PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

...  Thích Nhất Hạnh, người xướng xuất chủ thuyết triết học Engaged Buddhism (Đạo Phật dấn thân), và đã gây niềm cảm hứng cho phong trào Phật Giáo tranh đấu cho hòa bình trong những năm tháng chiến tranh.  Ở lãnh vực tôn giáo, Thầy là một trong những tư tưởng gia và hành động gia lớn nhất của thời đại chúng ta. 

Bằng kinh nghiệm bản thân của mình, Thầy đã thấy được tại sao những ý thức hệ và những tư trào thế tục và đại chúng hóa - như chủ nghĩa quốc gia quá khích, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa thực dân - đã làm tuôn ra bao nhiêu nguồn năng lượng bạo động cho thế kỉ thứ 20, những nguồn năng lượng bạo động chưa từng được tuôn ra quá nhiều như thế trong quá khứ.  Thầy đã học được bài học này từ khi còn nhỏ tuổi.  (...  ) Tuy lớn lên và sống trong không khí thanh tịnh của thiền viện, thầy Nhất Hạnh cũng không thể nào đứng ra ngoài được cuộc tranh chấp đang xảy ra chung quanh.  Thầy thấy được nhu cầu xác định sự quan yếu cấp thiết của lòng từ bi đạo Phật trong một nền văn hóa càng ngày càng bắt buộc phải trở nên bạo động thêm lên.  Thầy tin tưởng rằng chỉ có thể chấm dứt được chiến tranh khi ta dập tắt được ngọn lửa của sợ hãi, thù hận, khinh miệt và giận dữ, những chất liệu đích thực đang nuôi dưỡng chiến tranh. 

Năm 1965, sau ngày có một vị xuất gia nữa tự thiêu cho hòa bình, thầy Nhất Hạnh đã viết cho mục sư Martin Luther King Jr, nhà lãnh đạo dân quyền Mỹ rằng: “Những vị xuất gia khi tự thiêu, không nhắm tớichết của những người áp bức họ, mà chỉ muốn có một sự thay đổi chính sách của những người ấy thôi.  Họ bảo kẻ thù của họ không phải là con người.  Kẻ thù của họ là sự thiếu bao dung, là cuồng tín, là độc tài, là tham lam, là hận thù và sự kỳ thị đang mằm sâu trong trái tim con người”.  Thầy Nhất Hạnh đã hướng dẫn cho mục sư King và tiếp sau đó chuyển hóa cảm nghĩ của cả dư luận Hoa Kỳ đi về hướng chống đối lại chiến tranh Việt Nam.  (...  )

Thầy Nhất Hạnh năm nay đã 80 tuổi, đang hành đạo trong một tu viện bên Pháp.  Thầy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc trao truyền một truyền thống tâm linh Á châu cho xã hội Tây phương, một xã hội tân tiến nhưng phần lớn đã hoàn toàn thế tục hóa.  Thầy dạy: “Đừng bị kẹt vào một chủ thuyết nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo.  Những giáo nghĩa Phật dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là một chân lý tuyệt đối để thờ phụng và bảo vệ”.  Trong khi các nhà lãnh đạo của thời đại ta từ Hoa Kỳ đến Iran đang lớn tiếng đốc thúc quần chúng họ tham dự vào những cuộc chiến tranh ý thức hệ mới, tạo nên những nguy cơ biến thế kỷ này thành một thế kỷ còn đẫm máu hơn cả thế kỷ vừa rồi, chúng tôi thiết nghĩ tất cả chúng ta đều nên hướng về và đi theo tuệ giác của Thiền sư Nhất Hạnh. 

Trích dịch từ : Thich Nhat Hanh
This Buddhist monk helped end the suffering of the Vietnam War

TIME ASIA - 60 YEANS OF ASIAN HEROES

 

 Nghệ thuật sống thiền :

Đạo Phật và Tuổi trẻ
Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương (3)

Khoá tu 4 ngày cho GĐPT và  người trẻ
tại Tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc, Lâm Đồng, từ 24.04 đến 27.04.2008

Kính thưa đại chúng,

Hôm nay là ngày 26 tháng tư năm 2008. Chúng ta đang ở tại tu viện Bát Nhã Lâm Đồng trong khóa tu dành cho người trẻ với đề tài : Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương.

Liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ.
Hôm nay là ngày thứ ba của khóa tu nhưng tôi nhận thấy rằng có nhiều ngưòi trong chúng ta chưa nắm được bước chân của mình, đi vẫn còn hấp tấp, lúc đi vẫn chưa chú ý tới bước chân. Nếu như vậy khi về nhà mình sẽ không thể tiếp tục được. Không nắm được bước chân, không nắm được hơi thở thì chúng ta không thể nào nắm được tâm ý của mình. Mà không nắm được tâm ý thì không thể nào thành công được trong việc tu tập và chuyển hóa. Chúng ta chỉ có bốn ngày thôi, chúng ta phải biết lợi dụng tối đa thì giờ để nắm cho được pháp môn tu tập.

Hơn 2000 Phật tử đa số là người trẻ nghe pháp thoại của Sư Ông
tại thiền đường Cánh đại bàng của tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

Ở Thái Lan có những con voi hoang, người ta phải điều phục chúng để con voi có thể chuyên chở được. Muốn điều phục, người ta dùng những chiếc xích sắt cột chân voi, và vồ sắt gõ lên đầu nó. Nhiều tuần lễ sau voi mới thuần và người ta mới sử dụng voi được. Tâm ý chúng ta cũng giống như những con voi hoang. Chúng ta cần những sợi xích để cột lại, nhưng những sợi xích này không phải bằng sắt mà là những sợi tơ rất đẹp. Đó là hơi thở và bước chân.

