Kính dâng hương hồn bạn Thành
Phan Quân
Con người cộng sản, muôn đời đầy dẫy tham vọng, mãi mãi nhìn
ngóng cao xa, nhưng lại không cần biết đến khả năng mình có
trong tay. Họ cứ tưởng câu thần chú "khắc phục khó khăn", mà họ
thường vận dụng, sẽ giải quyết được mọi vấn đề, và cũng như nhà
thơ Tố Hữu, họ luôn tin tưởng rằng:
Bàn tay ta làm nên tất cả,
Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm.
Cho nên, giữa núi rừng trùng điệp của Hoàng Liên Sơn, cộng sản
cai tù lại mong muốn xây dựng theo cung cách hiện đại, làm nên
những ngôi nhà ngói đỏ, tường vôi. Dĩ nhiên là theo "hạch toán
kinh tế", dựa trên phương thức "nước sông, công tù". Xây nhà
gạch mà chẳng cần xi-măng, chỉ có vữa vôi, bùn dẻo và cát. Gạch
thì chất liệu lấy từ lòng đất mẹ, kết hợp với công sức lao động
và mồ hôi nước mắt của tù. Vữa vôi thì lấy từ những "xưởng vôi"
công tù ở khu núi đá trong vùng, bùn dẻo thì đâu mà chẳng có và
lòng sông Hồng không thiếu gì lượng cát đen, một thứ cát để chơi
chớ không phải để xây dựng, lấy hoài cũng không hết.
Những
bộ óc vĩ đại "dám nghĩ, dám làm" bèn nảy sinh ý kiến đưa tù đi
lấy cát sông Hồng về làm vật liệu xây cất. Mỗi lượt đi về mất
khoảng mươi cây số đường đất pha sỏi đá, lên dốc, xuống đồi,
băng ngàn, vượt suối, với một chiếc "xe cải tiến" và bốn công
tù, một kéo, ba đẩy, áng chừng hai thước khối cát. Tính ra thì
thu chẳng bù chi, nhưng quan trọng quái gì thứ mồ hôi và sức lao
động của bọn tù "ngụy quân, ngụy quyền" đó chớ.
Những khi có nhu cầu, từ phiên sinh hoạt đêm trước, trại "phân
bố" lực lượng lao động đi vùng Yên Báy để hốt cát từ lòng sông.
Sáng hôm sau, bốn tù cải tạo, được chỉ định, phải tìm một "xe
cải tiến" thật "chất lượng", để khỏi nằm đường, và "liên hệ" với
"anh nuôi" để nhận lãnh lương thực và thực phẩm cho bữa ăn trưa
hôm đó. Thông thường thì lãnh gạo, rau tươi hoặc bí ngô (bí rợ)
và ít muối để đun nấu dã ngoại tại chỗ. Đủng đa đủng đỉnh như
chĩnh trôi sông, bốn tù và một bộ đội súng dài áp tải cũng phải
mất hai giờ lộ trình mới tới được địa điểm lấy cát, một góc sông
nhìn sang thị trấn Yên Báy bên kia.
Mùa đông giá rét hay mùa hè nóng bức không cần biết, cứ lặn hụp
xúc đầy "xe cải tiến" cát xong lên bờ ngồi hơ ấm hoặc phe phẩy
ngọn gió thổi khô người, chờ bữa ăn trưa do bạn bè tù tự tay nấu
lấy. Trong khi đó chàng bộ đội kia đi săn lục mấy căn nhà trên
đồi, tán tỉnh hoa biết nói miền quê hay gởi gạo và thức ăn nhờ
nhân dân nấu hộ. Cơm nước xong xuôi, lợi dụng thời gian gả bộ
đội đi "liên hệ linh tinh", toán tù cải tạo cũng được dịp ngơi
nghỉ buổi trưa dưới bụi tre già đầu ngõ, cuối thôn.
