Thở vào tôi biết tôi còn trẻ
Tám
mươi ba tuổi cũng còn trẻ
(cười).
Ngày xưa, cách đây bảy mươi năm, hồi tôi còn là học tăng ở
chùa Báo Quốc - Huế, có vị Hòa thượng trú trì tên là Phước
Hậu, người gốc Thanh Hóa làm thơ rất hay, thơ của ngài có bài:
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư.
Năm nay tính lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như
(Như thị ngã văn).
Và bài :
Tám trăm tuổi mới già
Tám chục cũng chưa tra (già)
Ngày xưa ông Bành Tổ sống tới tám trăm tuổi
tuổi thì mới tạm gọi là già, còn bây giờ mình mới tuổi tám
mươi, chưa già.
Thở vào tôi thấy tôi đang còn trẻ
Thở ra tôi mỉm cười với sự sống của tuổi trẻ trong tôi
Tuổi trẻ đi qua rất là mau. Nếu mình đang còn trẻ mà mình
không hưởng sự tươi mát, nguồn năng lực của tuổi trẻ thì uổng
lắm.
Thở vào tôi thấy tôi còn trẻ
Thở ra tôi mỉm cười với tuổi trẻ của tôi.

Kính thưa đại chúng, hôm nay ngày 25 tháng 4 năm 2008, chúng
ta đang ở tu viện Bát Nhã, trong khóa tu cho người trẻ với chủ
đề: Lắng nghe để hiểu, Nhìn lại để thương.
Nuôi
con từ khi con chưa chào đời
Chúng ta hãy tưởng tượng một cặp vợ chồng trẻ đang cãi nhau,
đang làm khổ nhau và họ có một đứa bé mới sinh được sáu tháng,
đang nằm trong nôi. Người chồng đôi khi có năng lượng của sự
giận dữ, sự bực tức, nói ra những câu có thể làm thương tổn
người vợ và người vợ trong lúc đau khổ cũng tìm cách trả lời
chồng bằng những lời rất khó nghe. Hai vợ chồng trẻ phát ra
năng lượng không lành mạnh. Họ nghĩ rằng em bé sáu tháng làm
sao biết được, thấy được sự bất hòa của hai vợ chồng? Nhưng mà
sự thật, em bé cảm thấy được. Tuy nó không hiểu, chưa hiểu
được ba nói má cái gì, má ray rức ba cái gì? Nhưng nó cảm nhận
được không khí bất an, nặng nề, ngột ngạt trong gia đình. Và
như vậy em bé đã bắt đầu khổ từ hồi sáu tháng, từ hồi chưa đầy
một tuổi.
Có nhiều người trong chúng ta đã khổ từ trong bụng mẹ, chưa
sinh ra đã thấy khổ rồi. Những lời đay nghiến, buộc tội, chua
chát của người cha đã đi vào người mẹ. Những cảm xúc, buồn
tủi, giận hờn, tuyệt vọng của người mẹ đã thấm vào trong thai
nhi. Cho nên nếu mình có ý hướng lập gia đình để sinh con, đẻ
cháu, nối tiếp của dòng họ, mình phải chuẩn bị trước. Hôn nhân
là bước đường có chông gai chớ không phải là không.
Tôi có đứa cháu gái lấy chồng ở Pháp, rồi hai vợ chồng sang
bên Hoa kỳ để sinh sống. Cháu tôi được học thở, học cười, học
buông thư từ hồi mười sáu tuổi (do chính tôi dạy). Khi bác sĩ
cho biết là cháu có mang em bé thì cháu bắt đầu tụng kinh Pháp
Hoa, tập thiền hành, nuôi em bé bằng hơi thở, bằng bước chân
và bằng những lời kinh Pháp Hoa. Nuôi con ngay từ khi con mới
tượng hình. Nếu biết nuôi con như vậy thì tuy rằng con chưa
sinh ra nhưng đã được hưởng những thực phẩm ngọt ngào, trong
lành, mát mẻ của người mẹ. Người chồng biết vợ mình đang mang
trong người chứng tích của tình yêu “một đứa con”. Tất cả
những gì mình nói, mình làm đều có ảnh hưởng tới đứa con dầu
con mình mới được tượng hình. Đó là cái thấy rất là sâu.
Bà mẹ trẻ biết mình sắp có con, phải cẩn thận lắm mới được.
Những gì mình ăn sẽ ảnh hưởng đến đứa con, thành ra phải chọn
những thức ăn rất là lành. Nếu mình uống rượu, hút thuốc, nếu
mình có những đau buồn, sợ hãi, sầu khổ, lo lắng con mình sẽ
lãnh đủ hết. Giữa đứa con và mình có một liên hệ rất là mật
thiết, mình chuyền cho đứa con qua một cuống nhau không những
thực phẩm vật chất mà còn thực phẩm tinh thần nữa. Những buồn
tủi, sầu khổ, lo lắng của mình, mình cũng chuyền cho con và
những thảnh thơi, an lạc mình cũng chuyền cho con. Mình nuôi
con từ khi con chưa ra đời. Mình là người con trai cũng vậy,
mình biết rằng sau này mình sẽ lập gia đình với một người con
gái và thế nào mình cũng có con. Mình phải chuẩn bị trước để
khi có con thì đứa con không có khổ.
