Trần
Dần,
từ những trang nhật ký

A
pencil drawing of Trần Dần by Nguyễn Đình Đăng, 1986

Trần
Dần with his wife, Bùi Thị Ngọc Khuê, at their home in Hanoi

Chuyên đề về TRẦN DẦN
|
Tháng 2 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh
triết vừa công bố "Giải thưởng Nhà nước cho các tác giả có tác phẩm
hay, công trình văn học nghệ thuật giá trị cao góp phần xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc”. Danh sách những tác giả được giải
là Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm và hai vợ chồng Hoàng Phủ
Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ.
Khi biết mình được nhận giải, nhà thơ Lê Đạt
và Hoàng Cầm đã tỏ ra hân hoan và sốt sắng bầy tỏ như Lê Đạt đã nói
với phóng viên Việt Nam Net rằng một thành viên trong ban chấm giải
là Đỗ Chu đã phát biểu là “Có thể cho đây là lời xin lỗi của anh em
đối với các anh”.. Còn nhà thơ Hoàng Cầm thì tỏ ra cảm kích với kết
quả của giải thưởng.
Có nhiều người đã tỏ ra không thiện cảm với
hành động mau mắn ấy. Cái án Nhân Văn Giai Phẩm tới nay vẫn còn là
một vết thương nhức nhối. Những lời buộc tội ngày nào nhóm Nhân Văn
Giai Phẩm bây giờ vẫn rành rành ra đó, chưa bôi xóa được. Những đầy
ải, tru diệt cho cá nhân và gia đình vẫn chưa phai… Giải thưởng cho
bốn người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm thì có hai người đã ra người
thiên cổ là Trần Dần và Phùng Quán. Theo nhà văn Nguyễn trọng Tạo
thì có cả nhà thơ Hữu Loan trong danh sách những người được giải
thưởng nhưng giờ chót bị thay thế bởi hai vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc
Tường và Lân Thị Mỹ Dạ. Có lẽ, vì sự can cường bất khuất của nhà thơ
tác giả Màu Tím Hoa Sim..
Tình cờ, tôi đọc lại "Trần Dần Ghi
1954-1960”. Một cuốn sách lạ lùng. Từ tên tựa sách đến nội dung chất
chứa bên trong. Những trang sách của một người viết cho chính mình ở
thể dạng nhật ký nay một cách bất đắc dĩ thành một tác phẩm cho đậc
giả. Những dòng chữ của sự thực, một sự thực đen tối không tưởng
tượng nổi. Những bi ký ghi chép lại một thời kỳ mà con người đối xử
với nhau không giống con người. Có những sự thực, là những sự thực
chua chát, khi mà con người bị dồn đẩy vào trong những hoàn cảnh bất
đắc dĩ, và trang nhiều trường hợp phải nghĩ đến mình mà quên đi
những tình nghĩa, làm những điều mà kẻ sĩ không thể làm..