Nếu quý vị không nắm được hơi thở của mình, thở vào mà mình không biết rằng mình đang thở vào. Nếu mình không nắm được bước chân, đi mà không biết là mình đang đi thì có cách gì để quý vị nắm được tâm ý? Cho nên trong khóa tu này chúng ta phải nhắc nhở nhau nhiều lần là phải cố gắng nắm cho được hơi thở và nắm cho được bước chân. Nếu không sẽ không nắm được con voi hoang trong tâm ý của mình. Không nắm được tâm ý thì làm sao điều phục được những cái giận, cái buồn, lo lắng, sợ hãi và công phu của chúng ta sẽ trở nên uổng phí nếu chúng ta không đem hết tấm lòng và năng lượng để sử dụng thời gian trong khóa tu.

Khi có mười lăm phút riêng cho mình, thay vì quý vị đi tìm một người bạn để nói chuyện hay chụp hình, thì quý vị thử tập đi. Thở vào một hơi, đi một bước thôi và đi chậm, thiền đi chậm. Khi thực tập được thiền đi chậm rồi thì khi đi nhanh mình cũng đi trong chánh niệm được. Thở vào một hơi và bước một bước, đem hết tâm ý dồn vào đôi chân của mình và mình bước một bước, để ý sự xúc chạm giữa chân mình và mặt đất. Phải đầu tư một trăm phần trăm cả thân và tâm mình vào bước chân thì mới có thể trở về được với giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây.

Bây giờ và ở đây là địa chỉ của sự sống mầu nhiệm. Mỗi hơi thở phải có khả năng đưa chúng ta trở về với giây phút hiện tại và ở đây. Ở đây là không gian và bây giờ là thời gian. Sự sống chỉ có thể có mặt trong thời gian này và không gian này. Đức Thế Tôn dạy: Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Chỉ có giây phút hiện tại mới chứa đựng sự sống mà nếu chúng ta đánh mất giây phút hiện tại thì chúng ta đánh mất sự sống. Cho nên sự thực tập căn bản của chúng ta là sử dụng hơi thở và bước chân để trở về với giây phút hiện tại và ở đây. Vì vậy phải đầu tư một trăm phần trăm thân và tâm mình vào hơi thở để hơi thở đem mình trở về với giây phút hiện tại bây giờ và ở đây. Phải đầu tư một trăm phần trăm cả thân và tâm vào bước chân thì bước chân đó mới đưa mình về bây giờ và ở đây. Không thể nào làm khơi khơi được. Hơi thở tuy mong manh như sợi tơ trời nhưng nếu biết cách thì mình có thể trói được con voi hoang. Bước chân của mình nhẹ nhàng và thanh thoát nhưng nó là cũng là sợi tơ trói được voi hoang. 

Đời Trần có một vị thiền sư cư sĩ tên là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ông là anh ruột của tướng Trần Hưng Đạo, tên của ngài là Trần Quốc Tung. Ngài tu thiền rất giỏi. Ngài đã chứng ngộ và dạy thiền trở lại cho vua Trần Nhân Tôn. Sau này nhà vua đã xuất gia. Trong những thơ văn, thi kệ của Tuệ Trung Thượng Sĩ có câu rất hay như: Liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ. Chỉ cần sợi tơ sen, liệng ra có thể trói được con cọp dữ. „Phóng tước liên ty phược hổ nhi“ dịch ra là liệng sợi tơ sen trói mãnh hổ. Khi bẻ đôi một cọng sen rồi kéo ra thì hai đoạn vẫn còn nối nhau bằng những sợi tơ, rất mong manh. Nhưng người tu khôn khéo, chỉ cần sợi tơ sen liệng ra là có thể trói được con cọp dữ, con voi hoang. Sợi tơ sen đó là hơi thở và bước chân. Trong khóa tu này quý vị đã được trao truyền hai sợi tơ sen đó là hơi thở và bước chân, quý vị phải sử dụng để trói tâm của mình lại. Tâm mình như con voi hoang, con cọp hoang. Nếu mình không hết lòng đầu tư vào, không hạ thủ công phu thì làm sao mà thành công được. Hôm nay đã là ngày thứ ba của khóa tu mà vẫn có những người còn đi hấp tấp, không nắm được bước chân. Mà không nắm được bước chân thì cũng không nắm được hơi thở. Như vậy công phu dành cho khóa tu sẽ uổng phí. Vì vậy thì giờ còn lại chúng ta nên trân quý. Đừng nên bận tâm vào việc chụp hình, nói chuyện, không ích lợi cho sự tu học của chúng ta.

Nếu chúng ta có mười lăm phút, chúng ta thử đi thiền một mình. Thở một hơi, để  hết tâm ý vào hơi thở, đi một bước, làm sao cho bước chân đem mình về giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây, một trăm phần trăm. Thở vào, bước một bước: Con đã về, con đã tới. Đã về trong giây phút hiện tại, đã tới giây phút hiện tại. Đó là địa chỉ của những mầu nhiệm của sự sống. Nếu mình chưa về được trong giây phút hiện tại thì đừng bước thêm một bước nào nữa. Cứ dẫm bàn chân tại chỗ và thở cho đến lúc nào về được một trăm phần trăm nơi giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây thì lúc đó mình mỉm cười đắc thắng, rồi bước thêm bước khác, còn nếu không mình không bước thêm nữa. Mình phải đầu tư một trăm phần trăm, cả thân và tâm mình vào một bước chân. Cái đó gọi là hạ thủ công phu. Tu như vậy mới thành được. Chứ tu khơi khơi thì đâu được. Nói rằng đã về, đã tới trong giây phút hiện tại nhưng có thể mình chỉ mới về được chừng mười hay hai chục phần trăm. Tám mươi phần trăm còn lại vẫn bay lông bông theo quá khứ hoặc tương lai, ở những chỗ khác thì bước chân đó chưa thành công được. Đây là một thách đố. Chúng ta ai cũng có khả năng bước một bước và trở về hoàn toàn trong giây phút hiện tại để tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm của giây phút hiện tại. Nếu chúng ta chưa làm được là tại vì chúng ta chưa quyết tâm mà thôi, chứ hễ có quyết tâm, thì chỉ cần một hơi thở, một bước chân, chúng ta sẽ thiết lập được cả thân và tâm trong giây phút hiện tại. Bước được một bước thành công, đầu tư cả thân tâm để bước một bước thành công thì mình biết rằng mình có thể thành công hai bước hay là ba bước.

