Đức
Đạt-La Lạt-Ma đã đến Hamburg, Đức trong
mười ngày từ 19 đến 28-7-2007. Ngài đến Hamburg lần nầy là lần thứ
tư, chính thức như một quốc khách, và cũng là lần thăm viếng lâu
nhất. Ba lần ghé thăm trước, 1982, 1991, 1998 với tính cách cá
nhân. Tất cả đều do Trung Tâm Tây Tạng tại Hamburg -được thành lập
năm 1977 dưới sự bảo trợ của Ngài- mời. Chiếc phi cơ riêng của
Ngài ghé xuống phi trường Hamburg lúc 10g51´ trong một buổi sáng
đẹp trời ngày 19-7-2007. Chính quyền địa phương đã trải thảm đỏ từ
phi cơ đón ngài. Buổi chiều, Ngài được đưa đến thăm viếng tòa thị
chính thành phố, tiếp xúc với chính quyền địa phương và dân chúng,
ký vào sổ vàng lưu niệm (chỉ dành cho các bậc quốc khách Quốc
vương, Tổng thống…). Tối đó, ngài đến thăm và nói chuyện tại Trung
Tâm Tây Tạng.
Ngày 20-7 ngài đến tham dự và ban đạo từ cuộc hội thảo vận động
thành lập Ni Bộ Tây Tạng, do Ni sư Jampa Tsedroen (Carola Roloff)
thuộc Trung Tâm Tây Tạng Hamburg đứng ra tổ chức, với sự thỏa
thuận của Ngài. Trên 300 diễn giả là các bậc cao tăng, cao ni và
các học giả, giáo sư đại hoc, nghiên cứu Luật tạng… gồm 19 quốc
gia trên thế giới câu hội. VN có Thượng Tọa Dr. Prf. Trí Siêu Lê
Mạnh Thát, Ni Sư Thích Nữ Huệ Hương (Từ Việt Nam qua), Thượng Tọa
Thích Quảng Ba (từ Úc Châu) và sư cô Hạnh Trì (Mỹ) tham dự, (TT
Trí Siêu thuyết trình về đề tài: “Về Lịch sử của Ni Bộ Phật Giáo
tại Việt Nam”/ On the history of Buddhist Nun Order in VietNam).
Đây là cuộc hội thảo đầu tiên trên thế giới, được tổ chức qui mô
với mọi truyền thống Phật Giáo, để vận động thành lập lại Ni Bộ
tại Tây Tạng (và các nước Nam Tông), đã biến mất từ hơn 2000 năm
nay. Ngài đã ban đạo từ, tán thành việc tái lập nầy. Ngoài ra,
Ngài còn dành cho các cơ quan truyền thanh truyền hình, báo chí
v.v…những cuộc phỏng vấn, tiếp xúc….
Trong suốt tuần lễ còn lại, từ thứ bảy 21-7 tới hết ngày thứ sáu
tuần sau 27-7, ngài dành trọn thì giờ để thuyết giảng cho Chư Tăng
Ni và Phật tử khắp nơi tại sân vận động quốc tế tranh giải tenis
lớn nhất nầy.
Chính quyền Hamburg dự trù, có khoảng 30.000 người từ 32 quốc gia
trên thế giới đến tham dự. Vé tham dự là 55,00€ một ngày. Chư tăng
ni được miễn (nhưng phải đăng ký trước một năm!)…
Đức Đạt La Lạt Ma năm nay 72 tuổi, sinh ngày 6-7-1935 tại một làng
nhỏ miền Đông Bắc Tây Tạng với tên khai sanh là Lhamo Dhondrub.