Trần Dần, một kiện tướng của Nhân văn Giai
Phẩm, người đã viết "Dạ Đài”, bản tuyên ngôn của thơ tượng trưng từ
những năm 1946 và là nhà văn, nhà thơ có năng lực sáng tạo mãnh
liệt, cũng là người chịu sự trù dập suốt cả cuộc đời của chế độ độc
tài phi nhân ”Được cái hoạn nạn” ông đã chua chát tổng kết cuộc đời
của mình. Tài ba như thế, tâm huyết như vậy mà vẫn phải chịu hết bão
táp này qua phong ba nọ dòng dã mấy chục năm cho đến lúc xuôi tay
nhắm mắt. Đọc xong những trang sách cuối, bần thần một lúc, tự nhiên
tôi thấy một nỗi buồn và mỗi khi nghĩ đến lại chạnh lòng. Cái cảm
xúc ấy kéo dài nhiều ngày trong tôi. Tưởng tượng ra trong một xã hội
mà con người phải luôn luôn sống thủ thế với nhau và tuyệt đối không
tin tưởng vào một ai ngoài chính mình. Hoàn cảnh ấy đã tạo ra một
quán tính chung để tự bảo vệ và sống còn. Trong cuộc sống ấy, mọi
người tự rào kín mình trong chu vi phòng thủ, nhiều khi phải ích kỷ
nghĩ đến mình trước và làm những công việc mà thật tình với thiên
lương con người họ không muốn. Đè nén, trù dập, tù tội, bao vây kinh
tế, thắt chặt sinh hoạt, cô lập hóa, tạo sự nghi kỵ lẫn nhau,.. bao
nhiêu là tội nạn chực chớ những người bị coi là có "vấn đề”. Những
người ấy, có thể là những người đi sai đường lối của Đảng, hay không
hưởng ứng sự suy tôn lãnh tụ hay thừa nhận quyền chuyên chính vô
sản. Chuyện chu di tam tộc tưởng là chuyện phong kiến ngày xưa,
nhưng những chuyện lý lịch, chuyện liên quan còn tàn bạo gấp nhiều
lần. Đời sống ấy quá nhiều bi kịch, mà hậu quả dành riêng cho những
nhà văn, nhà thơ có chân tài, có tâm huyết lại càng ghê gớm hơn như
trường hợp Trần Dần. Lúc còn trẻ, tù tội gian nan, sống nghèo khổ
không sinh kế, về già thì bệnh hoạn liệt bại, không có thảm cảnh nào
hơn. Đó là một mẫu chân dung nhà văn bị đầy ải và nghiến nát trong
guồng máy chính trị toàn trị độc tài..
Trần Dần viết ”Thế là tôi mất bảy năm kể từ
ngày hòa bình bắt đầu sinh sự cho đến ngày xử án. Bảy năm trong văn
học có ý nghĩa gì? Một cái chớp mắt. Bảy năm trong đời một con người
thì có ý nghĩa lắm! Chớp mắt mãi mà không xong.. ”Ngày 7 tháng 7 năm
1958 là ngày ông bị án treo bút hai năm. Thế mà không ngờ cái án hai
năm ấy kéo dài đến suốt cuộc đời.. Bảy năm, từ 1954 đến nam 1960, từ
xã hội đến con người đều có nhiều thay đổi.. Cộng sản nắm chính
quyền tao nhiều biến động cho đời sống nhân dân. Chủ trương đấu
tranh giai cấp. Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ. Cải cách
ruộng đất, đấu tố, sửa sai, bao nhiêu oan khuất, bao nhiêu máu
xương, nước mắt.
Thế mà, nhà thơ Trần Dần lại viết phê bình
phê phán lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu, là đảng viên mà lập gia đình với
người thuộc thành phần gia đình liên quan có thân nhân di cư vào Nam
bất chấp sự ngăn cấm của Đảng và về chủ trương văn nghệ thì đòi
quyền tự do sáng tác cho văn nghệ sĩ không thừa nhận chế độ chính ủy
trong văn học. Thành ra, ông là người đứng đầu sóng ngọn gió, hứng
chịu biết bao nhiêu đòn thù của chế độ. Bị phê phán bởi cả Hội Nhà
Văn điều động, bị đấu tố bởi cả một tập đoàn cầm bút đang lăm le lấy
điểm với chế độ. Trần Dần chịu những áp lực đè nặng lên đời sống
mình và gia đình mình.
Bảy năm ấy, với những trang nhật ký ghi chép
lại,đã thành một cuốn sách mà để cho những lớp người của thế hệ sau
hiểu được những tang thương dâu biển của một thế thời hỗn loạn của
lịch sử Việt Nam. Ngôn ngữ, là tiếng than ngậm ngùi, là biểu tỏ của
tâm sự không biết có ai làm tri kỷ. Những trang sách, không phải chỉ
viết về một người mà còn cho cả một thế hệ, với một sự thực mấp mé
cảnh tượng của cơn hồng thủy.
