.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác...

  Nguyễn Mạnh Trinh

Văn chương và chính trị

trong trường hợp Orhan Pamuk...

  • 25.11.2007

Có nhiều người nghĩ một cách nông cạn rằng những bài phỏng vấn không có tính sáng tạo văn chương mà chỉ là  một công việc dựa dẫm vào công trình của người khác để  tạo thành tác phẩm, chữ viết của mình. Có  lẽ họ chưa đọc hoặc không đọc những bài phỏng vấn thần sầu của Granta, của Paris Review  mà ở trong đó cả hai người hỏi và trả lời đã làm   hiển lộng tất cả tài năng và kiến thức để tạo dựng ra những bài thật là giá trị vừa đầy nét sinh động vừa chan chứa sáng tạo và khám phá.

 

 Orhan Pamuk, giải Nobel văn chương năm 2006 đã thú nhận :

“Tôi cảm thấy được an ủi và khích lệ vô cùng vì đã đọc được những dòng này  khi đang sống trong một đất nước mà nghĩa vụ với cộng đồng  được đặt lên trên hết. Tôi tìm cách đặt mua tất cả những bài phỏng vấn  của Paris Review do Penguin xuất bản. Tôi đọc chúng với tất cả sự tập trung và cảm giác khoái trá vô cùng. Dần dà ngày tới ngày, tôi tuân thủ tuyệt đối vào một  nguyên tắc  ngồi vào chỗ làm việc  cả ngày, làm thân quen với mùi thơm giấy mực  trong căn phòng lặng lẻ., là một tập quán mà tôi không rời bỏ.

 

Lúc ấy tôi bắt đầu với cuốn sách đầu tiên  Cevdet Bey and Sons   bề dày 600 trang và miệt mài suốt bốn năm trường. Mỗi khi bế tác,  như một phản ứng từ bản năng, tôi rời khỏi bàn viết, ngã mình một cách chán nản lên chiếc giường gỗ và  nghiền ngẫm những bài phỏng vấn  các nhà văn Faulkner, Nabokov, Dos Passos, hemingway  và Updike nhằm  tin tưởng hơn vào hiệu năng của văn chương và tìm phương thế vượt qua những bế tắc của mình. Khởi đầu tôi đọc những bài phỏng vấn này  vì đây là tác giả của những tác phẩm mà tôi yêu thích và tôi mong tìm được bí quyết của họ. Để hiểu phương cách xây dựng những thế giới vừa hư cấu và tưởng tượng ra sao. Nhưng rồi tôi đọc cả  các bài phỏng vấn các nhà văn  nhà thơ mà tôi  xa lạ của những cuốn sách tôi chưa hề đụng tới. Những cuộc đối thoại trên Paris Review  ít có chủ đích nhằm quảng cáo cho một cuốn sách đạc biệt trong một thời điểm đạc biệt nào. Những  tác giả được phỏng vấn hầu như là  những tuổi tên  đã lừng danh trên thế giới. Họ chỉ phát biểu về thói quen khi cầm bút, những bí mật của nghề nghiệp, về phương thức viết, hay những giây phút yếu mềm và những thời khắc phải đối mặt với nỗi khó khăn trong cuộc sống. Tôi cần thiết phải học hỏi những kinh nghiệm của họ,  cấp thiết  và ngay lập tức…”

 

Orhan Pamuk, ”người trong khi đi tìm kiếm những linh hồn sầu thảm của thành phố quê hương mình đã  khám phá được những biểu tượng mới lạ  cho những va chạm và  đan kết của những nền văn hóa” như lời  tuyên dương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển.

Năm 2005,  Orhan Kamuk cũng là một trong những người cầm bút có tên trong danh sách lựa chọn cuối cùng của giải  và sau dó là Harold Pinter là lựa chọn chung quyết.  

 

Pamuk sinh trưởng ở Istambul năm 1952 trong một gia đình giàu có  và chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Tây Phương. Ông nội ông là một kiến trúc sư đã làm việc và làm giàu trong một công ty xây dưng khi đất nước Thổ đang phát triển  thành thị. Gia tài của ông nội ông rất lớn nên  cha ông sống rất sung túc và phần lớn thời giờ là ở Paris. Còn Orhan Kamuk, lớn lên và sống ở tại thành phố quê hương. Ông đã có lần viết về thành phố của ông :  « Số phận của Istambul cũng là số phận của tôi. Tôi gắn bó mật thiết với nơi chốn này bởi vì chính nó đã tạo nên con người tôi.. »