Lúc 2 tuổi (1937) Ngài được công nhận là tái sanh của Đạt La Lạt
Ma đời thứ XIII. Năm 4 tuổi, ngài được đưa về cung điện Potala ở
Lhasa để huấn luyện trở thành một tu sĩ lãnh đạo Phật Giáo với
Pháp danh là Tenzin Gyatso. Năm 15 tuổi (1950) Ngài được tấn phong
lãnh đạo thế quyền và giáo quyền Tây Tạng. Không lâu sau đó, Tây
Tạng bị Trung Quốc chiếm. Ngài có sang Trung Quốc vận động với chủ
tịch Mao Trạch Đông về vấn đề nầy, nhưng không thành công. Năm
1959 Ngài trốn chạy khỏi Tây Tạng, xin tị nạn tại Ấn Độ. Chính
quyền Ấn Độ đồng ý cho Ngài cư ngụ tại Dharamsala, một vùng đất
hoang vu, núi rừng bao phủ, giáp giới với Trung Quốc. Ngày nay,
nơi đó đã biến thành một nơi sầm uất, trung tâm du lịch và tu học
trên toàn thế giới. Năm 1989 Ngài đoạt giải Nobel hòa bình. Trong
cuộc trưng cầu ý kiến mới nhất ngày 14-7-2007 của tuần báo nỗi
tiếng „der Spiegel“ (tấm gương), Ngài được người dân Đức có cảm
tình nhiều nhất (44%), trong khi Giáo Hoàng Benedikt XVI chỉ được
42% (Đây là một sự chấn động, vì Giáo Hoàng là người Đức và Công
Giáo là quốc giáo của nước nầy!). Ngài được người dân Đức mến mộ
vì Ngài tỏa ra sự chân tình, lôi cuốn, có năng lực, điềm đạm, trầm
tỉnh, và đặc biệt là cho họ được những lời khuyên hữu ích…
Hai ngày đầu Ngài giảng cho tất cả mọi tầng lớp thính chúng bằng
tiếng Anh, đề tài „học hỏi hòa bình - sự thực hành của bất bạo
động“ (Frieden lehrnen- die Praxis der Gewaltlosigkeit). Thế giới
ngày nay bị khủng hoảng trầm trọng, từ cá nhân đến xã hội. Chiến
tranh, khủng bố, bạo động, nghèo đói, bất công… lan tràn. Con
người sống trong hoang mang, sợ hãi, đau khổ, thất vọng… Làm sao
để đối phó? Làm sao để thực tập bất bạo động? Câu trả lời là: phải
kết hợp giữa Trí tuệ và bất bạo động. Hòa bình bên trong (nội tâm)
là điều kiện cho hòa bình bên ngoài (thế giới)“ (innerer Frieden
ist die Voraussetzung für äußeren Frieden). Nếu mỗi người biết
sống an lạc, hòa bình thế giới sẽ được thiết lập. Cá nhân Ngài là
một điển hình: một ông thầy tu, người lãnh giải Nobel hòa bình,
nhà lãnh đạo tinh thần đáng tôn kính. Ngài là tấm gương sáng cho
sự đồng cảm và bất bạo động .
Buổi chiều chủ nhật 22-7 Ngài giảng về „Sự đồng cảm trong một thế
giới toàn cầu hóa“ (Mitgefühl in der globalisierten Welt). Trong
thời đại mới, mọi người, mọi quốc gia đều liên hệ với nhau một
cách chặt chẽ. Trong tinh thần đó, làm sao để phát huy tình người,
hạn chế những tiêu cực như bất bình đẳng, hủy hoại môi sinh, cạnh
tranh bất chính? Mỗi hành động của chúng ta, dù nhỏ nhặc, đều ảnh
hưởng đến toàn thể vũ trụ. Sự phúc lợi của đại đa số phải được đưa
lên hàng đầu. Mọi người đều có quyền sống hạnh phúc, nhưng điều đó
có thực hiện được hay không là do thái độ của mỗi người chúng ta.