Sự thực ấy, với Trần Dần, không phải được mô
tả theo cảm quan của người đứng bên này hay bên kia chiến tuyến. Ở
cương vị người quốc gia, những tác giả của Nhân văn Giai Phẩm là
những thần tượng văn hóa, là tiếng nói của kẻ sĩ chân thật. Còn ở
phía bên kia, họ là những người phản bội lý tưởng Cộng sản, là kẻ
nội thù, là những người phải bị phê phán và tiêu diệt.
Ở nhật ký Ghi của Trần Dần, có chân dung của
một con người, có buồn vui riêng tư, có buồn bã thất vọng, có chua
chát vì tình đời và cũng có những lúc đau xót vì tình người. Đọc
những trang sách ghi nhận lại cảm xúc chân thực và rất người ấy, rõ
ràng một điều là trong hoàn cảnh ấy, khó ai cưỡng chống lại được một
guồng máy tàn bạo lạnh lùng của chế độ Cộng sản. Trừ khi, như một ý
nghĩ của nhà văn Solhzenytsin, sự dối trá bị vạch trần và chế độ bị
tan rã vì chính sự phản tỉnh ấy.
Con người, dù là văn nghệ sĩ, không phải là
thần thánh siêu việt, nên đôi lúc cũng ích kỷ, cũng tự thủ thân bằng
những hành động đôi lúc vì mình hơn là vì người. Nhưng, họ vẫn là
những người hướng thiện, có những ray rứt những ý nuốn đi gần đến
điều thiện hơn là điều ác. Nhưng xã hội ấy lại đẩy con người đi gần
cái ác hơn mà bỏ xa cái thiện. Không có bản cáo trạng nào hùng hồn
hơn những trang sách mô tả đến những nhỏ nhen, những tị hiềm, những
vết chàm của chân dung những người một thời vang bóng. Đọc xong, để
xót xa để thương cảm. Và, lại càng thấy hiện trạng của một xã hội bị
sa đọa và xuống cấp trầm trọng. Làm sao hơn được, mọi người bị đẩy
vào thế nghi ngờ nhau, tị hiềm nhau và như thế mọi đối kháng với chế
độ không có cách nào liên kết với nhau được.
Lúc tôi còn trẻ, đọc “Trăm Hoa Đua Nở Trên
Đất Bắc" của cụ Hoàng Văn Chí, hay đọc những bài thơ Trần Dần, Phùng
Quán, tôi đã nghĩ đến những sĩ phu Bắc Hà cang cường, nhưng nay đọc
lại nhật ký của Trần Dần, thì sự ngưỡng mộ ấy không giảm bớt mà còn
xót xa hơn. Từ sự thực ấy, mới hiểu được nỗi thống khổ của người cầm
bút bị treo bút. Lại càng hiểu hơn những gánh nặng đè lên vai người
mang cái nghiệp người cầm bút mà đã trở thành nghiệp.. chướng. Cái
họa văn tự đeo đuổi một đời, như những gông xiềng tuy không hiện hữu
nhưng như mơ hồ ràng buộc. Chẳng thà là một cái tội có án để dễ thở
hơn là những tội vạ cứ rình đến tạo những bi thảm cho đời.
"Trần Dần, ghi 1954-1969”, nhiều khi là nhật
ký ghi chép lại những sự kiện hàng ngày mà còn là những ghi nhận có
lúc mơ hồ không rõ ràng mà chỉ có người viết mới hiểu được. Nhưng
cũng có những đoạn rất rõ ràng minh bạch, ghi lại những sự kiện,
những ý nghĩ bắng những hình ảnh, những ngôn từ chuyên chở được tâm
cảm. Viết về thơ, với tâm thức của một thi sĩ, và thâm trầm của
người hay suy tư triết học, ông đã có những dòng chữ thật xúc tích
và chứa nhiều đam mê. Thí dụ, đoạn viết kể lại hành trình đi vào thi
ca của ông. Trước kia, ông viết tuyên ngôn của phái Tượng Trưng:
"Trước kia tôi muốn Thơ tôi thế nào?