Bên Pháp, tôi có một cầu thang lên lầu, mười tám bực cấp. Mỗi khi tôi đi lên đi xuống, mỗi bước là đều an trú trong giây phút hiện tại một trăm phần trăm. Tôi đã đi như vậy gần ba mươi năm. Đi lên cũng vậy, đi xuống cũng vậy, không có bước chân nào lọt ra khỏi giây phút hiện tại. Vì vậy khi sang Trung quốc, lên Ngũ Đài Sơn, mỗi bước chân cũng leo như vậy. Lên đến đỉnh Ngũ Đài Sơn vẫn rất khỏe vì mình không đi như ma đuổi. Mỗi bước chân đều có an lạc, thảnh thơi, hạnh phúc, trong khi những người du lịch thì đi hấp tấp và lên đến đỉnh thì mệt nhoài, chảy mồ hôi, mồ kê.

Hôm đó phái đoàn chúng tôi áp dụng thiền hành để leo Ngũ Đài Sơn. Phái đoàn có khoảng bảy tám chục người. Cô hướng dẫn viên hôm đó bị buộc phải đi chậm lại, vì chúng tôi không muốn đi như bị ma đuổi. Cô cầm cờ đi trước nhưng cô không thể nào đi nhanh được vì chúng tôi ai cũng muốn thực tập, nên leo Ngũ Đài Sơn thời gian dài gấp mười lần những người khác, vì mình muốn nếm hương vị an lạc, thảnh thơi và hạnh phúc trong mỗi bước chân. Tăng thân thực tập rất vững, nên cô ấy đành đi theo thôi. Khi nói chuyện với người đồng nghiệp trên xe buýt, cô nói bằng tiếng Hoa, cô nghĩ là chúng tôi không hiểu, ai dè trong chúng tôi có một sư cô gốc Hoa. Cô nói, ông thầy này lợi hại quá. Tôi đã từng hướng dẫn hằng ngàn nhóm du lịch lên núi, lần nào cũng mệt nhoài. Thế mà lần này lên đến đỉnh không thấy mệt gì cả. Những bước chân giúp cho mình tiếp xúc được với sự sống mầu nhiệm trong từng giây, từng phút. Ở Làng Mai chúng tôi thực tập như vậy. Ở Bát Nhã, chúng tôi thực tập như vậy. Nếu cần phải đi từ phòng mình đến nhà tắm, tới thiền đường hay thực đường thì luôn luôn mình áp dụng phương pháp thiền đi trong chánh niệm. Không phải trong khóa tu mình mới làm mà ngoài khóa tu, mình cũng làm như vậy. Hễ cần phải đi là áp dụng phương pháp đi trong chánh niệm. Đi với đại chúng đông đảo, mình đi như vậy đã đành. Đi một mình, mình cũng tập đi như vậy và tôi đã đi như vậy. Vậy quý vị trong thời gian còn lại cố gắng nắm cho được hơi thở, nắm cho được bước chân, để đem pháp môn về thực tập cho mình và cho gia đình mình.

Trong bài pháp thoại  ngày đầu, chúng ta có nói đến nghệ thuật buông thư những căng thẳng trong hình hài, thân thể của mình. Chúng ta học thở, học đi, học ngồi, học mỉm cười để có thể buông thư được.  Quý vị đã tham dự buổi thiền buông thư do sư cô Chân không hướng dẫn. Mình phải tiếp tục thực tập những điều đó sau khóa tu vì mình biết rằng nếu cứ dồn chứa những căng thẳng thì mình sẽ bịnh. Dồn chứa luôn những cau có, bực tức, mình sẽ làm khổ mình và làm khổ cả những người thương. Cho nên đề tài của bài pháp thoại đầu tiên là buông thư.

Bài pháp thoại thứ hai nói đến nhận diện những cảm xúc: những cái buồn, cái giận, cái lo, cái ganh ghét của mình và ôm ấp lấy bằng năng luợng chánh niệm để làm cho vơi nhẹ đi những nỗi khổ niềm đau của mình. Mình cố gắng thực tập cho được mỗi khi có nỗi buồn, cơn giận. Đừng nói năng gì hết, đừng làm gì hết, đừng phản ứng. Trở về với hơi thở, trở về với bước chân, nhận diện nỗi khổ, niềm đau đó và làm cho nó nhẹ nhàng ra. Nếu mình làm ăn khá hơn thì sử dụng phương pháp ái ngữ và lắng nghe để nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau đó và thấy được gốc rễ của mình. Trong bài pháp thoại đó, mình cũng học được pháp môn „ái ngữ và lắng nghe“ để mình có thể tái lập truyền thông giữa mình với người kia và hòa giải cho được. Đây là những đề tài thiết thực. Tới khóa tu mình phải nắm cho được, học cho được thì mới không uổng công.

 

T Gia Đình Phật T đến European Buddhist Youth for Healthy and Compassionate Society
Hôm trước tôi có nói ở Pháp, năm vừa qua - năm 2007- số thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi là bốn mươi bảy ngàn em. Mỗi ngày có trung bình ba mươi lăm thanh niên, thiếu nữ tự tử vì những bức xúc, giận hờn, tuyệt vọng trong khung cảnh gia đình của mình. Phụ huynh bất lực, các thầy cô giáo cũng bất lực không làm sao để giúp được cho những thanh thiếu niên đó. Nhưng nếu biết sử dụng phương pháp của Bụt dạy thì mình có thể giúp cho họ được. Vì vậy cho nên trong khóa tu dành cho người trẻ mình phải học được những phương pháp đó. Trong số những người bỏ nhà ra đi có khoảng mười ngàn người trẻ, ra đi tìm một người mà nó đã làm quen được trong mạng lưới Internet. Chúng hứa hẹn cái gì với nhau rồi một hôm nào đó đánh cắp ít tiền của cha mẹ và bỏ nhà ra đi. Nó chưa biết người đó là ai, chỉ nói chuyện, chat và nghĩ rằng người con trai đó là một chàng hiệp sĩ có thể cứu mình ra khỏi hoàn cảnh tuyệt vọng, hoặc cô gái đó là người lâu nay mình thường mơ tưởng mà chưa từng gặp được vì vậy cho nên mình đi vào trong net, mình trở thành một con người khác và mình mong ước gặp được người dễ thương mà mình chưa gặp trong cuộc đời thực.