 

Cuộc đời của Pamuk được mô tả khá chi tiết trong tiểu thuyết đầu tay viết xong lúc 30 tuổi “Cevdet Bey and his sons” và tiểu thuyết “The Black Book”.  Ông học tại Robert College tại Istambul và cũng học ngành kiến trúc tại Istambul Technical University do áp lực của gia đình muốn ông trở thành kỹ sư hoặc kiến trúc sư.  Tuy nhiên ông bỏ lớp kiến trúc sau khi đã học ba năm để trở thành một ký giả viết toàn thời gian và đã tốt nghiệp cử nhân báo chí tại Institute of Journalism  của viện đại học University of Istambul năm 1976. Năm 1985 ông được học bổng du học tại Hoa Kỳ  và học cho đến năm 1988 tại University of Iowa. Sau khi trở về Istambul  năm 2006 ông trở lại Hoa Kỳ làm giáo sư thỉnh giảng của  đại học Columbia. Ông lập gia đình với Aylin Tofajjal Turegen năm 1982 và ly dị năm 2001. Ông có một người con gái tên Ruya sinh năm 1991.

 

Ngày 12 tháng 10 năm 2006, Hàn lâm Viện chính thức tuyên bố Orhan Pamuk đoạt giải Nobel về văn chương năm 2006.  Adam Smith người biên tập web-site “nobelprize.com”  đã phỏng vấn ông  ngay sau khi công bố giải thưởng:

 

Hỏi - được biết ông đang ở Newyork, hiện ông đang làm gì khi biết tin mình vừa đoạt giải?

Đáp - ô, tôi đang ngủ. Lúc đó tôi nghĩ rằng chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa người ta sẽ công bố giải thưởng, tôi yên trí rằng sẽ có người thông báo cho mình biết ai là người đoạt giải. Tôi  băn khoăn suy nghĩ về những việc phải làm tiếp theo và mệt nhọc quá tôi ngủ thiếp đi. Rồi chuông điện thoại reo lúc bảy giờ rưỡi sáng. Tôi nhấc máy và người ta báo cho tôi biết tôi đoạt giải Nobel…”

 

Trong diễn văn nhận giải đọc ngày  7 tháng 12 năm 2006 với nhan đề  “My father’s suitcase“, Orhan Pamuk đã mang hình ảnh của người cha để  nói lên những suy tư về nghệ thuật cũng như nhân sinh quan của mình.  Cũng là một cách tránh né khéo léo để không nhắc tới những nhận định nóng bỏng  về chính trị của ông. Ông tôn vinh người cha với những ngôn từ tốt đẹp nhất về một người đã  dẫn dắt ông vào con đường văn chương.

 “Hai năm trước khi cha tôi từ trần, ông đưa cho tôi một chiếc va ly nhỏ chứa đầy những trang viết, bản thảo và sổ ghi chép. Giả đò trong sự đùa cợt hàng ngày pha chút  châm chọc, ông bảo tôi rằng ông muốn tôi đọc chúng sau khi ông đã ra đi, nghĩa là sau khi ông chết.

“Hãy nhìn qua“, ông như  có  môt chút lúng túng ”Xem ra để nếu trong đó có gì  thể xử dụng được thì sau khi tôi chết đi, anh chọn lựa lại và xuất bản nó”.

 

Chúng tôi đang ở trong phòng của tôi, bao quanh là hàng hàng  những  cuốn sách. Cha tôi tìm một khoảng trống  để đặt  vali xuống, loay hoay lui tới  như người muốn trút bỏ đi một gánh nặng mệt nhọc. Cuối cùng ông đặt nó vào một chỗ góc thật  khuất . Thời khắc vờ vĩnh ấy làm cả hai cha con không thể nào quên, dù rằng cũng qua đi và chúng tôi trở lại với vị trí sống hàng ngày, đùa cợt, châm biếm, và làm cho mình thoải mái. Chúng tôi nói với nhau về những việc đã làm, về những điều tầm thường của  cuộc sống mỗi ngày, và những bất cập triền miên của chính trị  Thổ Nhĩ Kỳ hay những cuộc kinh doanh đầy phiêu lưu  và sai lầm  của cha tôi  mà tôi thấy ông chẳng mấy khi buồn tiếc…”

 

Dù người cha không theo đuổi công việc cầm bút nhưng Pamuk đã thừa hưởng của thân phụ mình tấm lòng yêu quý sách vở và sự trân trọng với văn chương. Ông đã khuyến khích người con, không chỉ với tấm lòng của người cha mà còn với sự chia sẻ của người đồng điệu tri kỷ. Dù nhà văn là người luôn cô đơn và suy tư trong thế giới riêng của mình, thế giới ấy cũng có nhiều nét chung nhân bản của nghệ thuật được nâng niu và trau dồi tinh luyện.

