.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

 

  Phan Quân

Hồng vệ binh của Mao

Les Gardes Rouges de Mao

(Tháng 6 - tháng 8 1966)

  • Phan Quân trích dịch từ "Les Cygnes Sauvages" của Jung Chang
    CHƯƠNG 16 - Les Gardes Rouges de Mao

"Lên tới trời và bóp nát quả đất"

 

Dưới triều đại của Mao, một thế hệ thanh thiếu niên lớn lên với một điều tin tưởng chắc chắn là họ phải chiến đấu chống lại kẻ thù của giai cấp. Những lời kêu gọi mp m, mà báo chí đã tung ra nhằm cổ động cho một cuộc cách mạng văn hóa, đã làm cho người ta có cảm tưởng rằng cuộc "chiến tranh" sắp sửa nổ ra. Một số người trẻ sành sỏi chánh trị có cảm tưởng rằng thần tượng của họ - chủ tịch Mao - trực tiếp dấn thân vào chuyện này. Vì đã bị tuyên truyền đầu độc nên họ chẳng còn cách nào khác hơn là đứng về phía Mao. Ngay từ đầu tháng sáu, một nhúm người tranh đấu của một trường trung học trực thuộc Thanh Hoa Đại Học - một trong những đại học nổi tiếng của Trung Quốc ở Bắc Kinh - đã nhóm họp nhiều lần để bàn thảo về chiến lược cho cuộc chiến đấu sắp tới. Họ quyết định tự đặt cho đoàn thể của mình danh xưng "Hồng vệ binh của chủ tịch Mao". Họ lấy câu nói của Mao đăng trên Nhân Dân Nhựt Báo:"Nổi dậy là chính đáng" làm khẩu hiệu hành động.

 

Đợt hồng vệ binh đầu gồm có con cái của những viên chức cao cấp. Chỉ có thành phần này mới cảm thấy an toàn để tiến hành những sinh hoạt như vậy. Vả lại, chính trị dính líu tới môi trường của họ và do đó họ quan tâm đến những âm mưu ý đồ trong chính phủ nhiều hơn đa số người Hoa. Bà vợ của Mao để ý đến họ nên tiếp kiến họ từ tháng bảy. Ngày một tháng tám, Mao đích thân viết cho họ một bức thơ ngỏ, bày tỏ "hậu thuẩn nồng nhiệt và tích cực", một hành động ít thấy ở Mao. Trong bức thơ đó, Mao sửa đổi một cách khôn khéo khẩu hiệu mà những người trẻ đã chọn làm phương châm hành động thành:"Nổi dậy chống bọn phản động là chính đáng". Đối với những thanh thiếu niên cuồng tín này, như vậy chẳng khác nào đích thân Thượng Đế đã ngỏ lời với họ. Kể từ lúc đó, những toán hồng vệ binh sinh sôi nẩy nở ra ở Bắc Kinh, kế đó trên toàn nước Tàu, chẳng khác nào như nấm gặp mưa.

 

Mao mun chọn những nhóm người này làm đội xung kích cho ông. Ông thấy rõ rằng dân chúng không có phản ứng gì lại những lời kêu gọi mà ông đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhằm triệt tiêu những "động cơ tư bản chủ nghĩa". Đảng cộng sản tập họp được những số người quan trọng. Hơn nữa, người ta còn nhớ bài học của năm 1957. Năm đó, Mao đã khuyến khích dân chúng chỉ trích cán bộ đảng, nhưng những ai thi hành lời kêu gọi của ông cuối cùng đều bị cho là thuộc thành phần hữu khuynh và bị kết án. Phần đông người ta nghi ngờ là Mao lại áp dụng chiến thuật đó, nhằm "dụ rắn ra khỏi hang để chặt đầu".

 

Nếu muốn cho dân chúng đáp ứng, thì Mao phải làm cho đảng mất hết quyền hành và bắt buộc những cận thần phải trung thành và tuân hành mệnh lệnh của mỗi mình ông mà thôi. Muốn được vậy thì Mao chẳng còn cách nào khác hơn là làm cho thiên hạ phải kinh hoàng, một nỗi kinh hoàng tột độ, khiến cho người ta chẳng còn suy tính chuyện gì khác được hết và quên đi những nỗi sợ hãi khác. Ông ta nghĩ rằng các cô cậu bị kích thích này, được nuôi dưỡng trong tinh thần tôn thờ cá nhân ông một cách cao độ và trong chủ thuyết hăng say "đấu tranh giai cấp", sẽ là những đại diện tốt nhứt. Tất cả đều có những đức tính đặc thù của tuổi trẻ như phản loạn, dũng cảm, sẵn sàng đấu tranh "vì chính nghĩa". Họ thích phiêu lưu mạo hiểm và hành động. Họ cũng không thấy có trách nhiệm gì, không hiểu biết, dễ bảo và thích bạo động. Chỉ có những người trẻ này mới có thể cung cấp cho Mao sức mạnh vô song, cần thiết để làm cho xã hội Tàu khiếp sợ và tạo ra một sự hỗn loạn làm lung lay nền tảng của đảng, trước khi sụp đổ hoàn toàn. Khẩu hiệu sau đây tóm lược nhiệm vụ của hồng vệ binh:"Chúng ta thề chiến đấu chống lại bất cứ ai đối nghịch với Cách mạng văn hóa, chống lại bất cứ ai dám đương đầu với chủ tịch Mao, dẫu cho phải đổ máu!"

 

Từ trước đến lúc bấy giờ, mọi chỉ thị, mọi mệnh lệnh đều được chuyển qua một hệ thống có kiểm soát chặt chẽ, qua những người trong đảng. Nay, Mao không chịu sử dụng hệ thống đó nữa và trực tiếp dựa vào những người trẻ. Làm vậy, nhưng Mao kết hợp hai chiến lược hoàn toàn khác biệt. Một mặt là những bài diễn văn mơ hồ nhưng cường điệu, khoa trương khoác lác, được báo chí loan truyền một cách công khai. Mặt khác, là những thủ đoạn của những kẻ âm mưu và những người khích động, dưới sự điều khiển của Ủy ban cách mạng văn hóa và đặc biệt là của Giang Thanh, bà vợ Mao.

 

Cử tọa của Mao tự ý mình diễn dịch những lời nói cầu kỳ hoa mỹ của Mao. Những cách nói như "nổi dậy chống chính quyền", "cách mạng ngành sư phạm", "tiêu diệt thế giới cũ để tạo ra một thế giới khác" và "sáng tạo con người mới" - được khá nhiều người phương Tây thích thú trong những năm sáu mươi - được hiểu như là những lời cổ vũ bạo động. Mao rất ý thức về sự bạo động tiềm tàng của giới trẻ. Khi họ được nuôi ăn đầy đủ, và nay các khóa học đều ngưng lại, Mao cho rằng dễ động viên để cho họ tận dụng năng lực dồi dào của họ vào những cuộc xáo trộn.

 

Muốn đưa tuổi trẻ đến chỗ bạo động dữ dội và ồ ạt, nhưng có kiểm soát, thì phải có những nạn nhân. Ở bất cứ trường học nào, mục tiêu hiển nhiên là những giáo viên trong đó một số người đã đau khổ vì thái độ tích cực của những tổ công tác và nhng giới chức thẩm quyền của học đường trong mấy tháng qua. Rồi bây giờ, những học trò nổi loạn bắt đầu tấn công họ nữa. Giáo viên dĩ nhiên là dễ tấn công hơn cha mẹ, nhứt định là lẻ loi hơn, cần được tấn công riêng lẽ. Vả lại, trong nền văn hóa Tàu, họ có nhiều uy quyền hơn. Trong hầu hết những trưòng học Tàu, các giáo viên bị hành hạ ác độc hơn, đôi khi nguy hiểm cho họ. Một vài trường trung học còn mở ra những "nhà tù" để tra khảo những người bị giam giữ.

