heo may cuối trời
Mẹ
ngồi một thuở ấu thời.
Tôi nhớ lại lúc ấy trới mờ mờ tối. Tuy vội vàng vì có hẹn với cô
bạn gái nhưng có điều gì giữ tôi lại. Không phải là tiếng kinh
hay mùi nhang khói, cũng không phải là đôi mắt Phật Bà hiền từ
trên bàn thờ. Mà,
bởi
vì cái vóc dáng của mẹ ngồi, trong không gian, thời gian vô
cùng tĩnh lặng cầu nguyện cho mình.
Thế mà, bỏ đi thì không đành lòng. Tối hôm ấy, tôi trằn trọc
trong chỗ nằm của mình, với cảm giác bâng khuâng khó tả. …
Tôi nghĩ mình không phải là một đứa con ngoan ngoãn.Tôi có tuổi
nhỏ ngỗ nghịch và ở trong xóm là đứa đầu têu
cho những chuyện nghịch phá. Lớn lên, lại không cố gắng học đại
học như anh tôi hoặc đứa em tôi mà lại đi lính. Trong khi mẹ tôi
thì chủ trương dù nghèo thế nào chăng nữa các con bà cũng phải
học cho đến khi không còn cố gắng được nữa dù bà là một người ít
học. Năm
Mậu
Thân
cha tôi mất, rồi nhà bị cháy, nhưng mẹ tôi vẫn cố gắng xây dựng
lại với một nỗ lực vô biên.
Cuộc đời mẹ tôi, trải qua nhiều khó khăn nhiều lo toan khổ cực
và với đàn con như một con gà mẹ luôn xòe cánh ra che chở và
chống đỡ lại những nghiệt ngã của cuộc đời.
Mẹ hay kể lại những năm đói hay những cuộc chạy loạn trong
cuộc đời mình. Bà vẫn nhớ những người đã cưu mang giúp đỡ đến
nỗi mấy đứa con khi nghe một câu đầu đã tiếp theo ngay câu thứ
hai, và bà cười nhưng vẫn tiếp tục cái câu chuyện đã quá quen
thuộc ấy. Bà nhắc đến khi chạy loạn, ghé vào chùa của sư cô Khoa
có cây khế đã thành thức ăn thanh đạm trong nhiều ngày cho cả
gia đình hay những khi bố tôi phải vào rừng kiếm gỗ đẽo guốc để
bán những lúc
khó khăn. Thời gian lúc đó, với bà vẫn gần gũi quen thuộc như
lúc hiện giờ, sáng sớm ra chợ mở cửa hàng buôn bán như một công
việc đã kéo dài năm này qua tháng khác.
Tôi đi xa rồi lại về gần, khi làm việc ở phi trường Biên
Hòa gần Sài Gòn nhưng bản tính lông bông nên ít khi ở nhà.
Nhưng, bên cạnh tôi hình như lúc nào cũng có cái bóng của mẹ
tôi, nương tựa thì không đúng hẳn nhưng vẫn là một điều gì giúp
đỡ ân cần. Tôi tin chắc, khi có điều gì khó khăn, sẽ có sự chia
sẻ của người thân yêu nhất của mình.
Năm 1975, những phi đoàn F5 dời về phi trường Tân Sơn Nhất lúc
đầu tháng tư. Và tháng chót trong đời
quân ngũ của tôi là thời gian ở đây. Tình hình lúc này nặng
nề với bao nhiêu biến chuyển của đất nước.
Trong đơn vị, câu
chuyện hàng ngày vẫn bao quanh câu hỏi đi hay ở. Còn ở gia
đình, cũng câu hỏi tương tự. Mẹ tôi vẫn một câu nói. Đứa nào đi
được thì cứ đi, đừng có lo cho người khác, nhất là những đứa có
thể có những phương tiện. Bà nói, mẹ đã có nhiều thời gian sống
với bọn “họ“ rồi. Khổ sở lắm … Khi sửa soạn những túi xách để ra
đi, bà cứ chép miệng. Qua Mỹ rồi, làm gì có trầu mà ăn!