 

Viết về người cha chỉ là một cái cớ, mà, chính là viết về chính mình, về những suy tư của mình :

“Nhà văn là người đã trải qua nhiều năm tháng để cố gắng tìm kiếm cho ra con người thứ hai  bên trong của mình, và trong cái thế giới tạo ra chính con người hắn. Khi tôi nói về công việc cầm bút điều đầu tiên hiện ra trong  suy tưởng tôi không phải là tiểu thuyết, không phải là thi ca hay văn học gì, mà, chính là người miệt mài trong phòng kín, ngồi trước bàn viết, môt mình  lui tới với mình và trong hình bóng ấy, hắn tạo ra một thế giới mới bằng con chữ .  Người ấy -nam hay nữ - có thể dùng máy đánh chữ, hay xử dụng sự tiện lợi của máy điện toán, hoặc viết bằng bút và giấy như tôi đã làm từ ba mươi năm nay. Khi cầm bút, người ấy có thể uống trà hay cà phê hoặc phì phà khói thuốc. Cũng có thời gian, người ấy đứng bên cửa sổ cạnh bàn nhìn ra đường phố xem lũ trẻ đùa giỡn và nếu may mắn sẽ thấy phong cảnh phố phường hoặc chăm chú nhìn những vỉa  tường đen đủi. Người ấy có thể  làm thơ, viết văn, soạn kịch, hay viết tiểu thuyết giống như công việc của tôi.  Tất cả những khác biệt chỉ là mục đích cốt tử khi ngồi vào bàn viết rồi kiên nhẫn nhìn ngắm chính mình. Cầm bút chính là đem cái đam mê của nội tâm thành ngôn ngữ, là sự tìm kiếm chính mình trong cái thế giới tương tự của mình, miệt mài, say đắm nhưng ương ngạnh.

 

Như khi ngồi vào bàn viết của tôi, bất kể ngày tháng năm, từ tốn viết những hàng chữ trên trang giấy trắng, tôi đã có cảm giác là tạo dựng được một thế giới mới như là tôi đã mang nhập chung một con người khác vào nội tâm tôi y hệt như đường lối mà ai đó đã gầy dựng những nhịp cầu hay những mái nhà  bằng những gạch đá tiếp những gạch đá. Vật liệu gạch đá mà nhà văn xử dụng chính là ngôn ngữ. Giống như chúng ta giữ được nó trong bàn tay, cảm được phương cách mà chúng nối kết với nhau, có lúc ngắm nhìn chúng từ xa, có lúc lại nâng niu chúng bằng ngón tay hoặc đầu ngọn bút, truyền sức nặng nội lực, sắp xếp trong lãnh vực, năm tiếp năm, kiên nhẫn  và đầy hy vọng, chúng ta tạo dựng một thế giới mới..”

 

Năm 2006, Orhan Kamuk được tuyển lựa là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới theo sự bình chọn của tạp chí Times.  Năm 2005, ông đã phải trốn khỏi quê hương một thời gian vì bị đưa ra tòa và kết tội phản bội dân tộc Thổ. Trước đó ông đã viết tác phẩm “My name is red” nghiêm khắc chỉ trích những sai lầm trong lịch sử đã xảy ra của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ với sự lột trần tội diệt chủng khi tàn sát hàng triệu người Armenia và sự đàn áp tàn bạo người Kurd.

 

Câu chuyện bắt đầu khi Orhan Kamuk trả lời một câu phỏng vấn của một tờ báo Thụy Sĩ  Tages-Anzeiger ngày 6 tháng 2 năm 2005.ông nói :  “ba mươi ngàn người Kurd và một triệu người Armenia bị giết hại ở Thổ Nhĩ Kỳ và sự kiện ấy hầu như không một ai dám đề cập tới ngoại trừ tôi.“. Ông muốn nhắc đến  vụ các lực lượng của đế chế Ottoman giết hại hàng chục ngàn người Armenia trong những năm 1915-1917 và 30 ngàn người Kurd bị  giết hại trong cuộc chiến giữa quân đội Thổ và các  lực lương ly khai người Kurd từ năm 1984. Ông bị  phản ứng dữ dội và phê phán nặng nề  từ những người Hồi Giáo và dân tộc cực đoan. Ngày 1 tháng 9 năm 2005, ông bị truy tố với lời buộc tội là phát biểu những lời nói nhục mạ trắng trợn phẩm chất  quốc gia Thổ. Nếu bị kêu án ông có thể chịu ba năm tù giam. Phiên tòa ấn định vào ngày 16 tháng 12 nhưng sau đó thì bị đình vì nhiều lý do.

