Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp
Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị
Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại
khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự
mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù
cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn
trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông
Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết
của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.
Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ
miền
Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh
ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại
Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha
Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến
ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm
1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ
nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế
tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng
của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người
Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa
bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm
miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên
viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi
tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột
cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các
nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở
về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị
kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn
tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không
muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải
qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù
Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt
Nam
trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam,
trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào
đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên
tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian
tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những
ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất
gốc mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của
Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy
rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh
sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn
các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy
Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và
có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã
bị hy sinh một cách tức tưởi. Bà nói, “Ai dám bảo là quân ta
không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của
du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại
pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi
bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng
ngày càng hung hăng tàn ác.
Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản
Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các
chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn
tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không
ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không
thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã
thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những
việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế
của cộng sản. Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một
xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con
người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng.
Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các
con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần
Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trính diện nên thấy đỡ cô
đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự
tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự
chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu
thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên
được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không
cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều
gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn
với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.
Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ
không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập
vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy
ắp. Những cán bộ miền
Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải
miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các
phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói, “Khi tôi nghĩ dến
những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh
bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước
thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã
làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự
trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?
Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần
dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ
huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta
túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu
có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần
và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý
tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của
báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không
dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao
lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.
Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy
một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh
ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem
người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và
đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và
cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều
gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng
tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những
người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại
càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về.
Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay
không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là
chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ
không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ
không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre
lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay
xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm
tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo
nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình.
Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành
viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với
hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân
nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng.
Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù
rải rác ở đâu.
Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được
chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu
hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi
chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo. Anh nói,
“Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay
đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp
vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có
điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt
nhà tù.
Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm
được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon
mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi
sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn
đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao
động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân
nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên
không bao giờ được dùng nước.
Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản
thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã
làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo
cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng
ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo
cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ
lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp
lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với
những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa
không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là
thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi
chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa
sai không ra thoát.
Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công
nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ
phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia
đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa
nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên
bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng
nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao
đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần
áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ
thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn
bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong
phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa
bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật
khóc lệ tràn như suối”.
Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của
chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi
thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí
Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở
một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi
hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại
những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm
trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ
thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá,
lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.
Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được
lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ
tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ
tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã
vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải,
tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi
lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa. Tầu đi ngang
qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu
gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm.
Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn
vì đây là Tân Cảng.
Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một
người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó
sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại
miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người
Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh
nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày
ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu
sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh
bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền
Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh
thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay
các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai
thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai
báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”. Hầm tầu chật chội với các
chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng
khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau
cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải,
chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua
nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các
bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh
Trung Quốc.
Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”.
Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng
của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau
buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm
và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng
rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo
liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy
trại tù cho chính mình.
Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận đưôc
một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang
bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù
Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù
được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút
máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào
một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc
nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi
dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không
thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý
giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới
mà ông coi là tượng trưng quý báu.
Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính.
Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị
phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung
dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng
đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy
chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu
khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là
tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.
Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng
một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì
cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác
mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ
sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi
ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng
nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng
tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều
tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh
còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.
Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì
nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn
những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật
ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi
nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong
bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ.
Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng
suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán. “May mắn là cả bốn đội
trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và
các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống
đến ngày được thả”!
“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải
chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh
luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt
tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được
miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và
bị giam giữ lâu hơn”.
Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản
trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận
thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một
bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành
Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng
biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết
các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị.
Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và
không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn
khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang
bị tù cải tạo.
Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào
đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi
hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng
Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này
rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11.
Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì
ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá.
“Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền
xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên
không có ai dám cản trở về”.
Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ
đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục
trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn
đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở
ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một
căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép
làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào
tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị
dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp
gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.
Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần
lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu.
Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà
phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi
xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không
tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là
hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ
dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông
Bắc. Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà
chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua
nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn
tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.
Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May
thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu
nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê
một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15
đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ
xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ
chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt,
thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở
đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ.
“Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin
phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho
anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được
bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?
“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”,
thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm
rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai
bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là
chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để
cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng
tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình
trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về
hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.
Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các
tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam.
“Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như
vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ
có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay
thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy
vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như
sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai
nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và
biết có gặp lại nữa không”?
Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở
về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi
tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao
và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra
mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với
các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai
ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một
vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối
xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ
có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên
truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng
không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô
phớt qua. Không có gì đậc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài
bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng
nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần
thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã
đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ
toàn dân và cả nước”!
Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không
được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng
lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng
bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không
muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu
tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh.
Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là
họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã
xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi
đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà
tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy
vọng”.
Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm
1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh
đênh trên biển cả thì gập một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì
vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú
nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường,
quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm
và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình
diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm
sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà
Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương
trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở
Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.
Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê,
ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối
cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng
họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội
trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi
hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt
tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã
để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường
chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy
được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích
của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi
vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con
quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo
đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà
chúng tôi coi là miền đất hứa”.
Vài cảm nghĩ.-
Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng
biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le
Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ
đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng
sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản.
Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí
Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ
Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để
đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các
người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao
nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn
chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà
huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước
nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công
trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản
kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải
đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị
giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm chất xám như vậy để cho ba
chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí
thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và
có tin được chăng?
Trần Đỗ Cung |