Đó là những lúc cuộc đời tù tội tạm quên đi cảnh chim trời gảy
cánh bay và cá chậu muôn phần tù túng. Trong bóng mát chùm cây
bụi cỏ, dưới tàn lá rì rào đong đưa theo làn gió hiu hiu, ngả
lưng trên nệm cỏ êm êm, tù cũng có được vài ba giấc ngủ chập
chờn theo mộng viễn du. Hình ảnh thành phố bên kia sông, rộn
ràng phố chợ, tấp nập kẻ bán người mua, khơi động trong lòng kẻ
tù, người tội dăm ba ý nghĩ tự do. Ừ nhỉ, tại sao ta cứ mãi chịu
giam mình trong cõi đời cải tạo triền miên như thế này? Ý nghĩ
bay ngang qua đầu, chợt đến rồi chợt đi, vì không dễ gì thực
hiện ở một vùng rừng núi thù nghịch, nên cứ mãi nằm phục kích
trong một góc của tiềm thức. Hơn nữa, dự tính chưa được trọn vẹn
suôn sẻ thì, may thay, một lão nông dân tạm bước dừng chân tránh
nắng hoặc một cậu mục đồng ngất nga ngất nghểu lưng trâu ghé qua
thăm hỏi ba điều bốn chuyện. Trong những câu trao qua đổi lại
kia cũng có những cái hay hay cho những ai muốn biết ngõ ngách
đi về trên "vùng đất quê hương" mà xa lạ.
Thế là, ngày một ngày hai, thông tin chồng chất, tích tiểu thành
đại, những dữ kiện rời rạc kia rồi cũng hình thành nên kế hoạch.
Một chương trình đào thoát lớn lao, chờ cơ hội thuận tiện để
thực hiện mà thôi. Qua sinh hoạt tổ đội đêm trước, những "đội cơ
động" của toàn trại được lệnh chuẩn bị cho một phiên lấy tre
rừng rất quy mô trong ngày hôm sau. Như vậy là cơ hội đã đến,
những người từ những tổ đội khác nhau, nhưng cùng chung một ý
hướng, thì thầm lên phương án hành động. Vì người tù nào cũng
phải chuẩn bị cho bữa ăn trưa dã ngoại nên số phương tiện mang
theo có cồng kềnh hay to lớn chút ít cán bộ cũng không thấy
được. Một dịp may để cho những người có ý định đào thoát chuẩn
bị hành trang, lương thực, thực phẩm dài ngày cùng với thuốc men
cần thiết cho chuyến đi.
Đoàn
tù đi lấy tre hôm đó tiến vào rừng với khí thế "hùng hổ" cố hữu,
nhằm tranh thủ lấy đủ tiêu chuẩn càng sớm càng tốt, trước khi
cơn đói trì hoãn mọi hành động. Mọi việc có vẻ như diễn tiến
bình thường cho đến khi được lệnh dừng tay để lãnh phần ăn trưa.
Sau khi cán bộ kiểm tra lại nhân số từng tổ đội thì bỗng dưng có
lệnh "thu quân khẩn trương", tre chặt rồi bỏ lại hiện trường,
toàn thể bộ phận đi lấy tre kéo về trại. Tập thể tù cảm thấy có
điều gì bất thường nhưng không biết chuyện gì đã xảy ra, vì trên
nguyên tắc thì tre đã đốn thì phải được mang về trại ngay. Mãi
đến khi được tập họp ở sân trại mới biết được là có tù "trốn
trại".
Một nỗi xôn xao khá rộn ràng vì lần đầu tiên ở trại miền Bắc có
trường hợp vượt thoát. Một tình hình xao xuyến pha lẫn xúc động
cho cả trại, nửa thì mừng rỡ - dĩ nhiên là trong âm thầm - nửa
lại lo âu. Mừng cho những người đã ra đi, những cánh chim trời
được trở về với không gian cao rộng, nhưng lo vì kết quả chưa rõ
trắng đen và vì thân phận của những ai còn lại, rồi ra sẽ bị kềm
kẹp đến như thế nào đây? Dẫu cho cộng sản thường rêu rao "đánh
kẻ chạy đi, không đánh người ở lại".
Sinh hoạt tổ đội đêm hôm đó hết sức căng thẳng, một vài đơn vị
có cả cán bộ quản giáo "chủ trì". Một phiên sinh hoạt nặng tính
trình diễn và nhiều kịch tính, bắt những thành viên phải "đào
sâu suy nghĩ để thấy cho được" cái sai quấy của những người
"trốn trại". Chung cuộc, cán bộ chủ trì "lên lớp" nặng nề và gay
gắt với chủ đích răn đe những người tù còn ở lại. Tổ đội nào
cũng được chỉ thị phải mổ xẻ "thấu lý, tận tình" vấn đề để rút
kinh nghiệm và "hạ quyết tâm cao" chớ làm điều xằng bậy.