Trước sau, nhà văn  cũng chỉ một lời nói: ”Tôi  bảo vệ những điều tôi đã nói và hơn nữa tôi bảo vệ cái quyền được phát biểu của tôi”  và ông tiếp  đại ý chúng ta đang phải trực diện với những bi kịch và đối đầu với những niềm đau đớn mà  cả nhân loại phải chịu đựng, cũng như những vấn đề ấy chúng ta không được dạy dỗ từ những trường lớp phổ thông. Do đó, nó trở thành một vấn đề hết sức nhạy cảm.

 

“Tôi đã nói rõ ràng và lớn tiếng rằng 1 triệu người Armenia  và 30 ngàn người Kurd đã bị tàn sát tại Thổ Nhĩ Kỳ và tôi xác định điều đó. Với tôi, đây là một sự kiện có tính khoa học. Tôi cũng là một tiểu thuyết gia, tôi đã đề cập đến sự chịu đựng và những nỗi đau của con người. Rõ ràng là ở xứ Thổ có những niềm đau được giấu kín nhưng chúng ta vẫn phải bắt buộc phải đối diện..”

 

Thế mà, trong cuộc họp báo trước khi nhận giải Nobel văn chương năm 2006, Orhan Kamuk lại từ chối những lới phẩm bình về những ý nghĩ mà ông đã có về Armenia. Trong bài diễn văn, “My Father’s Suitcase”, đọc khi nhận giải ông cũng tránh né vấn đề ấy.

 

Có lúc, ông nhận mình là cây cầu nối liền hai thế giới. Trong khi trả lời cuộc phỏng vấn  của Elizabeth Farnsworth của NewsHour Online :

 

“Elizabeth Farnsworth: Nhà văn hàng đầu của Thổ Nhĩ kỳ, Orhan Pamuk, làm việc và sống tại vùng ngoại ô Istambul cạnh bên bờ vinh Bosphorous phân cách hai lục địa Âu và Á tiểu thuyết của ông tràn đầy sức sống và thắm đẫm cảnh sắc của khu vực địa lý tuyệt diệu và có lúc của lịch sử khủng khiếp của cuộc đất này. Istambul  là trung tâm của Hồi giáo và Thiên Chúa giáo và những sáng tác của Pamuk thường xoay quanh sự hội tụ của hai tôn giáo ấy.

 

“My name is red” là một  truyện dài  mới nhất  đươc dịch sang Anh Ngữ, là một tiểu thuyết trinh thám, với cốt truyện đa tầng đề cập đến sự trả thù và lòng đố kỵ của con người ở thời kỳ của đế quốc Ottomans đang suy tàn và sự vươn lên của Thiên Chúa Giáo.  Tôi nói chuyện với Orhan Pamuk tại phòng làm việc của ông, nơi nhìn xuống thành phố Istmbul ở dưới.

 

Elizabeth Farnsworth : Tuyệt thật, từ đây ta có thể nhìn thấy mọi thứ.

Orhan  Pamuk : Vâng, đây là điện Topkapi, nơi mà mọi tình tiết của “My name is red “. Còn đây là cây cầu  của tôi, nó được xây dựng lên từ 30 năm về trước.

Elizabeth Farnsworth : Chiếc cầu đó bắc qua eo biển Bosphorous nối liền hai bờ Âu Á  của Istambul. Pamuk xem cây cầu như một ẩn dụ cho chính ông bởi vì nó không thuộc về một bên nào và mỗi chân cầu đứng trên mỗi bên của hai lục địa. Ông hiểu rất rõ cả hai, phương đông và tây, cũng như đã sống hầu hết cuộc đời mình ở Thổ Nhĩ Kỳ và đồng thời có thời gian học viết và văn chương ở Hoa Kỳ.