 

Thế nhưng, như vậy cũng chưa đủ để tạo ra mức độ khủng khiếp mà Mao mong muốn. Ngày 18 tháng 8, có một cuộc tập hợp vĩ đại ở quảng trường Thiên An Môn, tập trung trên một triệu thanh thiếu niên đứng ra biểu tình. Lâm Bưu xuất hiện công khai lần đầu tiên với tư cách phó chủ tịch và người phát ngôn cho Mao. Ông đọc một bài diễn văn cổ vũ hồng vệ binh rời bỏ trường học trong tinh thần xung kích để "đập nát bốn cái xưa cũ", như "ý kiến xưa, văn hóa xưa, phong tục cũ kỹ và tập quán xưa".

 

Sau li kêu gọi khó hiu này, những hồng vệ binh trên toàn nước Tàu kéo nhau xuống đường, tự do phá phách, chẳng cần biết gì hết và tỏ ra vô cùng cuồng tín. Họ cướp bóc nhà cửa tư nhân, đập phá bàn ghế xưa cũ, xé rách tranh vẻ và tranh viết chữ đẹp. Họ nhóm lửa lên để đốt sách. Rồi ra, những kho tàng sưu tập tư nhân chẳng còn gì hết. Một số lớn những văn gia và nghệ sĩ đành phải kết liễu cuộc đời, sau khi bị đánh đập và hạ nhục một cách tàn nhẫn và sau khi nhìn thấy những tác phẩm của họ biến theo lửa khói. Những người trẻ cũng cướp bóc các viện bảo tàng và đập phá cung điện, đền đài, nghĩa trang, tranh tượng, chùa chiền, tường thành. Tất cả những gì liên hệ đến quá khứ đều bị cướp sạch, phá sạch. Một số ít di tích hiếm hoi còn tồn tại được qua trận phá phách này, như Cấm Thành, là nhờ có sự bảo vệ của quân đội, do Thủ tuớng Chu Ân Lai đặc biệt phái đến.

 

Mao khen thưởng nồng nhiệt các hành động của hồng vệ binh và ra lịnh cho cả nước phải hậu thuẩn họ. Ông ta còn khuyến khích họ gia tăng thêm số nạn nhơn để làm cho bối cảnh hải hùng càng khiếp đảm hơn. Những nhà văn, những nghệ sĩ và những bậc trí thức lỗi lạc, và đông đảo những nhà chuyên viên nổi tiếng trong bất kỳ lãnh vực nào, đã từng được ưu đãi dưới chế độ cộng sản, đều bị liệt vào loại bị lên án nặng nề là "bọn người quyền thế, tư sản phản động". Với sự hỗ trợ của một số đồng sự của họ, qua ganh ghét cách này hay cách khác - do đố kỵ hay cuồng tín - nên hồng vệ binh thấy có bổn phận làm cho họ mất tín nhiệm. Người ta cũng trở lại tấn công vào những "kẻ thù giai cấp trước kia", như bọn lãnh chúa và bọn tư bản, như những "người có cảm tình" với Quốc Dân Đảng, những "kẽ hữu khuynh" đã từng bị đặt vấn đề trong những chiến dịch thanh trừng trước kia cùng với con cháu của họ.

 

Một số "kẻ thù giai cấp" chỉ bị "canh chừng" thôi và không bị hành xử hay bị đưa đi trại cải tạo lao động. Trước cách mạng văn hóa, công an chỉ được phép cung cấp tin tức liên quan đến họ cho những người có thẩm quyền. Người ta thay đổi chiến lược. Tạ Phú Trị, bộ trưởng Công an, một trong những người tuyệt đối trung thành với Mao, ra lịnh cho thuộc hạ đem "dâng" những kẻ thù của giai cấp cho hồng vệ binh và nói rõ tội trạng đã được cáo buộc cho những người đó, đại loại như "có ý định lật đổ chính phủ cộng sản".

 

Cho đến ngày cách mạng văn hóa nổi lên, ngoài những hành động hung bạo ra, chuyện tra tấn thì không được phép. Nhưng, tên trùm công an Tạ Phú Trị lại mở ngỏ là "đừng để cho những quy luật xưa cũ trói tay dẫu cho đã được nhà chức trách công an hay nhà nước ban hành". Sau khi đã cho biết là ông không đồng ý "đánh người đến chết", họ Tạ nói thêm:"Nếu như một vài (hồng vệ binh) nào đó căm giận kẻ thù giai cấp đến đổi muốn giết chết, người ta không bị bắt buộc phải ngăn cản họ."

 

Chuyện đánh đập và tra khảo tràn lan khắp nước một cách nhanh chóng, nhứt là trong những chuyến tấn công những người dân thường. Hầu như lúc nào hồng vệ binh cũng ra lịnh cho những gia đình quỳ gối xuống và cúi lạy họ, sau đó họ dùng giây nịch da có khóa bằng đồng đánh đập tàn nhẫn. Họ còn đá nạn nhân, xong cạo phân nửa đầu, một lối cắt tóc vô cùng nhục nhã được gọi là "mái đầu âm dương", vì có hình ảnh giống như huy hiệu nửa trắng, nửa đen cổ điển của Tàu. Tài sản của nạn nhân thì phần lớn bị hủy diệt, những gì còn lại thì họ lấy đem đi.

 

Ở thủ đô Bắc Kinh thì bi đát hơn nhiều, vì ở đó có Ủy ban cách mạng văn hóa để thúc đẩy bọn trẻ. Một số nhà hát và rạp chiếu bóng ở trung tâm thành phố đã biến thành nơi tra tấn. Khách bộ hành tránh không lảng vảng đến những khu vực đó vì trên những con đường phụ cận người ta cũng nghe những tiếng kêu la của nạn nhân.

 

Chẳng bao lâu sau đó, nhiều thanh thiếu niên cuồng nhiệt thuộc những thành phần xã hội khác nhau nhập bọn với con cái của viên chức cao cấp trong chánh phủ, vốn là thành phần phát động ra phong trào hồng vệ binh. Tuy vậy, một số con cháu của giới có máu mặt cũng còn duy trì được những băng đảng riêng biệt, như nhóm gọi là "Trời Trồng". Mao và phe đảng của ông cũng đưa ra một số sáng kiến để chứng minh rằng mình còn uy thế. Trong phiên họp lớn lao kỳ hai của hồng vệ binh, Lâm Bưu mang băng tay đỏ để chứng tỏ rằng ông cũng là một hồng vệ binh như ai. Trong lễ Quốc Khánh, 1 tháng 10, tại Thiên An Môn, vợ Mao gọi hồng vệ binh là những người của đội danh dự. Vì vậy nên một vài người trẻ tự cho là kẻ phản kháng thuộc "con dòng cháu giống", như lời ca của một bài hát:"Con của anh hùng lúc nào cũng là vĩ nhơn, cha phản động chỉ có thể sanh ra những đứa con hoang!" Dựa theo "lý thuyết" này, một số con ông cháu cha đi đến chỗ hành hạ, thậm chí tra khảo bạn bè mình, xuất thân từ những giới bị cho là "rác rưởi".