Những miếng trầu, là cái thú vui của bà cũng như xem và nghe các
tuồng cải lương. Những miếng trầu, suốt mấy chục năm, đã
thành một thói quen thân yêu không thể nào bỏ. Thế mà, vì nghĩ
đến mấy đứa con, bà quên đi cái tập quán ấy, chấp nhận ra đi…
Rốt cuộc, gần như cả gia đình tôi di tản được năm 1975. Riêng
tôi, còn nặng nợ nên kẹt lại, dù đã đi xuống phi trường Bình
Thủy nhưng không thoát được phải trở về nhà. Cái giây phút phải
leo vào nhà sao thê thảm. Cửa dưới bị niêm phong, nên phải leo
lên lầu để vào nhà. Khi nhìn thấy vât dụng của những người thân
trong nhà tôi thấy nghẹn ngào. Vật thì còn đây nhưng người thì
đã đi xa. Tôi nhìn giường ngủ của mẹ, nhìn đôi dép nhung dưới
sàn, nhìn ô trầu, nhìn cái áo vắt trên thành giường, tự nhiên
tôi muốn òa khóc. Những lá trầu đã héo vàng, những miếng cau đã
quăn queo, những vệt vôi têm đã khô bong ra, như biểu tỏ của nỗi
niềm chia ly vĩnh viễn. Lúc đó tôi nghĩ chẳng bao giờ gặp lại
được những người thân. Cái cảm giác tuyệt vọng làm tôi như muốn
ngạt thở. Nhưng rồi vẫn phải nén cảm xúc và vẫn phải sống và
thoát đi cái địa ngục đang dần hiện đến của số phần những người
thua trận.
Đi tù rồi trở về Sài Gòn, chờ đợi những chuyến vượt biên, thỉnh
thoảng tôi lại đi qua để nhìn vào căn nhà thời xưa của mình cũng
như sạp bán vải trong chợ Bình Tiên của mẹ ngày xưa. Cảnh vật
cũng thê lương ảm đạm như người lúc đó. Buôn bán khó khăn,
phiên chợ mất đi cái náo nhiệt thời xưa và người mua kẻ bán
tràn ùa ra lề đường với kiểu buôn bán tạm bợ chỉ biết ngày nay
mà không thể mường tượng được sinh kế của ngaỳ mai. Từ những
người đàn bà buôn gánh bán bưng trên hè phố tôi lại nhớ đến mẹ
tôi. Không biết bây giờ bà ra sao và đời sống thế nào? Sau này,
khi nghe kể lại, khi tạm cư ở đảo Wake, mẹ tôi thường xuyên ra
cầu tàu nhìn mông về phía biển và đợi một chuyến tàu ghé bến có
đứa con của mình.
Bà chờ đợi và chờ đợi…
Tôi vượt biển tới đảo Kuku rồi Galang năm 1980. Trong vài tháng
chờ định cư, tôi đã sống những ngày tự do thật vui vẻ. Mấy đứa
em gửi thư qua nói anh hãy xem thời gian hiện tại như là đi nghỉ
hè, qua đây sẽ làm việc học hành đến không kịp thở.
Đến Mỹ, sau một thời gian ngắn tôi lao vào cuộc sống mới. Vừa
học vừa làm, với cái tâm tư cố gắng bây giờ cho ngày mai. Mẹ
tôi hàng ngày thúc đẩy ; Ráng học cho có một cái nghề.
Ở
đây mà lông bông không nghề nghiệp không bằng cấp thì khổ lắm.
Không phải với riêng tôi mà cả với mấy đứa cháu nội, cháu ngoại
bà cũng khuyên nhủ như thế. Gia đình mình không có gia tài cha
ông để lại, thì phải gắng học để có của cải cho riêng mình. Có
lúc có mấy người bạn rủ tôi mở tiệm furniture, lúc ấy làm ăn
rất dễ dàng mà vốn liếng chẳng bao nhiêu. Nhưng mẹ tôi cản, nói
học phải là công việc chính để chừng nào xong sẽ tính sau.
Mỗi buổi sáng sớm mẹ tôi dậy sớm sửa soạn bữa ăn sáng cho tôi và
mấy đứa cháu cũng như bới cơm mang đến trường. Trên bàn ăn là
một dãy năm cạp lồng cơm để thứ tự và món ăn thay đổi ngon
lành. Kết quả là bây giờ, mấy chú cháu, cậu cháu đều tốt
nghiệp hậu đại hoc và đều có công ăn việc làm tốt. Và, như thế
mẹ tôi hài lòng lắm.
Thời gian qua đi tôi lập gia đình và mẹ tôi già thêm và sức khỏe
cũng dần giảm sút. Một điều không may là suốt trong hơn chục
năm sau cùng mẹ tôi bị bệnh đau nhức hành hạ. Mà nguyên nhân
thật vô duyên. Mẹ tôi bị bệnh mà người mình gọi là bệnh
”dời leo”. Nếu chữa trị đàng hoàng thì có lẽ không bị hậu quả
như thế. Đằng này ông bác sĩ gia đình mà cũng là một nhà văn có
viết lách, lại khám bệnh sai và cho là bị phản ứng thuốc. Ông
ta còn có những chuyện mà tôi gọi là vô trách nhiệm, khi mẹ tôi
phải vào bệnh viện ban đêm, gọi ông ta thì ông bịt mũi cho khác
giọng và trả lời không có nhà. Với một người có quen biết mà cư
xử như thế thì thật là hết ý kiến…
Nhưng cũng có những người giúp đỡ thật chân tình. Như bác sĩ
Phạm Gia Cổn đã dùng phương pháp đặc biệt để chữa đau mà không
tính đến tiền bạc và ông hẹn lúc sáng sớm ở một văn phòng của
một người bạn bác sĩ khác. Lúc nào ông đến sớm trước hẹn và
trước sự áy náy của tôi ông vỗ vai :
"không
phải vì tôi quen biết với cậu mà đối xử thế này mà với tất cả
bệnh nhân tôi đều cư xử như thế...”