Orhan Pamuk : Tôi muốn mình là một chiếc cầu  với cảm giác  là chiếc cầu không thuộc vào một lục địa nào hết  cũng như không thuộc về một nền văn minh nào hết.  Nhưng một điều tuyệt diệu là đứng ở trên đó có cơ hội nhìn thấy cả hai bên  và hai nền văn minh nhưng lại ở ngoài nó…”

Nhưng gần đây khi trả lời câu hỏi cùa thông tấn xã  AFP, tác giả của “My Name is Red”, “Snow”, “The White Castle”,”Istambul” .., thường được gọi là người xây dựng nhịp cầu nối liền giữa cộng đồng Hồi giáo và nền văn hóa Tây phương, ông lại phủ nhận :

 

“Người xây dựng nhịp cầu à! Tôi không thích câu nói ấy! Tôi không viết tiểu thuyết để rao giảng về các nền văn minh. Đó chẳng phải mục tiêu của tôi. Văn học khác xa với quyền lực. Mà văn học là những trang viết về niềm thấu hiểu và hưởng thụ để thưởng thức cuộc sống, là thú vị biểu hiện bằng những kết quả của quan sát bằng ngôn từ.”

Nhưng, dù tuyên bố thế nào chăng nữa, tự thân tác phẩm của Pamuk đã là những nhịp cầu, là gạch nối giữa lịch sử đã qua và cuộc sống hiện nay, là nối liền giữa tự thuật và hư cấu, giữa thực tế và tưởng tượng. Qua các nhân vật, là tổng hợp của nhiều vóc dáng, nhiều nguồn gốc, nhiều giai cấp và ở đó nổi lên nhiều ẩn dụ, nhiều ngữ nghĩa có tính thẩm mỹ và thuyết phục cao. Tiểu thuyết của ông có nhiều tính triết lý nhưng lại có tính thực tế nên số lượng người đọc đông, cả người trí thức lẫn bình dân đều tìm thấy những yêu thích riêng. Ông là người không thích thú với sự cực đoan kể cả trong đời sống lẫn văn chương. Luôn luôn dung hòa  và lúc nào cũng cảnh tỉnh về sự tác hại của lòng cuồng tín cả trong việc suy ngẫm và nhìn ngắm trong lãnh vực tôn giáo. Nhưng ông cũng là người luôn bảo vệ những điều mà ông cho là đúng đắn. Như những điều ông đã phát biểu với báo  Thụy Sĩ Tages Anzeiger, hay như ông lên tiếng bênh vực nhà văn Salman Rushdie khi ông này bị giáo chù ayatollah Khomeini tuyên án tử hình fatwa, tội xúc phạm đến Hồi giáo.

 

Trong lời phát biểu của Hàn Lâm viện Thụy Điển có nhấn mạnh đến ”hành trình đi sâu dể tìm hiểu tâm hồn u uẩn sầu muộn của thành phố quê hương” cuả Orhan Pamuk  mà điển hình là tác phẩm “Istambul”.  Cuốn sách này xoay quanh câu chuyện của một đứa trẻ, có suy nghĩ chín chắn trước tuổi, bị vây hãm giữa những rắc rối, những dằn vặt của một đời sống giữa một đại gia đình đầy những bất đồng và luôn luôn cãi vã xô xát. Đó là một dòng họ giàu có và không sùng đạo lắm, sống ở một tầng nhà của một căn phố cao, nhìn xuống dòng sông Bosphorus với phong cảnh thật đẹp đẽ tráng lệ của một khu vực sang trong nhất thành phố. Nhân vật chủ đạo thống trị dòng họ là bà nội đứa bé, một người đàn bà mập mạp và luôn ban lệnh trên giường ngủ. Bà luôn luôn kêu ca trăn trở hết vấn đề này qua vấn nạn khác từ những cậu con trai phung phí xa hoa, đến những xích mích cãi cọ của người trong dòng tộc, rồi đời sống hôn nhân không hòa thuận của cha mẹ đứa bé, rồi sự sùng  bái Hồi giáo quá đáng  của những đầy tớ gia nhân.

 

Ông như bị  phân tâm giữa hai hiện thực - một từ nội tâm, hai là đời sống bên ngoài – nên đã có bút pháp để mô tả  một thế giới thứ hai hiện hữu  từ thế giới thứ nhất có thực của đời sống.  Thế giới thứ hai này được tạo hình từ những đào sâu vào thế giới thực của đứa bé. Một cảnh tượng khác lạ lôi kéo người đọc vào, một thế giới riêng  của mơ hồ, của những căn phòng bất động âm u chật chội với quang cảnh lạnh lùng, những bàn ghế xa xỉ bám bụi, những cỗ dương cầm ít ai xử dụng, những tủ kính hào nhoáng đầy ắp đồ vật chưng bày vô vị, những khung ảnh khoe khoang nghi  thức. Và trong không khí riêng ấy, con người như bị cách biệt với thế giới đầy ánh sáng sinh động bên ngoài.