Tây phương ngày nay thừa mứa vật chất, nhưng đồng thời cũng lắm
khổ đau. Phải tập phát triển lòng thương yêu, sự đồng cảm, khoan
dung để trấn áp những cảm nhận tiêu cực, sự giận dữ, lòng căm
thù... Thái độ tinh thần (mentale Einstellung) tích cực đó ảnh
hưởng tốt đến sức khỏe và hạnh phúc của chúng ta…
Sau mỗi phần thuyết giảng Ngài trả lời những câu hỏi (gạn lọc) của
thính chúng, và trao đổi với những vị quan khách được mời lên khán
đài. Mỗi lần mời độ 4 vị, lên ngồi hai bên Ngài (hình chữ V rộng).
Các vị được hân hạnh mời là: BS giáo sư tâm thần Prof. Manfred
Cierpka, đại học Heidelberg, người sáng lập chương trình „không
gây hấn“ (Faustlos) ngăn ngừa sự bạo động trong giới thanh thiếu
niên; nhà văn thiền sư Niklaus Brantschen; Prof. Weiße, giáo sư
khoa giáo dục đại hoc Hamburg, giám đốc trung tâm „đối thoại giữa
các tôn giáo“; nữ ký giả Beate Strenge; nữ mục sư Annegrethe
Stoltenberg, chủ bút tạp chí „Hinz und Kuntz“; ông Jakob von
Uexküll, sáng lập ủy ban „cố vấn thế giới tương lai“
(Weltzukunftsrats); bà Bosiljka Schedlich, đồng sáng lập hội „Văn
Hóa Đông Tây“ giúp đở nạn nhân chiến tranh, người đã được đề cử
giải Nobel hòa bình năm 2005; và nữ danh ca Judith Holofernes.
Trong những lần trao đổi nầy, ngài luôn luôn kêu gọi sự thương
yêu, đoàn kết, phát tâm từ. Ngài kêu gọi thành lập một Ủy Ban phi
chính phủ, không có mặt các chính quyền, chỉ gồm toàn những người
có đạo đức, không thành kiến, để cố vấn cho thế giới, giải quyết
những xung đột hiện nay…
Trong 2 ngày giảng công cọng đó, khán giả ngồi chật kín cả khán
đài không còn chỗ trống (có sức chứa 13.000 người), và ngồi cả
trên mặt sân đánh tennis (dành cho Tăng Ni và người bảo trợ, mua
vé với giá cao hơn ấn định). Ước tính tổng cọng khoảng độ 17.000
người (theo lời của một nhân viên người Việt thuộc ban tổ chức).
Năm ngày kế tiếp trong tuần Ngài giảng bằng tiếng Tây Tạng sâu vào
giáo lý, qua 400 bài kệ của ngài Thánh Thiên Aryadeva. Ngày cuối
cùng là lễ Điểm Đạo (Quán Đảnh) Văn Thù Sư Lợi (rất tiếc ngày nầy
tôi không tham dự được, vì phải theo xe buýt đi dự khóa Phật Pháp
Châu Âu kỳ thứ 19 tại Thụy Điển).

Quang cảnh Pháp hội
|
Ngài Thánh Thiên Aryadeva sinh trưởng trong một gia đình quí tộc
tại Tích Lan, sống vào cuối thế kỷ thứ II và thứ III sau Thiên
Chúa, là đệ tử lớn của tổ 14 Long Thọ (Nagarjunas), xiển dương Đại
Thừa, trước tác nhiều tác phẩm về Trung Luận, được xem là một
trong những người khai sáng Trung Luận Tông. Tập „Tứ bách luận“
nầy với suy luận biện chứng phủ định, giải thích giáo pháp vô ngã
và tính không; phá bỏ quan niệm sai lầm, ảo tưởng về thường hằng,
nhầm lẫn giữa thú vui nhất thời với hạnh phúc thật sự…
Trước khi giảng Ngài hướng về phía thính chúng và nói „đây là một
cuốn luận rất quan trọng trong sự tu tập, chúng ta cần phải học
tập. Nhưng không phải dể, có nhiều chổ rất khó hiểu, nhiều câu đối
với tôi cũng không có dể“, Ngài cười và thêm „nhiều câu tôi chỉ
đọc thôi!“ (mọi người cười).
