Một
danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan,
nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ”
Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát
về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn
cuộn nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ.
Bản
nhạc nào viết về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động
bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.
Mẹ
là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu
có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư
nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho
chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người
mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày,
thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về
mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ
hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an
lành và hạnh phúc.
Mẹ
là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn
bà chân mang đôi dép ngược, khoát chiếc mền rách, như trong một câu
chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng
vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đơi ngày về của đứa con
mãi mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia
đi tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà
trái lại vô cùng gần gủi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người
mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng
vị tha sâu thẳm.
Hơn
mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu
đã trở thành quen thuộc:
Ví
mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bài
thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi
từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi.
Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều.
Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp
ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không
làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai
mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ
vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Bài
thơ đơn giản và dể hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ
để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa
cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã
ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng
Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống 8
năm.
Nhớ
lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào
mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo
âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn
ngoài ba tiếng “con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh
lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của
chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13
tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về
phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình.
Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào
hay cơ hội nào trở về nguồn cội.
Nếu
có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối
chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi
nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là
một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những
năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi.
Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và
mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn
giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay
không. Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ
chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong
những ngày đó vẫn là “Lên đường bình an nhé.”
Đất
nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng
lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài
Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao?
Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi
dạt về đâu?
Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi.
Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng
ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong
hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về, nhưng tôi thì không. Tôi phải đi
dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và
ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ
là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong
tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng
sống của mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo,
cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải
những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám
lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng
nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê
hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình
là kẻ ra đi.
Nói
như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi
phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn.
Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi
còn ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu
điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao
nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự
do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho
chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.
Nhớ
lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười
mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cặp vào thành tàu
chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo
sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô
lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang
tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên
sóng. Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay
hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một
người tỵ nạn. Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm,
trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và
tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu
quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt
Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất
cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.
Tôi
nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó
tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi
bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình
nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại
Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về
nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.
Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn
nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía Nam thị
trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã
này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu
Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười
mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối
nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.
Tôi
kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày
khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi
Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy
nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã
mang tôi vào cuộc đời này.
Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi
gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt
nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn
tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh
em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà
trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy
Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn
vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày
sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre
Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly
nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên
khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy
hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ
tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ
sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.
Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của
đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13
tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của
tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa
vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình.
Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con
hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa
Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng
đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.
Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre
già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường
tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ
hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và
về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao
tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu
mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm
gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên
kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của
mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích
tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những
ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi
xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn
làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất
của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với
những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ
tôi là một chuổi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.
Mẹ
tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có
ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống
cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại
càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người
thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi
nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn
mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến
dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn
tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ.
Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng
nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi
là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.
Tôi
về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ
đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm
nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi
nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời
chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa
sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu
mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những
ngày sóng gió sắp xảy ra.
Ôi
đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.
Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như
trước nữa.
Ai
cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai.
Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất
hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt
Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ,
không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu
bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang
đến cả hòa bình.
Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ
Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao
la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam
thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả
những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những
hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan,
khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm
vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy
con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của
mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn
tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa
bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn.
Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên
trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nổi, dù viết về bất cứ chủ đề
gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh
mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn
nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh,
đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay
hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.
Mơ
ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người
mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước
không còn hận thù, rẻ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình
đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả
thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của
tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến
sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình. Quá
nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ
Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như
trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm
rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù
nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và
khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm
lịch sử.
Đời
tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong
đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới
gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn
lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi
chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm.
Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường
mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những
khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng
chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.
Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng
đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong
cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao
giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám
ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách.
Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy
Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi
trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa
già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng. Nếu
một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của
một lần ghé lại.
Trần Trung Đạo
|