 

Một lần nữa, Mao để cho họ muốn làm gì thì làm, cốt sao phát động được đà khủng khiếp và hỗn loạn mà ông ta cần có. Tóm lại, tên tuổi của những người bị hành hạ cũng như của mấy tên đao phủ, Mao chẳng cần biết. Những nạn nhơn đầu tiên đâu phải là những đối tượng đích thực của ông ta và ông ta cũng chẳng yêu thương gì đặc biệt những hồng vệ binh mà thực ra ông cũng tin tưởng một cách tương đối mà thôi. Ông ta chỉ lợi dụng họ, vỏn vẹn là như vậy. Về phần mình thì những tên phá hoại tào lao và những phường tra tấn non trẻ kia hành động như vậy cũng chưa chắc gì trung thành trọn vẹn với Mao. Bọn hồng vệ binh được một thời kỳ thích thú vì người ta đã cho họ được trọn quyền, vậy là họ tha hồ chạy theo những bản năng tệ hại nhứt.

 

Thực ra, chỉ một thành phần hồng vệ binh tham dự vào đợt sóng hung ác và thô bạo đó. Phần lớn còn lại không can dự vào, vì hồng vệ binh là một tổ chức lỏng lẻo, thường không bắt buộc thành viên của mình phải ra tay hành động. Đúng ra, không khi nào Mao trực tiếp ra lịnh cho hồng vệ binh phải giết ai và những lịnh lạc của ông ta thường mâu thuẫn nhau. Người ta rất có thể tận tình với lý tưởng của Mao mà không cần phải thô bạo. Những ai chọn lấy phương thức này thì khó mà đổ lỗi cho Mao.

 

Như vậy không phải là nhà "lãnh đạo vỹ đại" của chúng tôi không âm thầm thúc đẩy bọn hồng vệ binh tiến hành những hành động tàn bạo dã man. Ngày 18 tháng 8, qua kỳ tập hợp đầu tiên, trong số tám lần họp lớn, quy tụ không dưới 13 triệu người, Mao hỏi tên một cô bé hồng vệ binh. Cô này đáp là "Bin-bin", có nghĩa là "dịu hiền". Mao bĩu môi rồi tuyên bố:"Từ nay, mày sẽ là Yao-wu-ma", có nghĩa là "mãnh liệt". Mao ít khi lên tiếng giữa đám đông, nên lời phát biểu này làm xôn xao dư luận, và đương nhiên được coi như là lời lẻ của Phúc Âm.

 

Trong kỳ họp lần thứ ba, ngày 15 tháng 9, khi mà những hành động tàn bạo của hồng vệ binh đã lên cao điểm, với tư cách là người phát ngôn của Mao, Lâm Bưu tuyên bố, trước mặt Mao:"Hỡi các chiến sĩ hồng vệ binh, cuộc đấu tranh của các bạn lúc nào cũng đi đúng hướng. Các bạn đã sẵn sàng tấn công những "động cơ của tư bản chủ nghĩa", những giới chức tư sản phản động, các bạn đã đánh đập những kẻ khát máu và những tên ăn bám! Các bạn làm như vậy là đúng! Các bạn đã hành động tuyệt vời!" Nghe những lời này, những tiếng la cuồng loạn, những tiếng gào thét inh tai nhức óc vang lên và đám đông, đứng chật quảng trường Thiên An Môn, hô to những khẩu hiệu, như "Chủ tịch Mao muôn năm!". Nhiều người không cầm được nước mắt và phát biểu ồn ào lòng trung thành vĩnh viễn của mình với Người Lãnh Tụ Vỹ Đại. Mao thân thương vẫy tay đáp ứng lại, thế là cuồng nhiệt lại tăng lên gấp bội.

 

Xuyên qua Ủy ban Cách mạng Văn hóa, Mao kiểm soát được đoàn hồng vệ binh của Bắc Kinh. Thế là ông ta phái họ đi xuống tỉnh để làm gương cho những bọn trẻ khác. Ở Cẩm Châu, thuộc Mãn Châu, bọn chúng cho ông cậu Vũ Lâm của tôi và bà vợ một trận đòn, rồi sau đó đài đi đến một vùng hoang vắng của tỉnh, cùng với hai người con. Còn nhớ lại ông cậu Vũ Lâm đã có vấn đề khi cộng sản mới lên nắm quyền trong tỉnh vì ông có thẻ của ngành mật vụ Quốc Dân Đảng. Thế nhưng từ đó đến nay thì ông cậu cũng như gia đình không ai bị nghi ngờ gì hết. Lúc bấy giờ, chúng tôi không hay biết gì chuyện đó. Thiên hạ tránh né, không trao đổi những tin tức có thể liên lụy đến mình. Chuyện vu khống đã quá phổ biến và có thể mang lại những hậu quả rất ư là khủng khiếp nên người ta làm sao mà biết được một sự tiết lộ nhỏ nhặt có thể đem lại điều tai hại vô cùng to lớn.

 

Người dân Tứ Xuyên nào có hay biết gì đến mức độ tàn bạo đã xảy ra ở thủ đô. Trong tỉnh của họ, tình cảnh dã man không đến đổi phổ quát như vậy, có thể vì Ủy ban Cách mạng Văn hóa không có tác động trực tiếp đến những hồng vệ binh địa phương. Hơn nữa, công an Tứ Xuyên đã lờ đi những mệnh lệnh cấp trên của họ ở Bắc Kinh, đòi họ phải giao những "kẻ thù của giai cấp" do họ kiểm soát cho hồng vệ binh. Dẫu sao đi nữa, ở Tứ Xuyên hay ở nơi nào khác cũng vậy, hồng vệ binh cũng noi gương của đồng bọn ở Bắc Kinh. Thế là rối loạn, nhưng còn kiểm soát được. Họ cướp phá những nhà cửa mà họ có quyền phá phách, nhưng rất ít khi người ta thấy họ ăn cắp những cửa hàng. Phần lớn các ngành công cộng, nhứt là bưu điện và vận tải, tiếp tục hoạt động bình thường.

 

Trong trưng học của tôi, một đội hồng vệ binh được thành lập ngày 16 tháng 8, với sự tiếp tay của một nhóm phái viên từ Bắc Kinh đưa về. Tôi nghỉ học ở nhà, viện cớ bị bịnh, cốt để tránh những cuộc hội họp chính trị và những khẩu hiệu làm tôi khiếp sợ, nên chi tôi không hay biết gì tổ chức mới này. Vài ba ngày sau, có điện thoại báo là tôi bị gọi đến trường để "tham dự cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản". Khi đến trường, tôi trông thấy nhiều học sinh hãnh diện phô bày băng tay đỏ, chữ vàng ghi "hồng vệ binh".

 

Thời đó, những hồng vệ binh tân tuyển này có được uy tín đặc biệt dưới danh nghĩa là "sản phẩm" của Mao. Đương nhiên là tôi cũng phải nộp đơn gia nhập nên tôi làm thủ tục ngay với trưởng toán của lớp tôi, một thiếu niên mười lăm tuổi tên Cảnh. Đã từ lâu, anh chàng nầy muốn kết thân với tôi, nhưng trước mặt tôi là anh ta trở nên nhút nhát và vụng về.

 

Tôi thắc mắc làm sao mà Cảnh lại có thể trở nên thành viên của hồng vệ binh, nhưng anh ta không chịu cho tôi biết chi tiết về hoạt động của mình. Tôi biết rõ rằng hồng vệ binh chủ yếu gồm có con của những người có máu mặt trong chánh trị. Trưởng đoàn hồng vệ binh trường tôi không ai khác hơn là con của thủ trưởng công an Lý, bí thư thứ nhứt của đảng trong tỉnh Tứ Xuyên. Như vậy, tôi có thể được tự động gia nhập vì ba tôi giữ một trong những chức vụ cao cấp so với cha mẹ học sinh. Thế nhưng, Cảnh thổ lộ trực tiếp với tôi là thiên hạ cho rằng tôi quá biếng nhác và "ít năng động" và tôi phải phấn đấu hơn nữa, đoàn mới chấp nhận tôi vào đội ngũ.