Ông Christof Spitz dịch từ tiếng Tây Tạng ra tiếng Đức rồi thầy
Hạnh Tấn dịch từ tiếng Đức ra tiếng Việt cho chúng tôi nghe. Ông
Christof Spitz dịch cho Ngài suốt khóa tu, cả từ tiếng Anh và
tiếng Tây Tạng ra tiếng Đức rất trôi chảy. Ngài nói liên miên bất
tận 10´, 15´, ông đều ghi tốc ký vào sổ, đến khi nào ngài dừng thì
ông ta mới nói, trôi chảy không vấp. Thật là quá tài giỏi, ai cũng
trầm trồ khen ngợi.
Sau đây, tôi xin ghi lại những điều tôi đã được nghe:
Những câu kệ đầu, Ngài Thánh Thiên nhắc ta về sự vô thường. Trong
25 câu đầu, ngài dạy làm thế nào để chấm dứt quan niệm về sự
thường hằng. „Quá khứ hình như ngắn ngủi, nhưng bạn sẽ nhìn tương
lai hoàn toàn khác: cái mà ta cho là giống hoặc không giống, chính
là một tiếng gọi của sự kinh sợ.“ (Die Vergangenheit scheint dir
kurz, doch die Zukunft siehst du ganz anders: Dass du Gleiches als
ungleich betrachtest, gleicht deutlich einem Ruf des Schreckens).
„Nếu sự gặp gỡ làm bạn vui sướng, vậy tại sao lại không vui sướng
khi chia lìa? Bạn không nhận thấy rằng sự gặp gỡ và chia lìa cùng
sánh vai nhau tay trong tay đó sao?“…
Khi mới sanh ra thì cái chết cũng đã có mặt. Nếu chỉ sống với vật
chất hưởng thụ, tạo ra những ác nghiệp… là một sự sai lầm rất lớn.
Phải luôn luôn nghĩ đến vô thường, Đế thứ I: Khổ Đế. Có 3 điểm cần
chú ý: 1.- Chết là điều chắc chắn xảy ra. 2.- Thời gian, lúc nào
chết?. 3.- Chết không mang theo được gì cả, tài sản, vợ con…. Chỉ
có Nghiệp đi theo mà thôi. Nếu mỗi mười năm nhìn lại thân ta, sẽ
thấy sự khác biệt lớn (còn nếu cứ nhìn hoài sẽ không thấy). Sự
thay đổi diễn ra từng sát-na. Thay đổi nầy không do yếu tố bên
ngoài tác động, mà chính là bản chất của nó. Một vật được tạo ra,
kèm theo sự vô thường, thay đổi, nên nó cũng chính là sự hủy diệt.
Phải nhận ra, đừng quên. Sự chết. Từng sát-na một… Ai sống lâu
cũng có lúc già. Phải chấp nhận sự già nua bệnh tật. Tại sao ta
buồn khổ khi người thân ta chết? Ta buồn đau người thân, còn sự vô
thường của chính ta thì sao? Sự ra đi của người thân là một dấu
hiệu cho chính chúng ta. Đó là một điều đương nhiên, tại sao lại
bất ngờ? Vì vô minh nên không thấy thôi. Sự chết đi và sự sinh ra
của mọi người đều do nghiệp cả. Bởi vậy ta không nên buồn khổ.
Chính ta cũng là nạn nhân của vô thường mà. Có sự buồn khổ đó là
do bởi sự chấp thủ. Nếu sự chết xảy ra với người ta ghét, ta có
buồn không?. Cha mẹ thương con nhiều hơn con thương cha mẹ. Tình
thương ta nhận được của một người nào đó làm ta thích thú. Nhưng
đó chỉ là tương đối. Nếu chấp thủ vào đó, sẽ đau khổ. Đó chỉ là
một sự trao đổi… Sự chia lìa làm ta khổ, và thời gian là liều
thuốc tốt nhất xóa nhòa tất cả. Tất cả mọi người, ai cũng khổ đau.
Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Gặp gỡ thì vui, xa cách thì buồn?
Không đúng, vì gặp là chia tay rồi. Gặp gỡ là nhân của chia lìa…
Quá khứ vô thỉ, tương lai vô chung. Chúng ta xuất hiện như một
điểm nhỏ trong vô tận đó, không nghĩa lý gì. Thời gian là sat-na
đến đi, được nhận biết qua bốn mùa. Thời gian là kẻ thù. Đừng nên
chấp thủ, thích thú. Sự chia tay là điều chắc chắn. Nên hướng trí
tuệ về những điều đó. Đức Thế Tôn đã chỉ ra Khổ Đế. Ai trong chúng
ta cũng đều muốn thoát khổ, muốn có được hạnh phúc. Nhưng điều nầy
không thể đương nhiên mà có. Trước hết phải nhận thức ra nguyên
nhân của khổ, rồi tìm cách chuyển hóa nó. Phải từ bỏ các ác pháp
(tham, sân, si, mạn, nghi, biên kiến, tà kiến, sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, nói láo…). Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Nếu tu theo thập
thiện (10 điều thiện) sẽ đoạn được khổ-khổ trong tương lai. Vô
thường đưa đến hoại diệt, là nguyên nhân của hoại khổ. Hành khổ
rất vi tế, vì có nghiệp dẫn dắt, được hướng dẫn bởi tham sân si,
biên kiến, tà kiến…. Phải từ bỏ quan niệm cố chấp về sự hiện hữu
của chúng ta. Phải vượt qua mọi tri kiến sai lầm về các pháp. Khổ
đau. Phải luôn luôn ý thức điều đó, nhận rõ nguyên nhân, sẽ tìm ra
cách giải thoát. Như người bị bịnh, phải tìm ra nguyên nhân của
bệnh thì mới trị được. Đức Phật đã chỉ ra con đường để vượt qua
khổ đau. Đệ Tứ Đế, Đạo Đế. Tam bảo quy y là để vượt khổ đau, dùng
Phật pháp để đối trị. Sự chấp thủ là một nguyên nhân (của khổ
đau), dùng Trí Tuệ để phá. Chỉ có Phật giáo mới hướng dẫn ta đi
vào vô ngã. Chúng ta cần Phật, cần Pháp, và cũng cần Thiện hữu tri
thức. Quy y là bước ban đầu. Nghiên cứu, kiến giải, tinh tấn… là
những bước theo sau. Bốn trăm bài kệ nầy là bổ sung cho những tác
phẩm của ngài Long Thọ, nghiên cứu nó, ta sẽ dễ dàng hiểu được
Ngài Long Thọ hơn…
Ngài ngừng lại, và kể một câu chuyện: vào khoảng thập niên 1960,
có một người đàn bà Tây phương trẻ đẹp nói với Ngài rằng „người
Tây Tạng không có tôn giáo!“. Ngài rất giận, nhưng không giận
được, vì bà ta rất đẹp (cười). Cũng vậy, một ông Giám Mục bên Mỹ
nói: „Giáo lý của chúng tôi rất thực tế, còn những người Tây Tạng
rất là đáng thương!...“. Đó, như thế đó. Những người đó không
hiểu. Sự tu tập Phật pháp không cần có chùa chiền, mà do nơi mỗi
người chúng ta, tự tu tập, tự chuyển hóa lấy. Trong sự tu tập Phật
pháp, điều quan trọng là phải học hỏi giáo lý (vỗ tay).
Tất cả khổ đau đều nằm sâu trong tâm thức, mặc dầu là khổ do thân
thể đi chăng nữa. Một cuộc sống thiếu đạo đức sẽ bị nhiều khổ đau.