Thời đó tôi muốn một thứ Thơ như một cơn mộng
ác, trong đó người ta giận dữ, người ta điên cuồng, người ta lồng
lộn, người ta sống hỗn độn, đang Bắc sang đông, vừa ở Bắc lại vừa ở
Đông. Người ta có thể bất phương chủ nghĩa, tự thả mình theo quy
luật một thứ biện chứng duy tâm, những hình ảnh thơ nóng bỏng cháy
như lửa, một hình ảnh ánh lên nhiều hình ảnh, hình ảnh nọ chống đối
hình ảnh kia, lôi kéo nhau trong một điệu nhảy ma quái. Đúng là một
cuộc sống chaotique, nhưng một cái chaos có harmonic của nó.. Một
cái hỗn độn có trật tự riêng của nó. Và cái harmonic, cái thần tiên,
cái trật tự đó là tùy theo tiêu chuẩn tôi cho là ý thích của tôi. Mà
ý thích của Tôi là theo tiêu chuẩn tối cao! Đó là sơ lược cái mơ ước
ngày tôi mười tám, mười chín tuổi. ”,
Lúc ấy là khi ông viết Dạ Đài. Nhưng khi
chiến tranh, Trần Dần tham gia bộ đội, ông suy nghĩ về thơ khác hơn.
Một phần nào, cuộc sống đã ảnh hưởng ông, nhưng ngược lại ông đã có
những đối nghịch sâu sắc với những người lãnh đạo văn nghệ của Đảng.
Trần Dần là một trong những người sáng lập ra tạp chí Văn nghệ thuở
đầu tiên nhưng lối thơ bậc thang của ông lại bị chê bai là lập dị
khó hiểu.. Cũng như khi soạn tài liệu giảng huấn cho các khóa đào
tạo văn công, ông bị chỉ trích là diễn dịch sai chính sách văn nghệ
của Đảng. Dù rằng sau đó ông tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và do
cái chết của họa sĩ Tô ngọc Vân đã tác động mạnh mẽ để ông hoàn tất
tiểu thuyết "Người người lớp lớp”, một cuốn tiểu thuyết duy nhất của
văn học kháng chiến thời kỳ đó về Điện Biên Phủ.. về thơ, ông đã đi
gần với chính trị hơn, để viết về thời sự, vế cuộc chiến đang diễn
ra với tất cả sự khốc liệt của nó:
“Vào chiến tranh, tôi muốn Thơ tôi như thế
nào?
Có những ngày và nhiều ngày, tôi không nghĩ
tới nữa. Lại cũng có ngày tôi nghĩ rất nhiều. Có lúc tôi tưởng như
nắm chặt chân lý trong tay rồi. Có lúc tôi tưởng như mất cả cuộc
đời!!
Lúc tôi muốn một thứ Thơ dễ dãi. Lúc một thứ
Thơ không có vần. Lúc một thứ Thơ như một hạt ngọc. lúc một thứ Thơ
kể chuyện. Lúc một thứ Thơ gồ ghề. Lúc một thứ Thơ hiền lành, có cái
khỏe của những bắp thịt hồng..Lúc một thứ Thơ rõ nghĩa. Lúc một thứ
Thơ vừa rõ nghĩa vừa mờ 100, 1000 nghĩa khác. Lúc một thứ Thơ theo
sátchinh trị từng bước một. Lúc một thứ Thơ na ná như của anh lính,
nó mát mà lành, nó hiền mà khỏe, nó thực tế… Tôi vẫn hằng nghĩ, đó
là chuẩn bị cho một cơn bão sẽ tới. Tôi góp gió cho nên trong chiến
tranh tôi mất và tôi được là những cái đó, chưa thành cái gì cả. Tôi
có thể nói chắc chắn rằng Thơ tôi chưa thành tức là chủ nghĩa chưa
đúc, lý tưởng chưa chảy vào tâm máu, chưa hóa thành những tế bào của
cuộc đời tôi. Thơ tôi chưa thành tức là con người tôi còn đang dang
dở, cuộc đời tôi chưa có ra gì. Chiến tranh đã dạy cho tôi những
điều lụn vụn, những sự thực chi tiết và bộ phận. Chiến tranh chưa
tạo cho tôi thành một người có da có thịt. Tôi chưa nhìn thấy sự
thực lớn lao nhất của cuộc sống. Cho nên không có lạ gì những ngày
đầu tiên của Hòa Bình tôi rất buồn cho những năm Chiến tranh của
tôi, tôi có những hối hận những tiếc rẻ tiếc đắt, những ý nghĩ bâng
quơ và nhạt mồm..”