Có hai thế giới, một thế giới thực và một thế giới ảo. Trong thế giới thực này mình đã không có khả năng tiếp xúc được với những kỳ diệu của cuộc sống, mình chỉ tiếp xúc được với những giận hờn, bạo động, khó khăn. Cho nên mình đã từ bỏ thế giới thực để đi vào thế giới ảo. Thế giới ảo đó là thế giới của Internet. Biết bao thanh niên thiếu nữ đã bỏ nhà ra đi là vì những hứa hẹn của người trong Internet.

Có một ông chừng bốn mươi lăm tuổi, nhưng trong Internet ông tự biến thành chàng sinh viên hai mươi lăm tuổi và đi dụ các cô thiếu nữ. Ông ta tung ra cái lưới (net) và tóm được trong lưới của mình những cô gái vị thành niên, phá hoại cuộc đời của những cô gái vị thành niên đó, rất là tội. May thay cảnh sát đã tìm ra và ông ta đã ở tù. Vì vậy chuyện con cái bất bình với bố mẹ, cảm thấy bức xúc trong gia đình, đi tìm một thế giới hứa hão để trốn tránh… chuyện đó đã xảy ra ngay trong xã hội của chúng ta.

Là người thanh niên, là người trẻ, chúng ta có một bầu nhiệt huyết và muốn làm cái gì đó cho cuộc đời. Nhưng nhìn quanh chúng ta thấy có những tranh chấp, những ganh tỵ, những nhỏ nhen, những bạo động, những căm thù và chúng ta chán. Có những thanh niên thiếu nữ rất có lòng, họ ước muốn làm cái gì đó để cuộc đời của họ có ý nghĩa, có lý tưởng. Họ muốn đóng góp vào việc giúp đời, giúp dân, xóa đói, giảm nghèo, tranh đấu cho công bằng xã hội, tranh đấu cho môi trường… toàn là những lý tưởng rất cao, rất đẹp. Nhưng khi làm việc với nhau thì đụng chạm, giận hờn nhau và sau một thời gian sáu tháng, một năm thì tan rã. Những nhóm như vậy rất là đông. Khắp các nước có những nhóm như vậy. Họ là những nhóm thanh niên thiện nguyện muốn dấn thân vào cuộc đời để giúp đỡ, cứu người. Nhưng vì họ không có một chiều sâu tâm linh, không có một căn bản đạo đức, cho nên họ không thể đi xa được và những nhóm đó tan rã rất mau chóng.

Vào khoảng những năm 1935, 1936 ở Huế có một vị Phật tử rất giỏi tên là Tâm Minh Lê Đình Thám. Bác sĩ Thám đã thành lập đoàn thanh niên phật tử gọi là Thanh niên Phật học đức dục, dạy cho đoàn thanh niên đó một lý tưởng độ đời, giúp người. Mục đích của đoàn thanh niên đó không phải là tranh đấu cho công bằng xã hội, tranh đấu cho nhân quyền hay tranh đấu xóa đói giảm nghèo, mà làm thế nào để đào tạo cho mình có một căn bản đạo đức và để giúp nâng cao phẩm chất đạo đức ở trong xã hội vì vậy đoàn thể đó có tên là Đoàn Phật học đức dục. Đức dục là giáo dục về đức hạnh. Giáo dục có ba thứ. Trí dục học hỏi kiến thức, thể dục là luyện tập cho thân thể khỏe mạnh và đức dục là rèn luyện một nền tảng đạo đức. Mục đích của đoàn đó không phải để làm việc cứu tế xã hội hay để giảm nghèo, tranh đấu cho nhân quyền, tranh đấu cho hòa bình, dân chủ. Không phải. Mục đích chỉ để nâng cao đạo đức của cá nhân, của gia đình, của xã hội. Và quý vị cũng đã biết, đoàn phật học đức dục cũng chính là Gia đình phật hóa phổ và cuối cùng đã thành lập được Gia đình phật tử là tổ chức giáo dục của truyền thống phật giáo Việt nam với ước ao làm sao trao truyền cho tuổi trẻ Việt nam một căn bản đạo đức để lớn lên chúng không phải khổ đau và có thể giúp đời được.

Hồi Hòa thượng Thích Thiện Minh còn làm Tổng vụ trưởng tổng vụ thanh niên, hội Phật giáo thế giới tức là World Budhist đã trao cho Việt nam trách nhiệm tổ chức Đại hội Thanh niên Phật tử Thế giới. Nhưng vì chiến tranh cho nên đại hội đó đã không thành công. Đó là vào năm 1973.