 

Orhan Pamuk đưa người đọc vào một thành phố Istambul mục nát  những năm của thập niên 60 đến 80. Những ngôi lâu đài gỗ của thế kỷ 19 bị đốt phá để thay thế bằng những căn nhà hình khối bê-tông. Rồi những chiếc tàu chở dầu đụng nhau trong đêm tối cháy sáng rực trên dòng sông. Rồi khung cảnh hỗn loạn của thành phố bất an nơi những kẻ khủng bố đe dọa mọi người. Rồi những cuộc nổi loạn giả tạo  được trình diễn để rồi thực sự thành những cuộc chém giết tàn bạo. Rồi những đường phố nhà cửa của người Hi lạp và Armenian bị cướp phá. Rồi phong cảnh tiêu điều của thành phố với những bầy chó gầy ốm lang thang. Rồi cảnh những người phu khuân vác quị mình lảo đảo mang nặng những kiện hàng to quá khổ. Tất cả, là những biến cố của quặn mình thay đổi, của phân vân giữa sự lựa chọn của sự nối tiếp truyền thống hay thay đổi theo Tây phương, của hiện đại hóa hay giữ gìn văn minh Hồi Giáo.

 

Tác giả đã  đùa giỡn khi nói: ”Tôi diễn tả Istambul khi tôi mô tả chính tôi, cũng như tôi diễn tả chính tôi khi mô tả Istambul” Hồi ký Istambul đầy ắp tính hoài niệm, pha lẫn tình mê đắm, dù là tư liệu nhưng không phải là sự khoe khoang chính mình. Tác phẩm là tiếng gọi trở về tuổi thơ, của niềm hân hoan được giãi bày tấm lòng của một người yêu quê hương tha thiết… Tác giả coi định mệnh của Istambul là định mệnh của ông vì: ”tôi gắn liền với Istambul bởi nó đã tạo  tôi như con người tôi vậy.”

 

Một tác phẩm khác của Orhan Pamuk, “Snow” (Tuyết), mà có người cho rằng là thông điệp của một thời đại mà tôn giáo và ý thức hệ của nó bị cáo chung.  “ Snow”  là tên của một bài thơ của nhân vật chính trong truyện. Khung cảnh chính của truyện là  thành phố Kars, một thị trấn xa xăm nằm ở miền Đông Bắc nước Thổ. Nhân vật chính tên là Kerim Alakusoglu, nhưng thường được gọi với tên vắn tắt là Ka. Ông này thuộc một gia đình khá giả, được giáo dục theo phong cách Tây Phương và đã sống lưu lạc xa quê hương ở Franfurt từ khoảng 12 năm nay. Ông về thăm lại quê hương, đến ở thành phố Kars  để đưa đám tang mẹ và cũng nhân thể ngắm tuyết rơi ở quê hương. Dịp đó anh nhận viết một phóng sự về cuộc bầu cử hội đồng thành phố này và điều tra về sự kiện có khá nhiều phụ nữ tự sát vì nghe đâu vì không chịu được những áp lực không cho phép chùm khăn choàng đầu.

 

Một cách ngẫu nhiên, Ka đã dính líu vào những xung đột chính trị đẫm máu, những cuộc ám sát, khủng bố. Ông chứng kiến cảnh một viên giám đốc học chính bị ám sát  bằng súng từ một thanh niên trẻ. Cũng như ông đã gặp người thủ lĩnh Hồi giáo quá khích tên Blue chống chính quyền độc tài, chống lại những vận động theo đuổi nền văn minh Tây phương. Ông cũng bị hăm dọa tới tính mạng vì bài báo buộc tội ông vô thần  mà tự nhận là thi sĩ gieo những tư tưởng độc hại cho người dân ở thành phố nhỏ này. Cũng tại đây, ông có một cuộc tình với người yêu xưa cũ tên Ipek, một người mà ông mong muốn sẽ theo mình về lại Frankfurt trong một ước vọng hạnh phúc êm ái. Câu chuyện bắt đầu với cơn bão tuyết bao trùm thành phố làm mọi sinh hoạt ngưng trệ và đời sống tại đây như một ốc đảo cô lập với cả thế giới bên ngoài. “Tuyết“ cũng là tên tập thơ gồm 19 bài mà ông làm trong suốt thời gian tham dự vào những biến động. Những bài thơ này được sáng tác trong nỗi niềm hoài niệm tuổi thơ với những kỷ niệm khôn nguôi trong trí nhớ.