Sau chiến tranh, tác giả rơi vào hụt hẫng.
Thơ đang ngơ ngác giữa ngã ba đường. Người ta (chỉ lãnh đạo Đảng)
muốn một đàng thì tâm ý ông lại ở một nẻo khác:
“..bây giờ tôi muốn một thứ Thơ như thế nào?
Những sự suy nghĩ của tôi nó kế tiếp nhau tuy
nhiều lúc tưởng rằng nó chống chọi nhau và từ bỏ nhau hẳn. Bây giờ
tôi muốn một thứ Thơ như thế nào đó giải quyết được một số những mâu
thuẫn giữa tôi và người ta và giữa tôi với tôi. Tôi muốn nhiều
nghĩa, mờ ảo mà người ta muốn rõ nghĩa rành mạch. Vì vậy tôi muốn có
một thứ Thơ nào đó có một nghĩa rõ ràng kèm theo muôn ngàn nghĩa
khác. Tôi muốn (..) không có vần, không có kỷ luật. Người ta thích
thơ dễ đọc có vần vì vậy tôi muốn có một thứ Thơ nào đó rất tự do
nhưng rất có nhịp chắc chắn, cái nhịp đó đủ sức mạnh và âm điệu để
cho tự nó có thể sinh tồn - chỗ có vần chỗ không có vần. Nó rất nhịp
nhàng nhưng đó là một cái nhịp nhàng tạo nên bằng những cái gồ ghề
khúc khuỷu, chối tai rức óc. Nhưng mà những cái đó lại nhịp nhàng.
Nghĩa là tất cả những cái xốc họp lại thành cái êm. Một cái êm rất
xốc…
Tôi thích Thơ phải có buồn có tủi, có suy
nghĩ, có thấm thía có chua xót, có đau khổ, có máu, có mồ hôi, Thơ
đầm nước mắt. Giọt mực là giọt máu, giọt mồ hôi. Accent thơ là những
accent éo le, trái ngược, giận dữ, châm chọc, tự hào, hãnh diện, hằn
học, soi mói …”
Viết một tập nhật ký là không ngoài chủ đích
ghi nhận lại những cái “được" của tác giả, những hoạn nạn khởi đầu
từ chuyện ông không bằng lòng với chính sách kiểm soát văn nghệ của
Đảng, viết bài phê bình tập thơ "Việt Bắc" của người làm thơ thuộc
loại quan chức lãnh đạo Tố Hữu. Thêm vào đó, mối tình của ông với bà
Bùi Thị Ngọc Khuê bị ngăn trở và phê phán gay gắt. Bà ngọc Khuê xuất
thân trong một gia đình Công giáo và cả nhà đã di cư vào Nam năm
1954. Bất chấp sự ngăn cấm và kỷ luật của đơn vị quân đội và đảng bộ
địa phương, Trần Dần vẫn không ngại bị gán tội "liên quan" và kết
hôn với bà Ngọc Khuê gây nên những cơn bão tố cho suốt cả cuộc đời
mình. Biết là sẽ khổ sở, biết là sẽ bị trù dập nhưng với bản tính
riêng ông vẫn bất chấp. Trong "Ghi“, Trần Dần than thở:
”..Đời một người con gái, một đứa bé và đời
tôi người ta quyết định tùy tiện như vậy sao? Vậy có nhân đạo gì nữa
không? Tư tưởng lập trường gì mà đàn áp tâm hồn người ta như vậy?