Gia đình phật tử là một đặc sản của Phật giáo Việt nam, văn hóa Việt nam. Gia đình phật tử đã có một lịch sử hơn sáu mươi năm. Chúng ta có chương trình huấn luyện từ cấp oanh vũ trở lên và khi ban tổ chức lễ Phật đản quốc tế nói chuyện với tôi về việc làm sao để lễ Phật đản quốc tế Việt nam nổi bật lên thì tôi có đề nghị đem Gia đình phật tử ra để trình diện, tại vì Gia đình phật tử là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên rất đặc biệt Việt nam. Ban tổ chức rất thích nhưng ác hại thay, Gia đình phật tử Việt nam bây giờ đang bị chia rẽ trầm trọng, cho nên mình không thể đem ra khoe được. Tôi đề nghị khi Phật giáo quốc tế tới thì mình giới thiệu hai cái, đặc biệt chỉ ở Việt nam có mà thôi. Một là Đạo Phật nhập thế, đạo Phật dấn thân, đạo Phật đi vào cuộc đời. Đạo phật có mặt trong các lãnh vực giáo dục, y tế, kinh tế. Tại vì trên thế giới hiện nay có phong trào Đạo Phật dấn thân tiếng Anh gọi là Engaged Buddhism mà phong trào đó có nguồn gốc từ Việt nam. Từ khoảng năm 1954, chúng tôi đã viết những cuốn sách Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo phật hiện đại hóa. Đạo Phật được thực tập không phải chỉ có mặt trong chùa mà có cả trong mọi mặt đời sống của xã hội, trong các lãnh vực kinh tế, y tế, giáo dục, văn hóa… Bây giờ quốc tế đã công nhận ý tưởng đạo Phật nhập thế, đạo Phật dấn thân, đạo Phật đi vào cuộc đời là có gốc rễ từ Phật giáo Việt nam. Vì vậy khi có nhiều phái đoàn quốc tế đến dự lễ ở Hà nội thì mình nên trình bày cái đó, thực hiện một cuộc triễn lãm rằng chúng ta đã đem đạo Phật đi vào cuộc đời như thế nào. Đạo Phật không chỉ nằm trong chùa, đạo Phật nằm trong những lãnh vực khác như xã hội, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục,.. Đó là một cái chúng ta có thể giới thiệu với Phật giáo thế giới.

Cái thứ hai chúng ta có thể giới thiệu nữa, đó là Gia đình Phật tử Việt nam. Nhưng ác thay, Gia đình Phật tử Việt nam vì hoàn cảnh đang bị chia rẽ trầm trọng. Thành ra không giới thiệu được, rất uổng.

Nhưng dù không bị chia rẽ thì nó cũng chưa khoẻ được là vì Gia đình phật tử của mình nó hơi xưa, hơi cũ, nó không hiện đại nữa. Tôi còn nhớ vào những năm 1948, 1949, 1950 có một số các thầy trẻ như thầy Minh Châu, thầy thiên Ân, thầy Đức Tâm, thầy Chơn Trí, thầy Trí Không đã ngồi lại với nhau để làm một tập tài liệu giúp Gia đình phật tử học hỏi. Tập tài liệu đó gọi là Phật pháp. Đã sáu mươi năm rồi chúng ta vẫn còn sử dụng những tư liệu đó. Thường thường sách giáo khoa mỗi năm phải có một ấn bản mới. Sách giáo khoa của Gia đình phật tử đã năm sáu chục năm rồi mà chưa có sách mới. Thành ra tư liệu sử dụng để giảng dạy và thực tập cho các cấp, các em thiếu rất nhiều. Năm 1989 hay 1990 gì đó, tôi có tổ chức những khóa tu như thế này cho Gia đình phật tử ở bên Hoa kỳ, tổ chức liên tiếp ba khóa như vậy, tôi đã đưa ra và cống hiến những tư liệu để làm mới, đổi mới, làm giàu cho Gia đình phật tử. Hôm qua tôi có giới thiệu cho quý vị cuốn Đạo Phật của tuổi trẻ. Đó là những bài pháp thoại mà tôi nói trong những khóa tu dành cho Gia đình phật tử. Nếu quý vị đọc cuốn đó, quý vị sẽ thấy trong đó có rất nhiều tư liệu mình có thể sử dụng để làm mới tổ chức thanh thiếu niên phật tử của mình. Đạo Phật của tuổi trẻ, đây là tài liệu dành cho Gia đình phật tử để có thể cải tổ, làm mới, đổi mới nội dung cũng như hình thức của tổ chức phật tử trẻ ở nước ta.

Trong mấy chục năm qua, chúng tôi đã tổ chức nhiều khóa tu như thế này cho người Tây phương, người lớn cũng như giới trẻ. Hiện giờ các nước ở Tây phương, nước nào cũng có những nhóm phật tử trẻ. Chúng tôi dự trù tháng sáu hoặc tháng bảy năm nay sẽ thành lập đoàn thanh niên phật tử châu Âu và đặt một tên gần giống với đoàn phật học đức dục mà ngày xưa bác sĩ Thám đã đặt. Tôi có nghĩ ra một tên bằng tiếng Anh, có nghĩa là đoàn thanh niên phật tử phục vụ cho một lý tưởng, phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi. Tiếng Anh là Buddhist Youth for Healthy and Compassionate Society; European Buddhist Youth for Healthy and Compassionate Society: Đoàn phật tử Âu châu phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có tình thương, có lòng từ bi. Tại vì các tệ nạn xã hội bây giờ rất nhiều. Rất nhiều bạo động, rất nhiều căm thù, nhiều tuyệt vọng. Đoàn thanh niên phật tử Âu châu đó sẽ được giáo dục trên căn bản của năm giới, sẽ thực tập năm giới trong phạm vi gia đình của mình, trong  cộng đồng của mình và sẽ đi ra cuộc đời để phục vụ cho xã hội trên cơ bản của năm giới.

Năm giới là sự thực tập tình thương.
Ngày hôm qua đại chúng đã được nghe thầy Nguyện Hải và các vị khác thuyết trình năm giới. Năm giới ở Tây phương chúng tôi gọi là năm phép thực tập chánh niệm (Five Mindfulness trainings). Nghiên cứu cho kỹ thì thấy năm giới là sự thực tập rất cụ thể của lòng từ bi, của tình thương. Nếu thực tập đúng theo năm giới thì mình bảo hộ cho thân tâm của mình không rơi vào cạm bẩy của sắc dục, của ma túy, của sự dối trá lường lọc, của bạo động, căm thù. Mình nuôi dưỡng được tình thương của mình. Nếu nghiên cứu kỹ lưỡng năm giới mà quý vị đã được nghe trình bày ngày hôm qua thì chúng ta sẽ thấy năm giới là sự thực tập tình thương.