Do vậy, nên tập sống một đời sống có đạo đức. Không phải chỉ để
tránh tù tội… Nên tu tập Bồ đề tâm. Khi bị khổ đau, ta nguyện
rằng, tôi sẽ chịu tất cả khổ đau cho mọi người. Khi sung sướng, ta
nguyện cho tất cả đều được sung sướng. Không nên chờ đợi, phải bắt
đầu tu tập ngay. Sự chết không có chờ đợi ai. Thân tâm ta đang bị
hoại diệt từng sát-na!
Một câu hỏi của thính giả được ngài trả lời: „Chúng tôi có thể tu
tập các Pháp môn nầy không, khi tôi là người theo đạo Công giáo?“.
Ngài trả lời rằng: „Nếu mới vô thì không thấy gì khác, vì hai tôn
giáo hầu như giống nhau, đều dạy về thương yêu, nhân từ, bác ái…
Nhưng nếu đi sâu hơn, thì có sự khác biệt, như tánh không, giải
thoát, bồ tát hạnh… hầu như không thích ứng với nhau, nên rất khó
khăn. Vậy nửa Chúa, nửa Phật được không? Tốt nhất là nên đi sâu
vào một cái thôi“.
Có thân nầy là có sự đau khổ. Ngay từ trong bụng mẹ, chịu nóng,
chịu lạnh (nếu mẹ uống lạnh, ăn nóng). Khi sinh ra đau đớn, khổ.
Lớn lên khổ… Triền miên. Nhưng nếu ta biết xử dụng thân nầy một
cách có ích, biết tu tập, sẽ tạo nên nhiều công đức… Thường thường
người ta hay chạy theo trụy lạc. Sự vui sướng đó tốn rất nhiều
công sức, và luôn luôn kèm theo sự nguy hiểm, và qua đi rất mau.
Trong khi đó cái khổ đến rất tự nhiên, ngay cả trong lúc ta đang
tận hưởng dục lạc. Người thông thái thì bị khổ vì tâm thức dày vò,
người phàm phu thì bị thân xác. Khổ đau đầy rẩy, vui sướng chỉ
thoáng qua như tia chớp. Trong vui sướng có khổ đau, nhưng trong
khổ đau không có sự vui sướng… Cuộc sống bắt đầu bằng một tâm niệm
vô minh. Nên tu tập Tứ Niệm Xứ, trong đó Thân thể được quán niệm
một cách kỹ lưỡng, rất tốt cho việc tu tập… Tất cả ngoại duyên,
các đối tượng… sẽ không bao giờ làm cho ta thỏa mãn. Chỉ khi chúng
ta biết tự đủ thì mới đủ (ghi chú: tri túc, tiện túc, đãi túc hà
thời túc!). Thấy một người đàn bà đẹp ta mê đắm? Tất cả sự thương,
ghét… đều do nhận thức sai lầm của tâm thức mà ra. „Nàng là của
tôi“ là một sự sai lầm lớn! Khi mình có mụn nhọt ngứa, gãi cho là
sướng. Nhưng tốt hơn là không có mụn nhọt mới thật là sướng (mọi
người vỗ tay cười). Cũng vậy, khi thỏa mãn được dục lạc, ta cho là
sướng, nhưng tốt hơn là không nên có sự tham dục đó. Dù chúng ta
có xức bao nhiêu dầu thơm, có rửa sạch mấy đi chăng nữa, cũng
không thể làm cho thân thể nầy sạch được (mọi người cười ồ!). Nên
quán Bất tịnh để đối trị tham dục… Muốn đi vào thiền định, phải có
một sự an lạc nào đó (ghi chú: phải trừ bỏ ngũ cái: trạo cử, hôn
trầm, dục, sân, nghi). Còn vướng ngã chấp thì không thể giải thoát
được. Nếu chỉ thiền định, không phá ngã, thì không thể thành công,
đạt tới niết bàn. Chỉ và Quán phải luôn luôn song hành… Phải tích