Kính gửi những người phụ trách cuộc sống ở
Việt Nam tôi buồn như thế, khổ như thế. người ta hà khắc vô lối với
đời tôi, đời người con gái tôi yêu, đời đứa con tôi sắp đẻ như thế…
Khi ấy đang có cuộc di cư vào nam và tình
hình còn nhiều lộn xộn chưa ổn định nên Đảng chưa ra tay vội mà chờ
thời gian sau thuận tiện hơn. Thế mà Trần Dần lại chọc tức bằng một
công việc táo bạo là viết bài phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu,
một người coi như là hti sĩ tiêu biểu cho văn họcmiền Bắc. Bài phê
bình rất nặng nề, coi Tố hữu như một nhà thơ giả trá, thi ca không
có hồn và toàn là sao chép lượm lặt chứ không có nét to lớn vĩ đại
của sáng tạo mà bộ máy tuyên huấn đã xưng tụng. Nhỏ nhen, Tố Hữu ra
lệnh bắt giam Trần Dần ở Việt Bắc. Vợ trần dần ở Hà nội bơ vơ một
minh, bụng mang dạ chửa, không sinh kế. Bạn bè phài thăm hỏi, giúp
đỡ, nâng cao tinh thần. Vụ ông bị bát gây ra dư luận ồn ào tại Hà
nội và Đảng buộc lòng phải dẹp yên và sửa sai bằng cách bắt buộc
Trần Dần tham gia phong trào cải Cách Ruộng Đất.
Năm 1956, nhân cơ hội chính biến ở Liên Xô,
Krushchev hạ bệ Stalin và chủ trương xét lại nên một nhóm trí thức ở
Hà Nội thực hiện "Giai Phẩm Mùa Xuân” trong đó có bài "Nhất Định
Thắng " của Trần Dần. Tạp chí này vừa in xong là bị tịch thu ngay,
Trần Dần bị đấu tố tơi bời, quy tội phản động, mang ra đấu tố công
khai trước hội nghị. Trần Dần uất ức dùng lưỡi dao cạo cứa cổ tự sát
nhưng không chết. Sau này còn vết sẹo to ở cổ.
Năm tháng sau, lợi dụng phong trào sửa sai
sau cải cách ruộng đất, nhóm trí thức này lại thực hiện "Giai Phẩm
mùa thu" và tạp chí Nhân văn. Cụ Phan Khôi viết ”Phê Bình Lãnh Đạo
VănNghệ”, nhà thơ Hoàng Cầm viết "Con Người Trần Dần”. Sau khi bị
đàn áp, đến năm 1957, báo Văn phê bình Đảng và Trần Dần đăng bài thơ
”Hãy Đi Mãi” với sự xác quyết sẽ theo đuổi lý tưởng của mình đến
cùng. Trần Dần bị kỷ luật, treo bút ba năm nhưng thực tế thì bị ghi
tên vào sổ đen đoạn trường và không một chủ nhiệm hay chủ bút nào có
gan đăng bài viết của ông nữa. Cuộc đời của ông lúc này bị cô lập,
tuyệt đườing sinh kế, cả gia đình nheo nhếch sống nghèo đói khổ cực.
Ghi lại đời mình trong những trang nhật ký,
ông trung thực trong từng ý nghĩ cũng như sự nhận định. Nhiều chi
tiết mà tới bây giờ khi đọc tới vẫn làm người đọc rùng mình ghê sợ.