Giới thứ nhất là bảo vệ sinh mạng. Không những là sinh mạng của con người mà còn là sinh mạng của các lòai, kể cả thực vật và khoáng vật nữa. Bảo hộ môi trường cũng thuộc phạm vi của giới thứ nhất. Giới thứ nhất rất hiện đại. Chúng ta không phải chỉ bảo hộ con người, chúng ta còn bảo hộ sự sống của cây cỏ, sự sống của các loài động vật đang bị diệt chủng, chúng ta phải bảo vệ sông hồ, bảo vệ không khí, bảo vệ đất đừng để cho bị ô nhiễm. Vì vậy giới thứ nhất của Bụt rất là hiện đại.

Giới thứ hai là thực tập hiến dâng mà đừng tìm cách chiếm đoạt tài sản của những người khác. Chúng ta biết rằng trong xã hội hiện nay, nạn tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới. Đảng và chính quyền cố gắng hết sức mà vẫn chưa làm được gì nhiều. Chúng ta biết rõ, để đối phó với nạn tham nhũng, đối phó với những tệ nạn xã hội như ma túy, đĩ điếm, như tự tử, hay cảnh gia đình tan rã… thì sức mạnh của pháp luật không đủ. Phải cần có đạo đức và đạo đức đó cần phải được dạy dỗ và thực tập tươi vui ngay từ khi em bé còn nhỏ tuổi. Đó là lý tưởng của người thanh niên trong đoàn thanh niên phật tử phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có lòng từ bi. Tại vì xã hội bây giờ dữ quá, đầy bạo động, tranh chấp nhau, công kích, đập phá nhau không thương tiếc, không có lòng từ bi. Một xã hội có quá nhiều thác loạn, không có chút từ bi như vậy thì làm sao xã hội đó hạnh phúc cho được! Cho nên lý tưởng của người thanh niên Phật tử là làm cách nào để nuôi dưỡng lòng từ bi, nuôi dưỡng đạo đức trong con người của mình để có thể sử dụng năng lượng từ bi, năng lượng hạnh phúc đó đem ra giúp đời, độ người. Giáo dục là một trong những phương tiện rất hay.

Giới thứ ba ngăn ngừa những tan rã gia đình, những cuộc tình duyên, không tà dâm, không lạm dụng tình dục đối với người trẻ, đối với con nít. Nạn tà dâm đã làm tan vỡ không biết bao nhiêu gia đình. Cái này quý vị chỉ cần nhìn quanh sẽ thấy. Những đứa con được sinh ra và lớn lên trong những gia đình như vậy thì không thế nào có hạnh phúc được. Sống với nhau nửa năm, một năm lại phải chia tay, vì sự chung thủy không có, vì họ không được học hỏi và thực tập giới thứ ba.

Giới thứ tư là nghệ thuật lắng nghe và ái ngữ để tái lập được truyền thông, hòa giải được với nhau mà hôm qua chúng ta đã học, cũng dạy về tình thương, rất quan trọng.

Giới thứ năm là tiêu thụ cho có chánh niệm. Đừng ăn uống, thưởng thức những tác phẩm, những hàng hóa có nhiều độc tố vào thân và tâm của mình. Coi tivi, đọc sách báo chúng ta đưa những thác loạn, bạo động, thèm khát vào trong thân và tâm của chúng ta. Trẻ con bây giờ đang có nhiều chất liệu của bạo động, của căm thù, của thèm khát ở trong nó. Cho nên giới thứ năm, tiêu thụ trong chánh niệm, rất quan trọng. Không chỉ những thức ăn, thức uống đưa vào cơ thể qua miệng mà cả những sản phẩm tiêu thụ như sách báo, phim ảnh, âm nhạc đều có thể chứa đựng những độc tố của sự căm thù, sự thác loạn, của bạo động. Vì vậy giới thứ năm cũng rất quan trọng.

Chúng ta cần tổ chức học hỏi năm giới nhiều tháng, nhiều năm, chúng ta mới nắm vững được. Nếu chúng ta thuộc về đoàn thanh niên có chí nguyện tạo ra xã hội lành mạnh và có lòng từ bi thì chắc chắn chúng ta phải thực tập năm giới. Chúng ta phải truyền bá năm giới để năm giới được thực tập trong tất cả các gia đình. Vì vậy mục tiêu của đoàn thanh niên này, hay của Gia đình phật tử không phải là tranh đấu cho nhân quyền, không nhằm tranh đấu cho xóa đói giảm nghèo mà tranh đấu cho một xã hội lành mạnh, không có những tệ nạn xã hội như ma túy, đĩ điếm, tham nhũng, con người sống với nhau có được chút tình thương. Cho nên Buddhist Youth for Healthy and Compassionate Society phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có tình thương. Trong các quốc gia mà chúng tôi đã mở các khóa tu, chúng tôi đã thành lập nhiều Tăng thân, tức là những nhóm người ở địa phương để thực tập. Như ở Luân đôn, thủ đô của Anh đã có mười Tăng thân như vậy. Các tăng thân thường họp nhau lại mỗi tuần để tụng năm giới, ngồi thiền, đi thiền hành chung với nhau, ăn cơm im lặng chung với nhau, giống hệt các khóa tu như vậy. Có cả ngàn tăng thân khắp các nước và sự thực tập căn bản vẫn là năm giới.

Hơn 400 người Ý quy y Tam Bảo và xin thọ trì 5 giới
sau 7 ngày tu học với Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Làng Mai.
(Khóa tu được tổ chức tại thành Roma từ 21 đến 27.03.2008).