tụ công đức, trau dồi trí tuệ. Kinh Lăng Già: Tất cả điều chúng ta
nhận biết được, đều không thật có (ghi chú: là „tiếng gọi của sự
kinh sợ“). Ngã mạn sẽ tạo ra ác nghiệp. Không ngã mạn sẽ tạo ra
công đức. Phải biết khiêm nhường. Người có trí không bao giờ nghĩ
rằng mình hơn người. Nghĩ đến tương lai thì đừng tạo ác nghiệp. Có
bốn quan niệm sai lầm thường mắc phải: thế gian nầy thường còn,
cuộc đời là vui thú, có một cái ngã chắc chắn, các Pháp là thanh
tịnh… Giữ giới là một việc rất quan trọng, và luôn luôn tỉnh thức
chánh niệm, phát triển trí tuệ qua thiền định…Đó là những bước đầu
căn bản. Dần dần tiến lên những bước cao hơn, như phát bồ đề tâm,
tu bồ tát hạnh…v...v…
Đó là những điều tôi được nghe Ngài giảng về „400 bài kệ của ngài
Thánh Thiên“. Rất tiếc tôi không được tham dự 2 ngày sau vì phải
đi Thụy Điển. (Nghe nói một nửa cuốn sách còn lại Ngài giảng lướt
qua rất nhanh, và chấm dứt mỗi buổi giảng rất trể, vì phải chạy
đua với thời gian).
Trong những ngày Pháp hội đó, đạo tràng tuy rất đông, 17.000
người, nhưng rất thanh tịnh, không hề xảy ra một điều gì đáng tiếc
cả, dù là nhỏ nhặt. Thật là một điều hi hữu. Tất cả đều trang
nghiêm, trật tự. Một sự yên lặng hùng tráng! Sự tổ chức phải nói
là rất hay, chu đáo, khéo léo, khoa học. Từ lối trang trí, lên
chương trình, chia ban, cách làm việc… đều rất chu đáo, có kế
hoạch. Đặt biệt nhất là mọi người ai cũng tỏ ra hân hoan, vui
sướng được tham dự, học hỏi giáo lý. Những ánh mắt thành khẩn, nụ
cười tươi tắn, nét mặt rạng ngời! Những cử chỉ nhẹ nhàng thanh
nhã, nâng niu trân trọng, từ tốn có ý thức!… Tất cả nói lên nỗi
niềm sâu kín chất chứa lâu ngày của những người vừa bắt gặp được
chân lý. Họ sung sướng ra mặt, cảm thấy như vừa được tái sanh,
bừng tỉnh sau những ngày tháng lặn hụp, tìm tòi, mệt mỏi trong
biển đời khổ đau, lạc hướng lẽ sống. Bây giờ họ đã về, đã tới… Từ
đây, họ đã có một con đường để đi, một mục đích để theo đuổi, một
cuộc đời đáng quí để nâng niu trìu mến. Ôi, còn gì sung sướng cho
bằng …./.
Viết xong 28-8-2007
Thích-Hạnh-Thức
t_hanhthuc@gmx.net
Những tài liều tham cứu:
-
sách “First International Congress on Buddhist Women´s Role in the
Sanga Bhikshuni Vinaya and Ordination Lineages with H.H.the Dalai
Lama in
Hamburg”
-
Tự điển Phật học Chân Nguyên - Nguyễn Tường Bách
-
Tự điển Phật học
Thiện Phúc
-
Đặc san Buddhismus aktuell số 2/2007 phỏng vấn Jampa Tsedroen
-
Tuần báo Der Spiegel
14-7-2007
-
Tạp san KSG Special Dalai Lama tại
Hamburg 7/2007
-
http://de.wikipedia.org/wiki/Tenzin_Gyatso
-
http://www.dalailama-hamburg.de/
-
Audiotorium Netzwerk/ Frieden lernen…
-
Filasofia, Forum für geistige Entwicklung/ Mitgefül in der
globalisierten Welt
|