 

Kể từ tháng 6, có một quy luật ngầm bắt buộc tất cả học sinh của trường phải có mặt tại chỗ, hai mươi bốn trên hai mươi bốn suốt ngày đêm, để phó thác thân xác lẫn tâm hồn cho cách mạng văn hóa. Tôi là một trong những người hiếm có không tuân thủ điều đó. Thế nhưng, kể từ ngày đó, tôi có cảm tưởng rằng bằng cách trốn học thì thế nào tôi cũng gặp rắc rối. Ngay từ đó, tôi thấy cần phải ở lại trường. Bọn con trai ngủ ở các lớp học, còn con gái thì ở phòng ngủ nội trú. Hồng vệ binh đùm bọc những người bị loại trừ và đưa từng toán vào những sinh hoạt khác nhau của họ.

 

Hôm sau ngày tôi trở lại trường học, tôi tham dự trong dạng như vậy cùng với mấy mươi trẻ em khác vào việc thay đổi tên đường "bằng cách nào đó để cho có âm hưởng cách mạng hơn". Tôi ở đường "Thương Mại". Chúng tôi bàn luận lâu dài về cái tên mới để đặt cho nó. Có người đề nghị "đường Hải Đăng", để nhớ tới vai trò của những người lãnh đạo đảng trong tỉnh. Những người khác đề nghị đường "Công Bộc Nhân Dân", vì đó là chức năng của cán bộ đảng, theo như lời nói của Mao. Cuối cùng, chúng tôi ra về mà chẳng giải quyết được gì hết, vì còn có một vấn đề quan trọng hơn, thuộc diện khác. Đó là tấm bảng đặt quá cao, không một người nào trong chúng tôi có thể với tới. Theo chỗ tôi biết thì vấn đề vẫn còn nguyên đó.

 

Hồng vệ binh của Bắc Kinh tỏ ra có nhiều nhiệt tình hơn. Người ta cho chúng tôi biết thành tích của họ là nhờ hồng vệ binh mà từ nay phái bộ Anh quốc sẽ nằm trên đường "Chống Đế Quốc", và tòa đại sứ Liên Xô, trên đường "Chống Chủ Nghĩa Xét Lại".

 

Ở Thành Đô, các con đường mất lần mất hồi những tên gọi xa xưa, như đường "Ngũ Đại Đồng Đường" (một phẩm chất mang tính Khổng học), đường "Cây Dương và Cây Liễu Xanh" (màu xanh không có tính cách mạng), hay đường "Ngọc Long" (tiêu biểu cho thế lực phong kiến). Những con đường đó được đổi lại thành đường "Hủy Diệt Cột Trụ Cũ", đường "Đông Phương Hồng", đường "Cách Mạng". Bảng hiệu của nhà hàng "Hương Thơm Gió Thoảng" nổi tiếng, bị đập tan thành mảnh vụn và được đặt lại tên mới là "Hơi Thuốc Súng Đại Bác".

 

Giao thông đường phố bị xáo trộn trầm trọng trong nhiều ngày. Không thế nào để cho màu đỏ, màu của cách mạng, lại đồng nghĩa với dừng lại! Xe cộ không phải chạy bên phải nữa mà bên tay trái. Trong vòng một đôi ngày, chúng tôi thay thế đột ngột những cảnh sát lưu thông. Đứng ở một góc đường, nhiệm vụ của tôi là nói cho những người đi xe đạp biết là họ phải đi bên trái của con đường. Ở Thành Đô, xe cộ và đèn đỏ không có mấy, nhưng vậy mà cũng có xáo trộn ở nhiều ngã đường. Cuối cùng, luật đi đường cũ được áp dụng trở lại nhờ Chu Ân Lai làm áp lực với những trưởng đoàn hồng vệ binh của Bắc Kinh. Bọn trẻ cuồng nhiệt vẫn có cách để chứng minh những trường hợp phải trở lại như xưa. Quả nhiên, một cô hồng vệ binh non trẻ của trường tôi đoan chắc với tôi rằng xe cộ phải chạy bên phải để cho khác với bên Anh, để biểu lộ tinh thần chống tư bản của chúng ta. Nhưng cô ta tránh không đề cập gì đến Hoa Kỳ.

 

Từ những ngày còn bé, tôi rất kỵ các sinh hoạt tập thể. Bây giờ, những loại sinh hoạt đó càng làm tôi chán ghét hơn bao giờ hết. Tôi cố đẩy lui những khuynh hướng đó trong mặc cảm tội lỗi mỗi khi tôi nhận thấy ý chí của tôi đi ngược lại ý chí của Mao. Tôi tự nhủ lòng là phải khắc sâu trong đầu óc những lý thuyết mới và những đường hướng lao động cách mạng. Dẫu cho tôi chẳng hiểu biết hết, tôi cũng phải thích nghi và cải thiện bằng mọi giá. Như vậy cũng không ngăn cấm tôi tìm mọi cách để khỏi lao vào những hành động mang tính đấu tranh, chẳng hạn như, lúc bấy giờ, là chận người qua đường lại để cắt tóc, sửa ống quần hoặc sửa y phục lại, hay là bẻ gảy gót giày cao. Thực tế mà nói thì những hồng vệ binh của Bắc Kinh cho rằng những kiểu cách ăn mặc đó là dấu hiệu của sự suy đồi kiểu tư sản.

 

Bạn bè tôi chỉ trích nặng nề về chuyện tóc tai của tôi. Cuối cùng chúng nó bắt tôi phải cắt ngắn bên trên trái tai. Nghĩ rằng mình chỉ là "cô bé tư sản" hèn hạ, nhưng tôi cũng không khỏi khóc sướt mướt, nhưng một cách thầm lén, khi phải cắt bỏ những bím tóc dài. Hồi bé, chị vú em của tôi, khi chải tóc cho tôi thường làm cho hai cái bím dựng đứng lên, giống như những cành liễu. Chị gọi đó là những "pháo bông bay lên tấn công ông trời". Đến đầu những năm sáu mươi, tôi có hai cuộn tóc với hai vòng hoa bằng lụa. Mỗi sáng, trong khi tôi ăn điểm tâm vội vàng, bà ngoại và chị người làm chải tóc tôi với những cử chỉ trìu mến. Tôi rất thích những vòng hoa lụa màu hồng.

 

Sau năm 1964, đúng với lời cổ vũ của Mao nhằm áp dụng một lối sống khắc khổ, thích hợp với công cuộc đấu tranh giai cấp hơn, tôi khâu vá những mảnh vải trên cái quần của tôi để cho có vẻ "vô sản" và chải tóc như tất cả các cô bé khác, với hai bím giản dị, không có băng vải gì hết. Người ta chưa cấm để tóc dài. Về sau, chính bà ngoại cắt tóc cho tôi, với một dáng điệu rõ ràng là chẳng mấy thích thú. Mái tóc dài của bà vẫn tồn tại vì lúc bấy giờ bà chẳng khi nào ra ngoài hết.

 

Người ta cũng đặt vấn đề đối với những "phòng trà" nổi tiếng của Thành Đô, coi đó như là biểu hiện của sự "suy đồi". Thực ra, tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi cũng không muốn hỏi. Trong mùa hè năm 1966, tôi đã học được cách đè nén mọi suy luận trong thâm tâm. Đã lâu lắm rồi, phần đông người Tàu đã quyết tâm làm như vậy.