Biến cố "trốn trại" đó là một khúc ngoặt trong quá trình đối xử
tù cải tạo của bộ đội cai tù. Sau một thời gian quản lý tù cải
tạo, bộ đội có phần nào lơ là vì cảm thấy đối tượng của mình có
vẻ ngoan ngoản. Nay, sau khi "mất trâu rồi", họ đâm ra đề cao
cảnh giác hơn, đến độ khắt khe quá đáng. Nhưng, đã mang thân tù
tội rồi thì mấy cũng phải chịu thôi. Từ đó về sau, đi lao động
bên ngoài, tù không được mang theo những gì khác hơn là tấm
nylon che mưa, tất cả bao bì đều bị cấm.
Trong quá trình điều tra, những anh tổ trưởng liên hệ đến những
người đào thoát bị quấy rầy liên tục, nay cán bộ này kêu lên
hỏi, mai cán bộ kia gọi lên "làm việc", với giả thuyết là tổ
trưởng phải "nắm được" tư tưởng của tổ viên, một nguyên tắc
trong tổ chức cộng sản. Xong với các tổ trưởng rồi, những người
điều tra bắt đầu hạch hỏi những người tù nằm cạnh các anh "trốn
trại" và sau đó là những người ăn cùng mâm!
Cuộc
điều tra tiếp tục chạy quanh chạy quẩn, lòng vòng vì ai biết
được đây? Nhưng, dù có biết đi nữa thì ai dạy gì "lạy ông tôi ở
bụi này" để mang họa vào thân. Chung cuộc và trước mắt, trại
cũng tìm ra được một người tù làm cái bung xung để cho họ đổ
những cái bực bội, để cho thiên hạ dằn vật, giận cá chém thớt.
Đó là anh tù thuộc tổ "anh nuôi" bị nghi ngờ đã phát cho một vài
người trong nhóm đào thoát một số muối hột, thay vì nước muối
như đã quy định. Tuy nhiên, nghi vấn đâu phải là yếu tố để kết
tội nhưng cũng làm cho đương sự và tập thể tù cải tạo phải thắc
mắc và băn khoăn.
Tâm tư tình cảm của tù cải tạo "Trại-2-Nhà-Ngói" phải qua một
thời kỳ trầm lắng hẳn đi, một phần dõi theo bóng những người bạn
đang băng rừng lội suối tìm về cõi tự do, mà người người mơ ước,
và một phần trăn trở với những soi mói của cán bộ trại. Cho nên,
nếp sống của trại phần nào khựng lại, sinh hoạt của trại đâm ra
lờ đờ và nhịp độ lao động uể oải để trông chờ kết quả của biến
cố mà ai cũng ước mong là sẽ có phần thuận lợi cho những người
đã ra đi.
Trong khi chờ đợi tin tức của những người "trốn trại", ở chỗ
riêng tư và thầm kín, căn cứ trên thành phần của nhóm đào thoát,
anh em tù dự đoán kết quả của chuyến đi tìm tự do đó. Một cách
khái quát, có thể thấy rằng đã có một sự chuẩn bị chu đáo khi
nhóm này được hình thành vì trong đó có người biết liên hệ đối
ngoại và ít lắm cũng biết được tình hình bên ngoài, có kẻ rành
về mưu sinh thoát hiểm, có thành viên hiểu về địa thế và có
người thấu hiểu chuyện vượt suối băng rừng và trèo non xuống
núi.
Họ thuộc những tổ đội khác nhau và trước kia cũng là người của
những quân binh chủng khác nhau. Anh thì chuyên môn bàn giấy, đã
có thời gian biệt phái ngoại ngạch - để làm việc bên chính trị -
nhiều hơn thời gian phục vụ bên quân đội. Anh thì gốc không quân
bay bổng. Kẻ thì thuộc pháo binh và người thì quân nhân đấm đá
chính gốc. Còn một yếu tố, tuy phụ thuộc nhưng không kém phần
quan trọng, là trong bốn người đào thoát có một anh thường hay
bói tử vi, được cho là có hạng. Với thói quen tin tưởng ở bói
toán của người Việt Nam, tập thể tù nghĩ rằng nhóm "trốn trại"
kia ít ra cũng nắm được năm sáu mươi phần trăm thành công. Nên
chi, anh em tù tin tưởng rằng toán người ra đi sẽ toại nguyện vì
họ không hời hợt chủ quan. Nhưng, kết quả cụ thể chắc sẽ không
bao giờ số tù còn lại biết được, thảng hoặc nếu có đi nữa thì
cũng phải lâu lắm.