Hay như bác sĩ Bích Liên, cũng thường xuyên ghé đến thăm nom
khi mẹ tôi nằm trong bệnh viện. Hay bác Lê Mộng Ngọ, một trưởng
hướng đạo và một nhà giáo dục và cũng là một bậc thầy về châm
cứu đã chữa trị cho mẹ tôi cả năm với cả sự tận tâm và thân
ái. Những ân tình ấy, riêng tôi và cả đại gia đình không thể nào
quên.
Và rồi hôm nay, trong ký ức, lại hiện về những hình ảnh cũ,
những xúc cảm xưa.
Tháng tám ở Cali
năm nay trời cực nóng. Đất trời hình như cũng xao xuyến vì
những nỗi niềm nào. Trong dòng nhân sinh trôi đi, chuyện hiện
tại và tương lai hay hiện tại bị xóa nhòa trộn lẫn vào nhau
trong vòng quay siêu tốc của đổi thay dời đổi. Nhưng, có một
điều, tâm cảm con người không đổi và lúc nào cũng bàng bạc ẩn
giấu những nỗi nhớ thương…
Tháng tám, trời nóng và khô. Một ngày chủ nhật,
tôi đến chùa nghe kinh và đọc kinh. Có lẽ, ở đời sống này, tôi
đã lờ mờ thấy những gì gọi là tạm bợ. Hình như, tôi có cảm giác
rằng những ngày bây giờ chỉ là bắt đầu cho một chu kỳ dù rằng
bây giờ tôi đã qua tuổi năm mươi để đến tuổi sáu mươi. Sinh lão
bệnh tử, một vòng tròn kín, có phải ? Và, có ai hiểu được lẽ
thành trụ hoại không ?
Hôm nay, có một cô bé hỏi tôi. Chú cài bông hồng mầu gì ? Và tôi
trả lời.
Mầu trắng.
Một cách phản xạ. Nhớ lại vành khăn trắng, mùi nhang khói, đôi
mắt nhắm lại của mẹ ngày nào, tất cả làm tôi như hụt hẫng. Đọc
những câu kinh, nhìn lên bàn thờ Phật, để trấn tĩnh lại. Đôi mắt
Đức Phật, như có chút gì xẻ chia,
như có chút gì an ủi. Mẹ tôi đã đi xa. Bây giờ,
hết rồi, không còn nụ cười móm mém mắt cũng cười theo khi nhìn
con cháu. Bây giờ hết rồi không còn những chuyện kể ngày xưa lúc
ở phố Lạng Sơn hay ở làng Phù Lưu. Bây giờ, mẹ đang nằm trong
lòng đất xứ người. Và biết đâu, ở cõi âm phần đó mẹ trở về lại
quê hương, để ghé thăm ngôi nhà cũ, ngõ làng xưa.
Biết đâu…
Tháng tám, trong tôi những cơn gió.
Quỳ trước chánh điện, tôi quên đi cái nóng nực của thời tiết để
theo cánh gió như cánh buồm của lời kinh dẫn dắt suy nghĩ của
tôi đến một nơi chốn mà có lẽ đã xa vời mà sao gần gũi.
Đời sống có lúc sao ngắn ngủi. Nhớ lại cả cuộc đời của mẹ, hình
như không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Khi còn trẻ, vì chồng.
Khi góa bụa, vì con. Những lúc ngặt nghèo, bao giờ cũng giang
tay ra chịu hết nhọc nhằn cho con cho cháu. Sống ở xứ người cũng
như khi sống ở quê nhà, nỗi vui của con cũng là nỗi vui của mẹ
và cái đau xót của cháu con cũng là cái xót đau của bà…
Có một lúc nào như khi trong trại cải tạo nghe bài “Lòng mẹ“
tưởng không bao giờ gặp lại khi mẹ tôi đã di tản vào những ngày
tháng tư năm 1975. Hay như bây giờ nghe bài “Bông hồng cài áo“
để thấy trong dạ thổn thức. Lúc ở nghĩa trang, nhìn những con
chim sáo đen mổ những hạt cơm cúng, tự nhiên tưởng tượng đến
những ngã đường nào mù mịt trong cõi âm phần. Ra đi hay trở về,
hiện tại không xác định được. Nhưng chỉ mường tượng một điều
cuộc sống sẽ còn dài
chẳng phải ngày một ngày hai mà chấm dứt…
Có một bài thơ, đọc lại như một hơi thở dài, bâng khuâng…
Tháng tám những ngọn gió trở về.