 

Những phòng trà Tứ Xuyên là những nơi chốn hoàn toàn đặc biệt. Các quán đó thường nằm dưới những lùm tre hoặc những vòm lá của một cây to. Chung quanh những cái bàn bằng cây là những chiếc ghế tre có dựa lưng, còn tỏa ra một hương thơm đặc biệt. Muốn pha trà, người ta cho một nhúm lá vào một cái tách, sau đó đổ nước sôi vào. Rồi đậy tách lại bằng một cái nấp, không cần đậy kín để cho hơi thơm mùi hoa lài hay bất cứ mùi gì khác tỏa ra. Người ta uống cả một lô trà ở Tứ Xuyên. Đã có năm loại trà ướp hoa lài rồi.

 

Những phòng trà đó có một vai trò quan trọng đối với tỉnh này của Trung Quốc, cũng giống như các quán rượu bên Anh. Đặc biệt, những người cao niên đã mất nhiều thì giờ ở đó, vừa nhâm nhi tách trà, vừa hút điếu cày và nhấm nháp quả phỉ hay nhai hột dưa. Người hầu bàn luồn lách giữa những chiếc ghế, tay cầm ấm nước nóng và lần hồi châm vào tách một cách vô cùng chính xác, dẫu cho đứng xa một khoảng cách. Một người hầu bàn vén khéo có thể châm nước đầy miệng tách mà nước không tràn ra. Lúc nhỏ, khi nào tôi cũng nhìn trân trân dòng nước chảy ra khỏi vòi ấm. Tuy vậy, tôi cũng không đến phòng trà thường. Thực ra, bầu không khí phòng trà hơi bừa bải nên ba mẹ tôi không thích.

 

Theo gương một số quán cà phê châu Âu, những phòng trà Tứ Xuyên cũng để báo cho khách hàng đọc, lồng trong một cái khung bằng tre. Một vài khách hàng quen thuộc đến đó để đọc báo, nhưng người ta đến đó cốt để gặp nhau và nói chuyện, để trao đổi tin tức và tán gẫu. Đôi khi, những người kể chuyện cũng làm cho thính giả chú ý lắng nghe.

 

Nhứt định là ở các phòng trà có một bầu không khí rất thoải mái và khi đã ung dung tự tại thì thiên hạ quên làm cách mạng, nên người ta đã ra lịnh đóng cửa phòng trà. Một hôm, tháp tùng với mấy mươi người bạn từ mười ba đến mười sáu tuổi, phần đông thuộc hồng vệ binh, tôi đến một phòng trà như vậy, nằm trên bờ Sông Lụa. Người ta bài bàn bên ngoài, dưới một cái cây to lớn. Cơn gió thoảng mùa hè lan tỏa ra không gian một hương thơm ngây ngất từ những cành cây đơm hoa. Những người khách, phần lớn là đàn ông, đang đánh cờ, ngẩng đầu lên nhìn, khi nghe chúng tôi đến gần, trên bờ sông cẩn đá gập ghềnh. Chúng tôi dừng lại dưới gốc cây. Từ phía chúng tôi, một vài tiếng la:"Các người hãy về đi! Các người nên về đi! Đừng tới địa điểm tư sản này nữa!" Một đứa con trai của lớp tôi nắm lấy một góc bàn cờ bằng giấy trên bàn gần đó vứt đi. Những con cờ bằng cây rơi rải tung tóe ra đầy đất.

 

Những người đánh cờ còn trẻ. Một trong hai người vùng đứng lên, hai tay nắm chặt, nhưng người bạn của ông ấy đã nắm áo kéo lại. Không nói chẳng rằng, họ bắt đầu thu lượm mấy con cờ. Thế là người bạn, đã nhẫn tâm làm gián đoạn ván cờ của họ, la to:"Chấm dứt trò chơi cờ đó đi! Bộ các người không biết đó là thói quen tư sản hay sao?" Rồi anh ta cúi xuống hốt một nắm con cờ vứt xuống sông.

 

Tôi đã được dạy dỗ là phải kính trọng và nhã nhặn với người trên trước. Vậy mà, lối xử sự của "chiến sĩ cách mạng" lại lấy hung hăng làm gốc. Xử sự êm dịu được coi như là một thái độ "tư sản", bạn bè tôi luôn trách cứ tôi quá khoan dung. Trong suốt thời kỳ cách mạng văn hóa, tôi đã chứng kiến những cuộc đã kích những người hay nói "cám ơn" quá nhiều, một thói quen bị cho là thói "đạo đức giả kiểu tư sản". Lễ nghĩa phép tắc đang đi đến chỗ diệt vong.

 

Thế nhưng, ngày hôm đó, trước phòng trà, rõ ràng là phần lớn những bạn bè của tôi, kể cả các hồng vệ binh, chưa ngạo nghễ và chưa ăn nói tàn nhẫn một cách thoải mái như người ta nghĩ. Ít có ai mở miệng nói gì. Trong âm thầm, một vài người trong bọn tôi bắt đầu dán những "đại tự báo" (báo tường với những chữ to) hình chữ nhựt lên vách của trường học và trên thân cây.

 

Không nói một tiếng nào, những người khách lần lượt đứng lên và âm thầm lìa xa, bước dọc theo bờ sông. Nhìn họ ra đi, lòng tôi tràn ngập một cảm giác lầm lỗi. Vài ba tháng trước đó, những người lớn này có thể đã đuổi chúng tôi chạy chẳng chút nể nang. Nhưng giờ đây, họ biết rằng hậu thuẫn của Mao đã ban cho hồng vệ binh một uy thế không sao chối cải được. Ngày nay khi nghĩ lại, tôi nhận thức được nỗi niềm hứng khởi mà một số người trẻ tuổi cảm thấy, khi họ bắt người lớn phải nghe theo họ. Một trong những khẩu hiệu thông tục nhứt của hồng vệ binh nói rằng:"Chúng ta có thể lên trên trời và bóp nát quả đất, vì người Lãnh Tụ Vỹ Đại của chúng ta, chủ tịch Mao, là người chỉ huy tối cao của chúng ta." Như lời công bố này cho thấy thì người ta tuyệt nhiên không thể nào nói rằng hồng vệ binh được tự do hành động. Ngay từ đầu, họ đã là công cụ của một kẻ chuyên chế.

 

Vào tháng 8 năm 1966, trong khi tôi đang rảo bước trên bờ sông, trước phòng trà, lòng tôi bối rối vô cùng. Tôi đi theo các bạn vào bên trong phòng trà. Một vài người bạn bảo ông quản lý đóng cửa phòng trà đi. Nhiều bạn khác dán những khẩu hiệu khác lên tường. Một vài khách đứng dậy bỏ đi, nhưng trong một góc tiệm, một ông già tiếp tục nhâm nhi trà một cách bình tỉnh. Tôi đến đứng gần ông, lòng thấy xấu hổ với ý nghĩ là đến để ra oai với ông lão. Ông ngước mắt nhìn tôi, rồi tiếp tục uống trà rất kêu, nghe rồn rột. Ông có cái mặt nhăn nheo, làm cho ông trông gần giống như mẫu người "thợ thuyền", được vẽ trên những bích chương tuyên truyền. Hai bàn tay của ông làm tôi nghĩ đến đoạn văn mô tả về một nông dân già mà tôi đã đọc trong sách ở nhà trường. Với hai bàn tay đó, ông có thể làm thành những bó củi gai mà không cảm thấy chút đau đớn nào.