Cải cách ruộng đất, vô sản chuyên chính, oan khuất chập chồng, cơ
hội cho những kẻ mặt người dạ thú cầm quyền sinh sát. Những chuyện
xảy ra, vừa bi vừa hài, tưởng là chuyện dỡn mà là sự thực. Con người
đối xử với nhau tàn bạo, phản trắc, vì quyền lợi mà đôi khi giết
nhau một cách gián tiếp, gán cho nhau những tội lỗi tày trời một
cách điêu ngoa. Trần Dần ghi chép lại. Không phẩm bình nhưng cô đọng
và lôi cuốn với sự thuyết phục. Đọc những trang nhật ký, mà ở đó, sự
thực được phô bày để rõ nét hơn một thời kỳ vô cùng đen tối của đất
nước mà chủ nghĩa Mác Lê-nin đã gây ra.
Những trang nhật ký tiếp theo từ năm 1957 là
những năm mà Trần dần viết nhiều về những người cầm bút cùng thời kỳ
với ông. Chân dung con người thực được tỏ lộ, để sự thực làm đau đớn
và thất vọng những người đọc thời sau. Xã hội ấy, thì những chuyện
như thế là chuyện dĩ nhiên phải có. Họ phải tự tạo ra áo giáp trong
cuộc sống để thủ thế và nhiều khi có những lời nói, những việc làm
trái với lương tâm ngược lại điều mong muốn.
Trần Dần viết về Lê Đạt, người mà về sau này
đã nhận giải một cách thật là "khôn ngoan" và "hồ hởi”:
“..Viện Văn Học Gorki chả lấy 8 người đi học.
Gạn mãi, ta mới chấm được 5. ! Ông Lê Đạt đâu tuyên bố: xin đi, để
tị nạn!
Hoàng Cầm cười khỉnh ”Ông Lê Đạt mà! Bão chưa
lên ông ấy đã trốn biến ngay”
Trần Dần viết về Văn Cao, HoàngCầm:
"Cuôí cùng Vcao (Văn Cao) bảo thẳng mặt HCầm
(Hoàng Cầm) rằng tính mày hay mách lẻo thì nhớ cho kỹ nội dung cuộc
gặp hôm nay đấy, có mách thì mách cho đầy đủ!
Cuộc hội đàm bẩn thỉu ấy xong rồi, không biết
Vcao có về báo cáo lãnh đạo hay không? Nhưng HCầm thì có: Anh ta gặp
ngay NĐThi (Nguyễn Đình Thi) báo cáo ra sao không rõ, nhưng cũng có
thể đoán là anh ta chắc không báo cáo đúng về riêng cái phần của anh
ta! Tphác (Tử Phác) kết luận "cả hai thằng đều như hai con đĩ rạc đĩ
rày cả. Bẩn hết chỗ nói!!”
Và đoạn khác: ”Tphác nói" rất lạ, là nó cứ
nói mình, rất cynique rằng, nó xưa nay vẫn là người tiến bộ, theo
Đảng! Kỳ thế cơ chứ, bao nhiêu lần pum, ăn uống, nó nói những gì,
bây giờ nó làm như không có cả ! mà nó lại rất thành thực cơ chứ,
Vcao quên thực hay sao! Đặng Đình Hưng bĩu môi sì một cái. "Quên. Nó
thiếu probité..thì có”.
Đang lúc kiểm thảo ở cơ quan thì tiên chỉ đi
pum. Tất nhiên là lãnh đạo phải biết! Một tối anh mò đến Tố Hữu. Tố
Hữu hỏi:
- Có còn chống đối không?
- Thôi rồi. Văn Cao nói.
- Nhưng pum thì vẫn còn chứ? Tố Hữu hỏi độp
một cái, khác gì cái tát.
Văn Cao choáng người, thú nhận vẻ xuê xoa:
- Có một lần..Hì!
- Đã mắc chưa?