Thế nhưng, chẳng bao lâu sau, khoảng ba hay bốn ngày gì đó,
trong sinh hoạt đêm, cán bộ quản giáo cho biết tin chẳng lành là
những người vượt thoát đã bị bắt lại! Một cung cách loan tin
hống hách, kiêu căng và ngạo mạn, vì được coi như một hành động
chiến thắng. Một lối nói vênh váo, dương dương tự đắc như gián
tiếp cho biết rằng:"Chúng mày làm gì mà thoát khỏi tay chúng
ông". Người ta còn kể công với tù:"May mà cán bộ trại đến kịp,
nếu không thì nhân dân đã thẳng tay trừng trị, các anh ấy chỉ có
nhừ người". Theo lời thuật lại thì sau mấy ngày đi quanh đi quẩn
lại trong vùng núi đồi và rừng cây ngút ngàn, con suối nào cũng
giống con suối nào, không cách xa trại bao nhiêu, các anh ấy đã
bị dân quân địa phương, được báo động và có chó đánh hơi người
tiếp tay, chận bắt trên đường di chuyển.
Một
công trình đổ vỡ, một dự tính không thành và những anh tù xấu số
kia nhất định phải gánh chịu đau thương. Càng đau thương hơn nữa
là một trong bốn anh quả cảm đó đã tự quyết định lấy mạng sống
bản thân khi bị bắt trở lại. Giấc mộng không thành, người cựu
chiến sĩ trẻ tuổi hơn hết trong nhóm, đã tìm cách tự ru mình vào
giấc ngủ thiên thu. Thế là chỉ còn lại "ba chàng hiệp sĩ", bị
giam giữ đâu đó ở bộ chỉ huy liên trại, mấy tháng sau mới trao
trả lại cho trại gốc.
Ngày giải giao "ba chàng hiệp sĩ" kia về trại là một ngày đông
lành lạnh và buồn buồn, với mưa phùn lất phất bay theo cơn gió
nhẹ nghiêng nghiêng. Một khung cảnh vô cùng nên thơ và hết sức
mơ mộng cho những ai ngồi bên cạnh lò sưởi, nhưng lại rất là bi
đát cho những người tù cải tạo, dù trong thân phận vượt thoát bị
bắt trở lại hay trong cảnh người quan sát.
Ngày trở về của "ba chàng hiệp sĩ" đã được cai tù khai thác
triệt để, với chủ đích răn đe, nên được dàn dựng thật chu đáo để
dè chừng cho những ý định vượt thoát về sau. Ba người đi hàng
một, kẻ trước, người sau, cách nhau ba bốn bước, hai tay bị còng
ra phía sau lưng, áo quần thiểu não, tóc tai bơ phờ rũ che vầng
trán, dung nhan tàn tạ, hai chân đi đất, đôi dép râu cột dính
lại treo tòn ten ở cổ, bộ đội súng dài theo sau, AK cầm tay
trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Ba anh như chừng bị người bộ đội
kia đẩy đi trên từng bờ con ruộng lúa của cánh đồng mênh mông
trở về đường xưa nẻo cũ. Bóng hình bi đát đó của "ba chàng hiệp
sỉ" rọi in xuống nước ruộng lạnh lùng, qua màn mưa bay lất phất,
khiến cho cảnh tượng càng thêm não nề, rùng rợn và bi đát khi
bạn bè liên tưởng đến hình phạt đang chờ đón họ ở cuối đường trở
về.
Ngày "ba chàng hiệp sĩ" trở về trại, một tổ "cơ động" được "phân
công khẩn trương" đào ba hầm kỷ luật ở chân đồi bên hông trại,
đối diện với khu nhà ở của cán bộ. Ba cái hầm, ngang tám tấc,
dài hai thước và chiều cao ở phía trong cùng cũng cỡ hai thước.
Nhìn theo tiết diện, hầm có dạng gần như một phần tư hình tròn
và trên chiều phẳng của mặt đất thì đủ cho một người nằm. Đào
xong, bên trên hầm được phủ kín bằng những thân cây tròn, hai
tấc đường kính, sau đó được lấp đất dày lối hai tấc và nện chặt.