 

Có thể ông lão thấy tự tin vì quá khứ không chê vào đâu được của mình, hoặc vì tuổi tác đã cao, khiến cho đến bây giờ ai cũng phải nể. Có thể tôi chẳng làm cho ông nao núng chút nào hết. Lúc nào cũng vậy cho nên ông cứ thản nhiên ngồi, coi như không quan tâm đến sự hiện diện của tôi. Tôi cố gắng hết sức mình và nhỏ giọng yêu cầu:"Xin lỗi ông. Ông không muốn đi sao?" Không nhìn tôi, ông đột nhiên trả lời:

- Đi đâu?

- Dĩ nhiên là về nhà ông.

Vậy là, ông quay sang tôi. Với một giọng nói hơi cảm xúc, dù ông bình tĩnh giải bày:

- Nhà tôi à! Nhà nào đây? Tôi chia sẻ một gian phòng bé tí tẹo với hai người cháu của tôi. Tôi chiếm một góc nhỏ, nằm sau một tấm bình phong bằng tre. Chiếc giường chiếm hết khoảng trống rồi. Tất cả không gian của tôi chỉ có ngần ấy. Khi các cháu về, tôi đến đây để tìm sự yên tĩnh. Tại sao cô lại lấy mất niềm vui sướng độc nhứt của tôi?

 

Nhng li nói của ông làm cho tôi hãi hùng. Tôi đỏ mặt vì xấu hổ. Lần đầu tiên tôi trực tiếp nghe được bằng chứng về một lối sống khốn khổ đến như vậy. Tôi quay mặt đi và bỏ chạy trốn thật nhanh.

 

Phòng trà đó bị đóng cửa trong mười lăm năm, cũng như tất cả các hàng quán tương tự trong tỉnh Tứ Xuyên. Năm 1981, những cải cách do Đặng Tiểu Bình áp dụng đã cho phép họ mở cửa trở lại. Năm 1985, tôi trở lại nơi chốn đó với một anh bạn người Anh. Chúng tôi ngồi vào một cái bàn dưới tàn cây khổng lồ. Một bà hầu bàn lớn tuổi, đem ấm nước lại châm trà vào tách chúng tôi một cách khéo léo dù đứng xa bàn gần một thước. Chung quanh chúng tôi, người ta đang đánh cờ. Đó là một trong những giây phút thú vị nhứt trong chuyến đi của tôi.

 

Khi Lâm Bưu đưa ra ý kiến hủy diệt tất cả những gì tượng trưng cho nền văn hóa xưa cũ, một số học sinh của trường tôi định đập phá hết. Trường này hiện hữu trên hai nghìn năm, lưu giữ nhiều đồ vật cổ. Họ tha hồ mà đập phá. Cổng vào là một mái ngói xưa, được trang trí bằng một mái hiên có chạm trổ. Họ lấy búa đập phá, và đập cả mái nhà rộng lớn bằng hợp chất thủy tinh hóa màu xanh, lợp trên cái đền thờ rộng lớn biến thành phòng đánh bóng bàn. Hai lư nhang bằng đồng vĩ đại cũng bị biến thành mảnh vụn, và một vài đứa con trai còn vạch quần tiểu vào đó. Đằng cuối vườn, học trò vác búa tạ và thanh sắt đi nhỡn nhơ trên những cây cầu bằng sành rồi tiện tay đập bể mấy cái tượng nhỏ trên cầu một cách thoải mái, không cần phải ngượng. Bên cạnh sân thể thao, có hai cái tháp uy nghi hình chữ nhựt, bằng sành đỏ, cao sáu thước. Trên đó người ta ghi khắc một đôi hàng về Khổng Tử, với những nét bút pháp đẹp mắt. Bọn nó lấy hai sợi dây dài quấn lên hai cái tháp đó, rồi hai nhóm người phá hoại bắt đầu ra tay. Phải mất mấy ngày họ mới hoàn thành công tác vì hai cái tháp có chưn nền được chôn khá sâu. Cuối cùng, họ phải nhờ những người công nhân tiếp tay, đào một lỗ lớn ở dưới chưn tháp. Cuối cùng, khi hai tháp ngã nhào giữa những tiếng hoang hô vang dội, một đoạn đường chạy phía sau hai tháp cũng đi luôn.

 

Tất cả những gì tôi ưa thích đang lần lượt tan biến đi. Điều làm tôi buồn hơn hết, nhứt định là chuyện đập phá thư viện, với mái ngói mạ vàng, những cửa sổ chạm trổ khéo léo, những chiếc ghế ngồi màu xanh lơ. Đám hồng vệ binh tuông sách trên kệ xuống đất, có người còn xé sách, chỉ để chơi thôi! Sau đó, người ta dán tréo lên những chỗ có cửa hay cửa sổ trước kia bằng những băng bằng giấy, viết đầy chữ đen, để niêm phong gian phòng.

 

Lịnh phá hoại do Mao đưa ra đặc biệt nhằm vào sách vở. Lấy cớ là những sách đó không được viết ra trong những tháng gần đây, do đó không trích dẫn Mao ở mỗi trang, một vài hồng vệ binh cho đó là thứ "cỏ độc". Ngoại trừ những loại sách cổ điển mác xít và những tác phẩm của Staline, của Mao và của Lỗ Tấn, người ta đốt sách trên khắp đất nước Trung Quốc. Như vậy là đất nước này mất đi phần chủ yếu của di sản chữ viết. Hơn nữa, phần lớn những tác phẩm còn sót lại sau trận càn quét đó, về sau cũng bị kết liễu trong các bếp lò của tư nhơn.

 

Tuy nhiên, ở trường tôi, chúng tôi đã tránh được thảm họa đó. Thực ra cũng nhờ anh trưởng đoàn hồng vệ binh của chúng tôi là một học sinh có lương tâm. Một người trai trẻ mười bảy tuổi, dáng vẻ con gái. Không phải vì tham vọng mà anh ta được đưa lên chức vụ đó, nhưng có điều là, như tôi đã nói, ba của anh ta lãnh đạo đảng ở cấp tỉnh. Nếu như anh ta không làm gì được để ngăn cản đợt phá phách văn nghệ phẩm thì ít ra cũng cứu vãn được những tác phẩm khỏi bị thiêu đốt.

 

Lẽ ra, tôi phải tham dự vào những "hành động cách mạng" như mọi người. Thế nhưng, cũng giống như một số đông bạn bè, tôi có thể lẫn tránh vì cuộc "tàn sát" không được tổ chức và không ai kiểm soát. Tôi thấy rõ là có một số đông học trò bất bình trước những sự phá phách này, nhưng chẳng một ai dám can thiệp. Chúng tôi thừa biết rằng nếu có chút gì phản bác là chúng tôi sẽ bị trừng phạt ngay.

 

Cho nên, những phiên họp "đấu tố" là một trong những công cụ chính yếu của cách mạng văn hóa. Tham dự là một đám đông xừng xỏ, bị kích động tối đa và những phiên họp như thế lúc nào cũng có bạo động thể xác. Sáng kiến này bắt nguồn từ trường đại học Bắc Kinh, do Mao đích thân điều động. Ngày 18 tháng 6, trong phiên họp "đấu tố" đầu tiên, trên sáu mươi giáo sư và khoa trưởng, luôn cả ông viện trưởng, bị đánh đập không nương tay và bị bắt buộc phải quỳ gối hàng giờ. Người ta chụp lên đầu họ những cái mũ đầu lừa, viết đầy những khẩu hiệu nhục nhã, rồi người ta đổ mực lên mặt họ biến thành những người đen, màu của tội ác, rồi lại dán trên khắp người họ những biểu ngữ khác đầy tính du khống. Hai người sinh viên nắm hai tay nạn nhơn, vặn ngược ra sau lưng, đẩy lên cao đến vai, gần trặc xương. Tư thế đau thương đó của nạn nhân được mang bí danh "phi cơ phản lực" và được phổ biến nhanh chóng trong tất cả những phiên họp "đấu tố".