- Chưa!! Hì.. Buồn quá thì lại đi..Hì!! Chứ
chưa mắc..Hì..
Văn Cao về, kể lại chuyện ấy, có vẻ khoe cái
sự thân mật của mình với Đảng đến được cái độ ấy!!”
Trong Ghi rất nhiều những đoạn ghi lại những
câu chuyện của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Những Nguyễn Tuân,Tô
Hoài, Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Quang
Dũng, Trần Lê Văn, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, Hoàng Cầm.. Những người
thưc, chuyện thực. Và ở trên tất cả là một không khí chung của một
xã hội mà mọi người không ai tin tưởng vào ai được, luôn luôn dè
chừng, canh chừng nhau, thủ thế nhau, báo cáo lẫn nhau. Ở những
khuôn mặt ấy, họ bộc lộ đầy đủ mặt xấu mặt tốt. Đừng ai bắt họ phải
tử vì đạo bởi vì trong cuộc sống họ phải vật lộn bươn chải để tự
sinh tồn nên cá tính của mỗi người hiện ra không che dấu được. Những
năm 1959, 1960, Trần Dần sống trong hoàn cảnh tận cùng khổ sở một vợ
hai con gia đình nghèo mà đơn bạc lại không được ở gần để săn sóc.
Bị cải tạo lao động chân tay ở tập đoàn sản xuất Chí Lonh ở gần thị
xã Đông Triều. Công việc nặng nhọc, không phù hơp với thể chất thư
sinh nên lâm bịnh nặng nhưng vẫn phải gượng làm việc, cố gắng để bày
tỏ thiện chí muốn tự mình sửa đổi bằng lao động. Viết văn, làm thơ,
lúc này đối với ông sao xa vời quá. Năm 1960 ông bị cảu tạo ở khu
gang thép Thái Nguyên, bị bệnh nặng nên được trở về Hà Nội. Sau đó,
ông sống âm thầm bằng nghề dịch sách, bị cấm viết một cách không
chính thức và xóa tên trong những sinh hoạt văn học. Trong "Ghi" có
kể lại những ngày tháng đó, phác sơ lược nỗi đau đớn và vẫn là những
câu hỏi để tự vấn chính mình. Lao động như thế có giúp ích gì cho
nhà văn, nhà thơ hay không…
Đọc xong cuốn sách lần đầu, tôi bàng hoàng cả
người và những lần sau đều như thế. Đời sống ấy, từ những phóng
chiếu trung thực, từ tâm tư tác giả, phản ánh một thế thời đen Thẳm.
Câu văn, ý chữ, không phải đơn thuần mà như kết tinh bằng máu lệ của
một đời người trí thức sống trong một xã hội đầy biến loạn nhiều
biến cố. Trần Dần là một người cầm bút bất hạnh, là một nhà thơ luôn
gậm nhấm nỗi bất lực của mình với cuộc đời. Cuộc sống dìm ông xuống
tận đáy vực sâu, tuổi trẻ hoạn nạn, tuổi già bệnh hoạn liệt bại cho
đến khi nhắm mắt lìa đời.
Trần Dần, tuy đời sống đầy tân toan cực nhục,
mà thơ ông vẫn khởi hành đi, đi mãi như những câu thơ:
”Tôi vẫn cháy
Ngọn hải đăng con mắt
Ở trong biển sống
Hằng đêm
Tôi vẫn đóng những câu thơ
Như người thợ đóng tàu
Chở khách
Đi về phía trước.
Nơi
Loài người
Đã biết sống chung nhau
Nơi
Tất cả
chẳng còn ai bần tiện
chẳng còn lo
cơm áo
nợ nần “
nghĩ về một thi sĩ, nghĩ về một người tuẫn
nạn bởi văn chương, tôi bắt chước ông Nguyễn Hữu Đang, khấn vái và
cầu chúc :
"Anh đi nhé và sẽ hưởng hạnh phúc lâu dài ở
thế giới bên kia!!!
|