 

Ka là người cô đơn và là kẻ chịu nhiều áp lực. Một bên là bị chính quyền, tuy có khuynh hướng đổi mới nhưng vẫn áp dụng những thủ đoạn xưa cũ tàn ác, bóp nghẹt tự do., theo dõi canh chừng. Một bên thì bị những tín đồ Hồi giáo nghi ngờ coi như là một kẻ địch phải trừ khử. Một bên thì bị giới truyền thông coi là ngây thơ, dễ bị lôi cuốn vào những âm mưu chính trị. Khi đi điều tra sự việc những người thiếu nữ  tự tử, Ka gặp phải vô vàn những trở ngại. Những nạn nhân thì không tin tưởng vì họ cho Ka là kẻ không tín ngưỡng, chính quyền thì ngăn chân không muốn tin tức phổ biến tới báo chí Tây Phương. Nhưng trong cuộc tình với  Ipek,  tình cảm  nồng nàn  khơi lại  từ mối tình đầu, và qua  sự chứng kiến cảnh và người ở Kars, Ka lại làm thơ trở lại với bừng bừng xúc cảm sau một thời kỳ đóng băng xơ cứng. Tập thơ « Tuyết » là những ghi chép lại trong ký ức những phần đời tuy có đen tối nhưng vẫn có vẻ lãng mạn của những đóa tuyết sáu cạnh  trắng xóa khoảng trời…

 

Một tiểu thuyết trinh thám khác biệt, một không gian của một thành phố Istambul mê sảng, một cuộc hành trình lang thang đi tìm một nhân dáng vô vọng. “The black book” (Sách đen), một tiểu thuyết  của Orhan Pamuk đem lại những đặc tính của một chuyện kể hào hứng. Galip người đi truy tìm Ruya, người vợ bị mất tích một cách thần bí. Celal, nhà bình luận báo chí nổi tiếng, em trai của Ruya và cũng là em họ của Galip, cũng bị thất lạc. Hiển nhiên hai sự kiện này có nhiều liên quan với nhau. Khi Galip xem xét cẩn thận những dòng chữ để lại của Celal, một cảm giác như đang đọc những trang kinh thánh để thấy mình thâm nhập vào nhóm người cuồng tín tin tưởng vào những lời tiên tri của Celal noí rằng sẽ có một cứu tinh Mác Xít gốc Hồi giáo. Câu chuyện trôi đi trong cái không khí huyền bí tạo dựng,  là những bí mật làm thành những yếu tố của cuộc sống.  Tác giả kết cấu cốt truyện với phương cách xen kẽ  giữa mô tả sự kiện và phân tích tâm lý. Chúng ta thấy nổi lên sự khác biệt giữa tâm tính điên loạn của Galip và quan niệm hoa mỹ của Celal, cũng như khuynh hướng của thấp hèn và phương cách suy tưởng siêu hình mà căn bản từ con người bẩm sinh. Một biên tập viên của báo “The Observer“, Jonathan Beckman, đã nhận xét:”  Cuốn sách này có thể là một bản tình ca cho Istambul, và là một phúng dụ tinh tế về thuyết giải cấu trúc, nhưng hơn thế nữa, nó là một sự ca tụng nghệ thuật kể chuyện ngày càng tỏ ra hiếm có trong thế giới đầy ứ những chuyện tầm phào vô nghĩa lý, “The Black Book”  là một điên loạn ngọt ngào, tạo ám ảnh không nguôi và rất giàu có trong sáng tạo bất chợt, là những câu chuyện mang tính cổ tích cảm động nhưng đầy  hóm hỉnh..”

 