 

Có một ngày, bọn hồng vệ binh của lớp tôi triệu tập tôi tham dự một trong những phiên họp như vậy. Cơn sợ hải làm tôi run cầm cập, mặc dù trời đang xế trưa, nóng ngộp thở, khi tôi thấy khoảng mươi nhà giáo đứng trên một cái bục đặt trên sân vận động, đầu cúi xuống và hai tay tréo ra sau lưng, trong tư thế của "phi cơ phản lực". Một vài người bị đá ở phía sau đầu gối để bắt buộc phải quỳ xuống, còn những người khác, trong đó tôi nhìn ra được thày dạy Anh văn của tôi, một con người đứng tuổi, cử chỉ thanh tao của kẻ hào hoa phong nhã, bị bắt đứng trên một chiếc băng dài mà hẹp té. Con người khốn khổ kia rất là chật vật để giữ thăng bằng, ông lảo đảo thật nguy hiểm rồi cuối cùng té ngã, đập đầu vào góc cạnh của chiếc băng, bị trầy ở trán. Một hồng vệ binh đứng gần đó, tự động cúi xuống và đưa tay ra để giúp ông đứng dậy, nhưng rất nhanh chóng đứng thẳng người lên và thay đổi thái độ thật cứng rắn, hai bàn tay nắm lại và la hét:"Trở lại chiếc băng, mau!" Anh ta không muốn cho thiên hạ nghĩ rằng anh ta có thể khoan nhượng đối với giai cấp thù địch. Từ vết thương trên trán của ông giáo sư, một tia máu chảy ra và làm dơ hết nửa cái mặt của ông.

 

Cũng như những nhà giáo khác, ông bị người ta tố cáo đủ thứ tội ác huyễn hoặc. Những người này chủ yếu bị đưa ra đó là vì họ có đẳng cấp tương đối cao, vì họ thuộc thành phần ưu tú, hay là vì một vài học trò thù hằn họ vì một lý do nào đó.

 

Mấy năm sau, tôi được biết là những bạn bè thời trung học của tôi đã tương đối giữ gìn ý tứ hơn vì đã là học trò của một trong những trường uy tín trong tỉnh thì họ phải chuyên cần và có năng khiếu. Ở những cơ sở khác, ít tiếng tăm hơn, thường thu nhận học sinh kém kỷ luật hơn, một số giáo sư bị đánh đập phải bỏ mạng. Giáo sư triết của tôi, hơi lơ là những người không thành công lắm trong môn học của bà nên một vài đứa thù ghét bà. Tụi nó lên án bà là kẻ "suy đồi". "Bằng chứng" của chúng nó là vì bà đã gặp người chồng tương lai trên một chuyến xe buýt, một bằng chứng phản ảnh thái độ vô cùng bảo thủ của cách mạng văn hóa. Hai người tình cờ nói chuyện với nhau rồi như vậy là họ yêu nhau. Thế nhưng, si mê đột ngột như bị "cú sét ái tình" là bị coi như không có đạo đức. Một lũ con trai lôi bà vô một văn phòng và "có những hành động cách mạng", một cách nói khéo để che đậy những đòn đánh đập. Trước khi hành động, bọn chúng cố tình kêu tôi đến để chứng kiến cảnh nhục hình mà bà phải gánh chịu. Tụi nó còn nói:

- Bà sẽ nghĩ ra sao khi nhìn thấy mày, học trò cưng của bà, trong bọn chúng tao!

Những học trò khác coi tôi như học trò ruột của bà vì bà thường khen ngợi chuyện học hành của tôi. Tuy vậy, bọn chúng nó còn nói thêm là tôi cũng cần phải có mặt vì tôi không mấy cương quyết. Cho nên, tôi cần phải tiếp thu một bài học "về cách mạng".

 

Khi bọn chúng khởi sự đánh đập bà giáo thì tôi rút lui lại đàng sau những học trò chùm nhum với nhau trong văn phòng nhỏ. Vài ba người bạn lấy cùi chỏ đẩy tôi ra phía trước để chứng kiến trận đòn. Tôi cứ làm ngơ. Đứng giữa nhóm người đó là bà giáo của tôi liên tục bị đá, bị đạp, lăn cù dưới đất vì đau đớn, tóc tai bù xù. Khi bà la lên để van xin bọn chúng ngừng tay thì họ lạnh lùng quát:

- À bây giờ mày mới chịu năn nỉ hả! Mày không biết nhục về những chuyện mày làm à! Van xin chúng tao hơn thế nữa đi!

Thế rồi, họ lại tiếp tục đạp đá bà và bắt bà cúi lạy trước mặt chúng và nói:"Tôi khẩn cầu các sư phụ tha tội chết cho tôi." Không thể tưởng tượng còn sự nhục nhã nào khủng khiếp hơn nữa. Bà giáo đau khổ đứng lên, nhìn thẳng ra phía trước và xuyên qua làn tóc rối, bà bắt gặp cái nhìn của tôi. Tôi cảm thấy qua cái nhìn đó nỗi đau đớn của bà, niềm tuyệt vọng, một sự rỗng không khó tả. Bà cố gắng lấy lại hơi thở. Bà xanh như xác chết. Tôi rời khỏi căn phòng mà những tên đồ tể kia không thấy. Nhiều học sinh khác cũng bắt chước tôi. Sau lưng chúng tôi, có những tiếng la to khẩu hiệu với giọng ngập ngừng và ngại ngùng. Nhiều người bạn tôi chắc đã hoảng sợ. Tôi nhanh chóng lánh xa, tim đập liên hồi. Tôi sợ chúng nó bắt gặp rồi chúng lại đánh đập tôi. Nhưng, không thấy ai đuổi theo và chẳng có ai trả thù tôi hết.

 

Dẫu tôi không hăng say, thế nhưng lúc bấy giờ người ta vẫn để tôi yên. Cũng may là nhờ phong trào hồng vệ binh tan rả, nhưng nhứt là nhờ tôi có được ưu điểm là con dòng cháu giống thuộc loại "đỏ tươi", vì ba tôi có địa vị cao trong đẳng cấp của đảng. Dù người ta chỉ trích thái độ của tôi thì cũng chỉ phê phán thế thôi chẳng bao giờ ra tay hành động.

 

Thời đó, hồng vệ binh xếp học sinh ra làm ba loại, "đỏ", "xám" và "đen". Loại "đỏ" xuất thân từ những gia đình "công nhân, nông dân, viên chức cách mạng, sĩ quan cách mạng hay hy sinh cho cách mạng". Loại "đen" là những người có cha mẹ bị liệt kê vào hạng "địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu hoặc hữu khuynh". Còn loại "xám", xuất phát từ thành phần mơ hồ như nhân viên hãng tư hoặc những người mua bán. Tất cả học sinh lớp tôi lẽ ra thuộc loại "đỏ", thông qua cuộc sàn lọc trước khi gia nhập. Thế nhưng, áp lực của cách mạng văn hóa bắt buộc phải tìm ra những kẻ gánh lấy cái họa thay cho người khác. Vì vậy cho nên hơn chục người bị xếp vào loại "xám" và "đen" một cách khơi khơi, không cơ sở.