Cửa hầm làm bằng những thân cây gần một tấc đường kính, xẻ đôi,
xếp khít nhau và đóng đinh to, có xiềng xích và khóa chặt bên
ngoài. Chẳng khác gì một hầm nhốt thú dữ. Vào bên trong, người
bị nhốt không làm sao với tới nóc hầm và còn bị đặt ở thế nằm và
bị xiềng chân bằng một hệ thống cùm khóa từ bên ngoài. Một vòng
rào bằng tre bao quanh khu hầm kỷ luật, cốt để đánh dấu vùng
nghiêm cấm, những người không có phận sự không được quyền lai
vãng mà cũng là một khu được một chòi canh của bộ đội quan sát
ngày đêm.
Như vậy, khu "biệt thự" của "ba chàng hiệp sĩ" được cô lập hẳn
với toàn trại và là một vùng nghiêm cấm. Ngày hai lần, một tổ
viên nhà bếp đưa cơm nước tới khu "biệt thự", dưới sự hộ tống và
kiểm soát của bộ đội súng dài. Mỗi chàng "hiệp sĩ" một ít nước
uống và một nắm cơm với ít muối, khối lượng khoảng một chén cơm
cho mỗi bữa ăn, vì tiêu chuẩn hàng tháng chỉ có mười hai ký. Nắm
cơm đó thường bị bộ đội xâm xoi cẩn thận, trước khi được đưa đến
cửa hầm cho mỗi người. Chính tay bộ đội mở khóa cửa "hang" rồi
đưa tiếp tế đến cho từng anh, người của nhà bếp chỉ đứng ngoài
xa.
Nhờ hai lần lãnh cơm trong ngày, "ba chàng hiệp sĩ" mới có dịp
hít thở không khí và trông thấy ánh sáng bên ngoài, mới có dịp
cử động tay chân và thảy bỏ những gì không cần thiết trong cơ
thể. Ngoài ra, những lúc có nhu cầu tống khứ bất thường thì đành
giải quyết tại chỗ. Sinh sống trong "Chuồng cọp Côn Sơn" có lẽ
còn thoải mái hơn ở trong những "biệt thự" Hoàng Liên Sơn này.
Những ngày rét buốt giá lạnh mùa đông hay những hôm nóng bức
tháng hè, nằm trong "hang" đó, không cần nói, ai ai cũng thừa
biết những thách thức mà cơ thể con người phải chịu đựng. Vậy mà
ba anh ấy đã phải sống như thế trên sáu tháng dài, qua hai trại.
Ngày rời "biệt thự", trở lại sống chung với tập thể, ba "chàng
hiệp sĩ" trông thật thảm thương, nước da trắng xám lạ thường,
chẳng khác gì nước da người chết. Nhưng, nhờ có nghị lực và niềm
tin nên thể xác dẫu bị xói mòn, tinh thần của ba anh vẫn bền
vững.
Qua câu chuyện kể lại thì ngày ra đi, các anh ấy được tin là
Trung Quốc đang hục hặc với Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Do đó, có suy luận rằng khi thoát được sang Trung Quốc, tình
hình của các anh ấy sẽ được Trung Quốc khai thác trong chiều
hướng có lợi. Cho nên, nếu thoát được sang Trung Quốc là có thể
thấy ánh sáng tự do. Đoạn đường từ núi rừng Hoàng Liên Sơn đi
đến biên giới Việt-Hoa mất khoảng bốn năm ngày đường.
Thế nhưng, trên thực tế không dễ dàng, vì rừng rậm và cây cối
chằng chịt, không có địa bàn và về đêm lại không thấy trăng sao
để định hướng. Sau đêm thứ nhất, sáng ra các anh lên đường tiếp
tục thì gặp một con kỳ đà khá to chạy ngang chân. Dù có được một
chất dinh dưỡng tốt trên hành trình khó nhọc nhưng sau này nhớ
lại thì câu ngạn ngữ "kỳ đà cản mũi" cũng có cái lý của nó. Đến
ngày thứ ba thì bốn anh bị quân dân miền núi chận bắt. Một hành
trình chưa chi đã tắt nghẽn!
Phan Quân
(Trích "Cõi Đời Vô Duyên")
|