Một tiểu thuyết khác “The White Castle”, cái tôi thực sự soi vào gương để thấy một cái tôi khác, vừa là chính mình nhưng lại không phải là mình, như một cặp song sinh, có hòa nhập nhưng cũng có đối nghịch. Nhân vật “tôi” là một người Ý ở thế kỷ 15, bị bắt cóc và đưa về Constantinople làm nô lệ cho một quan chức Thổ  tên là Hoja.  Một điều kỳ lạ là hai người, ông chủ và người nô lệ có diện mạo y hệt nhau. Hoja hứa sẽ trả lại tự di cho người Ý gia nhân này khi học hết được những sở trường mà ông này truyền đạt. Họ tiếp xúc, trao đổi, học hỏi lẫn nhau cho đến khi cả hai hầu như thành là một với tất cả suy nghĩ, hành động mà hai nền văn hóa pha trộn lại. Cuối truyện, người Ý  trở về lại quê hương. Nhưng, người về là chính ông ta hay là Hoja? Không ai biết được chính xác để trả lời. Bởi, cả hai đã trở thành một, giống hệt nhau, từ trong ra ngoài, từ suy nghĩ đến hành động. Orhan Pamuk đã muốn nêu ra cái chủ ý của mình khi nhân vật sultan đã nói trong tác phẩm: Có điều gì chứng tỏ mạnh mẽ hơn là dù ở nơi chốn nào cũng thế, giống hệt nhau và có thể tráo đổi vị trí cho nhau”  Văn chương Việt có câu ”mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai”. Có điều gì khác biệt, và có điều gì  tương tự, khi chúng ta soi gương, nhìn và lập lại chính mình?

 

Một tác phẩm khác, ”My name is Red”,  có số lượng sách bán cao nhất của Orhan Pamuk. Trong bài phỏng vấn tác giả, ông đã thố lộ một vài điều  về sáng tác này:

 

Hỏi: ông đã áp dụng những cách thế khác lạ để kể về câu chuyện qua nhiều phương cách tường thuật khác nhau. Thực tế  rõ ràng trong sách, qua từng chương, là những âm dạng không đồng nhất. Vì sao ông lại xây dựng tiểu thuyết của mình theo lề lối ấy? Ông phải trực diện với những khó khăn phải vượt qua nào khi lựa chọn phong cách văn chương như vậy?

Orhan Pamuk: Rất thích thú với tôi khi tôi giả dạng được những nhân vật của mình. Tôi ưa khám phá âm giọng của một nhà họa sĩ Ottoman, một người mẹ của hai đứa trẻ đang đi tìm kiếm người chồng của mình, rồi giọng nói của hai đứa trẻ thơ, rồi âm thanh ma quỉ của một tên giết người,  đến lời tự thuật của một người đàn ông trên con đường đến thiên đàng. Trong những chuyện kể của tôi, không chỉ riêng nhân vật, mà cả đến sự vật và màu sắc cũng có tiếng nói. Tôi nghĩ rằng những âm thanh riêng biệt ấy sẽ tạo ra một âm hưởng phong phú là biểu hiện cho cuộc sống thường nnhật của Istambul khoảng bốn trăm năm trước. Sự thay đổi ý niệm nhân sinh quan cũng biểu hiện những suy tư ray rứt chính yếu của tác phẩm, về góc nhìn từ vị trí của người thường chúng ta tương phản với góc cạnh nhìn ngắm của đấng tối cao. Tất cả những chi tiết ấy được nhắc đến từ sự liên quan giống như lối phối cảnh của hội họa. Những nhân vật của tôi sắp hàng thẳng trong một thế giới mà tầm nhìn hạn chế không còn hiện hữu và những nhân dáng ấy có thể có ngôn ngữ nói bằng chính âm giọng của mình và cũng bằng nổi diễu cợt riêng mình.

Hỏi : Ông tạo dựng một nhân vật -con trai của nữ anh hùng Shekure trong chuyện- mang tên Orhan. Có phải đó chính là cái “tôi” bị biến dạng của ông?

Orhan Pamuk : Orhan không phải là cái “Tôi” đối nghịch của tôi. Mà, anh ta chính là tôi. Hầu hết những chi tiết trong gia thoại về mối quan hệ giữa bà mẹ cô đơn và đưa con trai bắt nguồn từ chính kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã giữ nguyên bản danh tính của mẹ tôi và các anh em trai trong câu chuyện. Sự đố kỵ ganh đua giữa anh em trong gia đình, những trận cãi lộn, ẩu đả lẫn nhau, những lần hòa giải, những chuyện tranh giành tình thương của mẹ, chính là tự truyện đời tôi. Phương cách đem những chi tiết sống  thực của tuổi thơ ấu vào trong chuyện lịch sử là cố ý của tôi mong sẽ tạo dựng được bề sâu có tính riêng tư cho nó. Cái khó của tiểu thuyết lịch sử không phải là cách diễn đạt qúa khứ được mô tả hoàn hảo trung thực, mà chính là liên kết được lịch sử với những điều tân kỳ, để phong phú hóa biến đồi quá khứ bằng óc tưởng tượng cũng như niềm xúc cảm từ kinh nghiệm cá nhân.

 

 


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu,  Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt,  không kích động hận thù,  và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ,  hay bất kỳ một chính phủ nào.