 

Tôi có một chị bạn cùng lớp tên Ái Linh, thân thiết nhau từ lâu. Chị thường rủ tôi tới nhà chơi và tôi biết rõ ba má chị. Ông của chị là một nhà kinh tế lỗi lạc và gia đình chị có được một cuộc sống ưu đãi dưới thời cộng sản. Họ sinh sống trong một ngôi nhà lớn và sang trọng, trang trí rất thanh lịch, xung quanh nhà là một cái vườn rất xinh đẹp. Sang trọng hơn nhà chúng tôi nhiều. Tôi thích nhứt là bộ bàn ghế cỗ, đặc biệt là mấy cái bọc đựng thuốc hút mà ông của chị đã đem từ bên Anh về, sau khi du học trong những năm 1920.

 

Chẳng bao lâu mà Ái Linh đã bị liệt vào loại "đen". Tôi được biết những học sinh của lớp chị ập vào nhà chị, đập phá bàn ghế, kể cả những hộp đựng thuốc hút, và lấy dây nịt đánh đập ba má và ông của chị. Ngày hôm sau, khi tôi gặp lại, thì đầu chị đã đội khăn. Các bạn cùng lớp đã biến cái đầu chị thành kiểu "âm dương", nghĩa là cạo trọc nửa đầu thôi. Chị đành phải cạo luôn. Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Tôi cảm thấy vô cùng tệ bạc vì tôi chẳng biết ăn nói làm sao để an ủi chị.

 

Toán hồng vệ binh lớp tôi tổ chức một phiên họp, bắt mỗi người phải kê khai nghề nghiệp của cha mẹ để xếp theo từng loại. Tôi khai "viên chức cách mạng" mà nhẹ nhõm cả người. Nhiều học sinh khai "nhân viên văn phòng". Những nghề nghiệp thuộc loại khái quát như vầy phải nằm trên nhiều tờ khai, tờ nào cũng có ghi "lý lịch gia đình". Những người con của "nhân viên văn phòng", cũng như con cái của người bán hàng được xếp vào loại "xám". Người ta cho họ biết rằng từ nay họ sẽ bị theo dõi, phải quét sân trường, quét dọn phòng vệ sinh, phải cuối đầu và sẵn sàng nghe lời khiển trách của mọi hồng vệ binh nào còn tử tế muốn ngỏ lời với họ. Họ còn phải làm báo cáo hàng ngày, nói rõ sinh hoạt và tư tưởng của họ.

 

Thái độ của những học sinh không may mắn này đột nhiên thay đổi hoàn toàn. Họ trở nên ngoan ngoản, ẩn mình. Họ mất hết nghị lực và nhiệt tình chớ không như ngày trước. Khi biết được tin đó, một trong những nạn nhơn té nhào và nước mắt chảy dài trên má. Hai đứa tôi là bạn thân nhau. Sau phiên họp, tôi đi tìm cô nàng với hy vọng là sẽ an ủi được phần nào chăng. Khi cô nàng ngẩn mặt lên nhìn tôi thì tôi rất đỗi ngạc nhiên vì trong ánh mắt có gì oán giận, gần như căm thù. Tôi bỏ đi, không nói lấy một lời nào và lang thang vô định qua những khu vườn. Lúc bấy giờ đã cuối tháng Tám. Những cụm hoa lài thoang thoảng hương thơm tuyệt vời. Tôi nghĩ lạ thật, tại sao hoa vẫn còn thơm.

 

Trời chạng vạng tối, tôi trở về nhà ngủ thì tôi thấy một cái gì thoáng qua ngang cửa sổ như tia chớp, ở từng nhì của tòa nhà lớp học, cách chỗ tôi đứng chừng năm mươi thước. Có một cái gì rơi đánh bịch ở dưới tòa nhà. Một cành cây cam án mất, tôi chẳng thấy được gì xảy ra, nhưng người ta bắt đầu đổ xô lại. Những tiếng la ó xôn xao, hổn hển cho tôi biết được sự thật là có ai đó đã nhảy qua cửa sổ.

 

Tự nhiên tôi đưa tay lên che mắt rồi hối hả chạy vào phòng. Tôi khiếp sợ. Hình ảnh mờ mờ của bóng người nằm cong queo khi nhảy lầu cứ ám ảnh tôi. Tôi vội vàng đi đóng cửa sổ lại, nhưng tiếng ồn ào của những người hiếu kỳ xôn xao bình luận về tai nạn cũng đến tai tôi, cứ xuyên qua lớp cửa kiếng mỏng.

 

Một cô gái mười bảy tuổi muốn quyên sinh. Trước cách mạng văn hóa, chị là một trong những thủ lãnh của Liên đoàn thanh niên cộng sản. Người ta đưa chị ấy ra làm điển hình vì chị đã thực hành đúng lời dạy của chủ tịch Mao và những bài học của Lôi Phong[1]. Chị đã hoàn thành vô số điều tốt, giặt giũ quần áo của bạn, lau chùi phòng vệ sinh và thường đọc những bài diễn văn ở trường. Vậy mà, mới đây chị lại bị xếp vào loại "đen". Ba chị làm "thơ ký văn phòng". Ông ấy làm việc cho chính quyền thành phố và cũng là đảng viên. Nhưng, một vài bạn của chị, có cha làm ở những địa vị lớn hơn, đã tùy tiện xếp chị vào loại nhục nhã nhứt. Đôi ba ngày nay, chị bị theo dõi cùng với những người "đen" và "xám" khác và bắt chị nhổ cỏ sân thể thao. Để làm nhục chị hơn nữa, người ta đã cắt đi mái tóc đẹp của chị, làm chị có một cái đầu trọc lốc thật kỳ khôi. Tối hôm đó, bọn người "đỏ" đã lên lớp chị cùng những nạn nhơn khác. Bị hạ nhục, chị phản ứng lại, cho rằng chị còn trung thành với Mao chủ tịch hơn họ. Thế là bọn chúng đã tát tai chị và nói rằng chị không được quyền nói là trung thành với chủ tịch Mao vì chị là kẻ thù của giai cấp. Chị đã chạy lại cửa sổ và lao mình vào khoảng không.

 

Bàng hoàng và sợ hải, hồng vệ binh khẩn cấp đưa chị đến bịnh viện. Chị sống sót nhưng tật nguyền suốt đời. Mấy tháng sau, tôi gặp chị ngoài đường, đi đứng khó khăn phải dùng nạng, dáng điệu như người mất trí.

 

Đêm hôm chị định quyên sinh, tôi không làm sao ngủ được. Tôi vừa nhắm mắt thì một hình dáng mờ mờ ảo ảo xuất hiện, dính đầy máu. Tôi run rẩy và hoảng sợ. Ngày hôm sau, tôi xin nghỉ ở nhà và được chấp thuận. Chỉ có ở nhà mới là lối thoát cho tôi, xa lánh cái ghê tởm của trường học. Bằng mọi giá, tôi không bao giờ trở lại trường học nữa.

 

 

 Phan Quân

(Trích dịch)


[1] Lôi Phong, chiến sĩ Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc, bị cột đèn ngả đè chết. Chiến dịch tuyên truyền cho rằng anh ta là một con người dám hy sinh và tận tụy với chủ tịch Mao. Năm 1963, Mao ra lịnh phát động phong trào "Học tập đồng chí Lôi Phong".

 


PHAN QUÂN

 
Tên thật: Phan Văn Minh
Ngày sanh: 17.02.1931
Dân Sài Gòn
Học sinh Pétrus Ký
Khoá I Thủ Đức (1951-1952)
Sĩ quan bộ binh: (1952-1953)
Sĩ quan Không Quân: (1954-1975)
Tù cải tạo: (1975-1987)
Định cư ở Pháp: (1990-...)

Tác phẩm :

Tập truyện Nỗi Buốn Côi Cút.

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |    LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.