Nếu quý vị có dịp qua làng Mai hoặc tham dự các chuyến hành đạo của chúng tôi tại các nước Âu châu hoặc Mỹ châu quý vị sẽ thấy rằng tại các khóa tu mà chúng tôi tổ chức, thiền sinh Tây phương họ quy y hằng loạt có thể tới sáu trăm người một lần. Ở Việt Nam tôi chưa thấy lễ quy y nào mà có sáu bảy trăm người. Tại  New York, Roma, tại Los Angeles đã có những lễ truyền ba quy và năm giới cho cả bảy trăm người, họ quỳ xuống tiếp nhận năm giới rất là cảm động. Họ là những người Tây phương gốc Thiên chúa giáo và gốc Do thái giáo. Đối với người Việt, thì quy y và thọ năm giới là chuyện bình thường. Nhưng đối với người Tây phương, những người gốc Thiên chúa giáo, Tin lành, Cơ đốc giáo, Do thái giáo mà quay về nương tựa Bụt, quay về nương tựa Pháp, quay về nương tựa Tăng và tiếp nhận năm giới để hành trì là chuyện rất khó. Vậy mà khóa tu nào vào ngày chót cũng đã có hằng trăm người quy y. Khi có một người quy y, giữ năm giới, mình cũng mừng cho họ vì có năm giới tức có một sức mạnh tâm linh nó bảo hộ được cho mình, bảo hộ được cho gia đình không bị tan rã. Bên Cơ đốc giáo, sức mạnh của Cơ đốc giáo là sự cầu nguyện, cầu nguyện Chúa. Bên đạo Phật là sự giữ giới. Nếu chúng ta giữ năm giới cho vững chãi, chắc chắn gia đình chúng ta không bị tan rã, có khó khăn thì thế nào cũng có thê hòa giải được với nhau, nuôi dưỡng tình thương và làm chỗ nương tựa cho nhiều ngươi trong xã hội. Cho nên năm giới là phương pháp thực tập rất cụ thể và đó là tình thương đích thực. Sư cô Chân Trang Nghiêm báo cáo là trước khi xuất gia cô đã được đọc năm giới và cô nghĩ rằng nếu mọi người trong thế gian đều thực tập theo năm giới thì hòa bình an lạc dễ như chơi.

Ngày mai có lễ truyền Tam quy- Ngũ giới, quý vị có cơ hội tiếp nhận. Khi mình lạy Phật, mình biết Phật là thầy của mình, đưa đường chỉ lối cho mình. Nhưng mà mình hướng về bức tượng để lạy, bức tượng bằng xi-măng hoặc bằng đá. Khi mình thọ trì năm giới thì Phật, đức Thế tôn đi vào trong trái tim của mình liền chứ không phải ở cái tượng ngoài nữa. Tại vì bản chất của Phật là Pháp. Nếu Phật mà không có Pháp thì đó không phải là Phật. Năm giới đích thực là Pháp. Vì vậy khi mình quỳ xuống để tiếp nhận năm giới là mình đã đưa Phật vào trong trái tim. Nếu mình giữ năm giới cho vững chãi, cho hết lòng thì luôn luôn mình được Phật bảo hộ, ngày cũng như đêm không còn sợ hãi gì nữa. Đã có đường đi rồi, con không còn lo sợ. Vì vậy cho nên Pháp tự thân. Đâu có Pháp là đó có Phật. Đừng nghĩ rằng Phật là bức tượng bằng đồng, bằng đá, bằng vàng hay bằng thạch cao. Không phải. Bản chất của Phật là Pháp. Năm giới là Pháp rất là cụ thể. Khi quý vị phát nguyện giữ năm giới cho đàng hoàng thì ngày đêm lúc nào cũng được sự gia trì, bảo hộ của Phật. Chuyện này rất là chắc chắn, không lo sợ nữa. Trong bất cứ tình huống nguy hiểm nào mà mình biết rằng năm giới mình giữ cho vững, năm giới mình không vi phạm, thì mình đang được sự che chở của Tam bảo. Vì vậy người thanh niên lấy năm giới làm phương châm, làm bản chất, làm lý tưởng đi vào cuộc đời để làm đẹp cuộc đời, làm cho cuộc đời lành mạnh, xóa bỏ những tệ nạn xã hội như ma túy, đĩ điếm, tự tử, tham nhũng, tuyệt vọng v.v… Đó là một lý tưởng rất là đẹp.


Cách chào Hướng Đạo  


Ấn Cát tường GĐPT


Chào 5 Giới ?

Tổ chức hướng đạo sinh khi họ chào nhau, họ chào như vầy: ba ngón tay đưa lên tượng trưng cho ba lời nguyền là phụng thờ tổ quốc, giúp ích mọi người và tuân theo luật đoàn. Gia đình phật tử mỗi khi chào nhau thì bắt ấn cát tường. Bây giờ nếu mình thành lập đoàn thanh niên phật tử, dùng năm giới để làm căn bản, không có lý mình đưa năm ngón tay lên để chào?
 

***

Chúng ta phải nương nhau và bảo hộ cho nhau
Chiều nay, nếu có pháp đàm, các bạn trẻ nên ngồi lại. Một mặt mình phải đổi mới Gia đình phật tử mới được. Mặt khác mình phải nghĩ cách trao truyền cho thế hệ trẻ một lý tưởng, mà lý tưởng đó là giúp xã hội này lành mạnh hơn, tại vì xã hội chúng ta đang đau yếu. Tệ nạn xã hội càng ngày càng tăng, pháp luật bó tay, không đủ sức để ngăn ngừa những tệ nạn xã hội đó. Xã hội đang trông chờ vào người Phật tử.