Những ngọn gió từ thung lũng hoang sơ
Khi thành phố dòn những mái nhà khô cong rêu xám
Mưa đời ôi đánh thức tôi
Làm một bài thơ nhớ mẹ.
Tự hỏi mình
Có chuyến xe nào ra đi không về
Như chiếc xe tang mầu trắng hôm đó.
Cỏ có bao giờ rạp dưới gót giày
Khi nắng nhuộm vàng những cụm mây
Và nước mắt như dòng sông mùa hạn
Kiếm một góc khuất
Để khóc thỏa thuê
Sao cạn khô tuyến lệ
Có nỗi đau nào từ ngực trái
Đến tận đỉnh đầu như cơn buốt thịt da
Ta đứng vững hai chân
Sao nghe mặt đất rung lên từng chập
Không phải cơn địa chấn
Hãy hỏi ký ức ta ?
Hãy hỏi ký ức ta
Những ngày xưa đã cũ
Bước chân nào ghé qua
Phận đời ai tạm trú
Hãy hỏi trong lòng ta
Có bao giờ nhỏ lệ
Ta có biết tuổi già
Như mặt trời bóng xế.
Hãy hỏi góc hồn ta
Dấu những gì nuối tiếc
Hỏi ta, hỏi chính ta
Đến bao giờ vĩnh biệt
Viết về mẹ. Một đề tài với tôi đã ấp ủ từ bao nhiêu lâu, tưởng
khi bắt đầu thì sẽ câu tiếp câu, chữ tiếp chữ ào ào dễ dàng. Thế
mà, tôi vẫn ngồi loay hoay, đánh vật với chữ nghĩa. Có những nỗi
đau, tôi không muốn ngồi nhai lại. Có những hối tiếc, tôi muốn
quên đi. Tự hỏi mình có bao giờ làm cho mẹ buồn chưa thì câu trả
lời một cách thành thực là rất nhiều. Đứa con ngỗ nghịch cứng
đầu, chính tôi. Đứa con sau những trầm bổng cuộc đời mới hiểu
được thế nào là tình thương người mẹ. Nhưng khi nhìn mẹ nằm
thiêm thiếp ở giường bệnh của nhà thương, tôi thấy lo, thấy buồn
mà bất lực không làm gì được. Đời sống cứ thế cuốn trôi đi,
chuyện phải đến đã đến. Có sinh có tử thì phải có luân hồi, câu
kinh ấy đã đọc bao lần mà vẫn ngâm ngùi…
Hôm nay ở chùa đông ngợp những người. Ngày xưa Đức Mục Kiền Liên
trả hiếu cho mẹ thì bây giờ những người con tưởng nhớ đến mẹ
cha. Những nụ hồng được gắn lên trên áo…
Tôi trở lại nghĩa trang
Con đường Bolsa ngoài kia náo nhiệt
Mà ở đây.
Trên bãi cỏ xanh
Những chú sáo đen vẫn ngơ ngác trên bia mộ.
Ở trong lòng đất
Hình như tiếng hát cất lên.
Không phải tiếng chú dế ngày xưa
Cũng chẳng phải tiếng dương cầm buổi tối Sài gòn
Có phải tiếng nhạc chiêu hồn trong đêm khuya bệnh viện.
Không phải không phải đâu !
Chỉ là âm thanh đồng vọng của những tháng ngày nào
Mẹ ngồi nhìn ra mặt đường
Bất động
Khi giọt nắng ban trưa rót vào ô cửa kính.
Hình như có bước chân
Rất nhẹ.
Như tiếng gió thì thầm.
Những cơn gió tháng tám. Thổi về từ tháng bảy âm lịch mưa dầm
sùi sụt quê nhà. Có nỗi buồn nào như những chiếc lá khô rụng rơi
theo chiều gió. Ở Cali, trời vẫn nóng. Không có ai mặc giùm mầu
áo xanh để nhớ lại những cổng chùa gió bay lồng lộng quê nhà. Và
mầu hoa hồng, dù đỏ hay trắng vẫn bát ngát tình thương và nhắc
nhở đến từ nhịp đập trái tim của những người xa xứ.
Những cơn gió tháng tám. Ơi những cơn gió gửi vào trí nhớ tôi
những giọt lệ. Những giọt lệ mà có lúc tôi đã gói kín vao cảm
xúc. Làm sao trong cái nghẹn ngào riêng mình thấy mình như ấu
thơ giữa những gian truân đã trải qua. Lạ lùng làm sao thấy
mình quá đơn côi trên con đường sẽ phải đi đến và đi qua của
cuộc đời….
|