Phật tử có những phương tiện rất cụ thể, đó là sự học hỏi và hành trì năm giới. Đừng tưởng năm giới là dễ. Học hỏi năm giới càng ngày càng sâu, tìm ra những biện pháp để thực tập năm giới trong đời sống cá nhân, đời sống gia đình, đời sống học đường, đời sống xã hội, đó là một lý tưởng rất lớn. Quý vị là những người trẻ và nếu muốn có con đường đẹp cho lý tưởng, cho tương lai thì năm giới của đức Thế tôn là lý tưởng của tình thương. Tình thương này không phải là tình thương hệ lụy, tình thương đau khổ. Quý vị thường nghe những bài hát tình sầu trên radio, bài nào cũng than hết. Em không yêu tôi thì chắc tôi chết mất. Tại sao em nỡ lòng nào bỏ tôi… cứ rên rỉ như vậy thì có cứu ai được đâu. Tình này là tình rất lành mạnh. Năm giới là một tình thương rất lớn. Nếu người thanh niên lấy năm giới làm bản chất của lý tưởng tình thương thì người thanh niên có tình thương rất là đẹp cho cuộc đời cũng như cho người khác. Khi mình có năm giới rồi, có lý tưởng rồi thì đâu cần phải đi vào net để nương tựa, để bị sa vào lưới của những con yêu râu xanh kia. Con yêu râu xanh trong Internet nhiều lắm, các bạn trẻ nên chú ý.

Tôi thỉnh thoảng cũng lên mạng. Nhưng mỗi lần tôi lên mạng là để kiếm tư liệu nghiên cứu. Những tư liệu về khoa học, thường thường tôi lên mạng là để biết những khám phá mới của khoa học não bộ thần kinh, khoa học vật lý thôi. Mạng có ích lợi, nhưng mạng cũng rất nguy hiểm. Vì vậy tại làng Mai, Pháp quốc, tại tu viện Lộc uyển, tại tu viện Thanh Sơn, tu viện Bích Nham, tại các đạo tràng của chúng tôi thì các thầy, các sư cô cũng như các Phật tử theo nguyên tắc mỗi khi lên mạng, không được đi một mình, phải luôn luôn có một người đi theo gọi là đệ nhị thân, nếu không thì phạm giới. Đi một mình vào trong mạng có thể bị sa vào mê cung của net, rất nguy hiểm. Cho nên mình không cấm lên mạng, nhưng mỗi lần lên mạng là phải có thân thứ hai đi theo để yểm trợ cho mình.

Ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Đức… các thầy, các sư cô mỗi khi đi chợ, ra bưu điện, hay đi công việc cho chúng, luôn luôn phải đi hai người. Lên mạng để làm việc gì đó cũng phải đi hai người. Nó đã trở thành truyền thống và đó chính là sự thực tập giới. Chúng ta phải nương vào nhau và bảo hộ cho nhau.

Ở Làng Mai, các thầy, các sư cô không ai có địa chỉ E-Mail riêng. Chỉ có một địa chỉ chung. Muốn gởi thư thì gởi vào đó rồi in ra đưa lại từng người chứ không có địa chỉ E-mail riêng. Cái đó giúp ích rất nhiều. Máy tính cá nhân đều được cúng dường cho đại chúng hết, khi cần để đánh bài hay làm việc cho chúng thì vào văn phòng làm. Vì vậy các thầy, các sư cô sống trong đó được bảo hộ rất vững chãi, khó mà sa vào những ổ nhện của những con yêu râu xanh kia. Những điều này người trẻ phải học cho được. Ở đây có nhiều người trẻ tham dự khóa tu, các bạn phải họp nhau lại. Chúng ta có nhiều vấn đề, chúng ta có nhiều hiểm nguy, người trẻ có thể táng thân mất mạng, có thể đánh mất cuộc đời mình rất dễ dàng. Vì vậy chúng ta cần ngồi lại, vạch một con đường căn cứ trên năm giới, căn cứ trên lý tưởng của đạo Bụt, của tình thương mà xây dựng cho đời sống cá nhân mình, cho gia đình mình, cho cộng đồng của mình và phục vụ cho xã hội lành mạnh và có tình thương.

Năm 1964 tôi có thành lập phong trào thanh niên gọi là Thanh niên phụng sự xã hội. Trong đó các thầy, các sư cô trẻ và các phật tử trẻ, được huấn luyện và đi vào thôn xóm để giúp dân, tổ chức lại đời sống xã hội. Đứng về bốn phương diện, y tế, kinh tế, giáo dục và tổ chức. Chúng tôi đào luyện các người trẻ đi vào thôn làng để giúp dân làng tổ chức thiết lập những trường học chống lại nạn thất học của trẻ em ở miền quê. Chúng tôi lập ra những bệnh xá rất  đơn sơ chăm sóc cho cả người lớn cũng như trẻ con những thứ bệnh đơn giản. Chúng tôi đứa các sinh viên y khoa, các bác sĩ trẻ về giúp. Chúng tôi chỉ cho họ thành lập những hợp tác xã, tổ chức những tiểu công nghệ để cho họ có thêm ngân sách gia đình của họ và chúng tôi giúp dân quê giúp đỡ lẫn nhau. Trường thanh niên phụng sự xã hội đã đào tạo ra hàng ngàn cán bộ như vậy. Trong số các huynh trưởng cũng đã có những vị từng là tác viên xã hội của trường thanh niên. Năm nay chúng tôi có dự tính sẽ lập đoàn thanh niên Phật tử ở Âu châu. Chiều nay có cơ hội chúng ta ngồi lại bàn về đề tài này. Làm thế nào để xây dựng lại một gia đình phật tử mới có sinh lực, có phương pháp tu học, có kiến thức đầy đủ, có lý tuởng của năm giới. Nếu cần chúng ta sẽ thành lập đoàn sinh viên phật tử, đoàn thanh niên phật tử, lấy năm giới làm sức mạnh của bản chất, làm lý tưởng của chúng ta. Nếu được như vậy, đời chúng ta sẽ có hướng đi và chúng ta sẽ giúp đỡ được rất nhiều người.

 

Bài kế : Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương (4)

 

Không có con đường nào đưa ta đến hạnh phúc - hạnh phúc chính là con đường / There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network). 
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực.  Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.