Gia tài
quí giá nhất mà cha mẹ
để lại cho con là hạnh phúc của chính cha mẹ
Ở bên Đức, chúng tôi đang thành lập
Viện
Phật học Ứng Dụng Âu Châu.
Trong những khóa học mình mở ra có khóa dành cho những thanh
niên, thiếu nữ trẻ sắp thành lập gia đình. Chuẩn bị cho họ
đàng hoàng để họ đừng có làm những lỗi lầm khi họ về với nhau
như những cặp vợ chồng khác. Tôi mong rằng các thầy, các sư cô
ở tu viện Bát Nhã cũng mở những khóa như vậy cho những người
trẻ. Một khóa tu đặc biệt dành cho thanh niên, thiếu nữ sắp
lập gia đình, ít nhất là hai mươi mốt ngày [1].
Khi nói chuyện với những người trẻ, ai cũng đồng ý một điều
là:
gia tài
quí giá nhất mà cha mẹ có thể để lại cho con là hạnh phúc của
chính cha mẹ.
Nếu mà cha biết thương yêu làm hạnh phúc cho mẹ và mẹ biết
chăm sóc, lo lắng cho cha. Giữa hai vợ chồng có sự hòa thuận,
có niềm tin, có được hạnh phúc thì đó là món quà lớn nhất có
thể để lại cho con. Nếu chúng ta làm khổ nhau thì chúng ta
không có gì quý hóa để lại cho con. Con chúng ta không cần
chúng ta để lại ruộng đất, nhà cửa, tiền bạc, con chúng ta có
thể tự mình làm ra những cái đó. Nhưng cái quí nhất mà chúng
ta có thể để lại cho con là hạnh phúc của chính chúng ta, của
hai vợ chồng.
Món quà
quí giá nhất mà ba mẹ để lại cho chúng con là hạnh phúc của ba
má.
Đó là tiếng nói của người trẻ.
Ba má
ơi, đừng làm khổ nhau nữa! Con khổ lắm! Từ hồi mới ba tháng,
sáu tháng con đã khổ rồi. Có những lúc ba má cãi nhau, làm khổ
nhau, con chịu không nổi, con không biết trốn vào đâu, con mở
cửa cầu tiêu, con vô, con đóng lại, con khóc một mình ở trong
đó. Ba má đâu có biết.
Ba má làm khổ nhau thì con khổ cho nên thương con là phải
thương từ khi con chưa ra đời.
Muốn thương thì phải hiểu. Ở trong đạo Bụt, cái Bi đi với cái
Trí. Không có Trí thì không có Bi, không có Bi thì không có
Trí. Bi là thương, Trí là hiểu. Nếu mình không hiểu được những
khó khăn, những khổ đau, những ước vọng của người kia thì làm
sao mình thương người kia được. Cho nên mình yêu ai mình phải
có thì giờ để lắng nghe người đó, nhìn kỹ người đó để nhận
diện ra những khổ đau, những khó khăn của người đó. Những khó
khăn, khổ đau đó có thể đã bắt đầu từ khi người đó còn một,
hai tuổi.
Các bạn nào đã học về Tâm lý học, Phân tâm học biết rất rõ
điều đó. Những hành xử, những nói năng, những tư duy của mình
có gốc rễ từ hồi mình còn ấu thơ. Những hạt giống đau khổ đã
được trồng vào trong đất tâm của mình từ hồi mình còn ấu thơ.
Cho nên sở dĩ người kia nói năng, hành xử không dễ thương thì
có lẽ là từ hồi ấu thơ, những hạt giống của khổ đau đã được
gieo trồng và từ đó tới nay, mấy chục năm chưa có cơ hội được
gặp gỡ chánh pháp, gặp thầy, gặp bạn, chưa biết cách nhận diện
hạt giống đau khổ đó để chuyển hóa. Và khi thấy như vậy thì
mình không trách móc nữa, mình có thể thương được, mình có thể
giúp người đó chuyển hóa những hạt giống khổ đau đang còn ở
trong tâm.
Chính mình cũng vậy, mình cũng có thể có những hạt giống của
khổ đau, của bức xúc ở trong lòng. Lâu nay mình đã từng nói
những câu nói không có tình, không có nghĩa, những câu nói có
khả năng làm đổ vỡ. Mình có những hành động gây đổ vỡ vì ở
trong mình có những hạt giống của khổ đau. Hôm nay gặp được
chánh pháp, thấy được phương pháp thực tập, mình có cơ duyên
nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa lấy những hạt giống của khổ
đau, giận hờn. Nếu mình làm được, mình sẽ giúp cho người kia
làm được và nhiều khi người con có thể giúp được cho người
cha. Hôm qua mình có nói chuyện về một đứa con gái, sau khóa
tu đã về độ được cho ba, cho má. Ba má chưa có cơ duyên gặp gỡ
chánh pháp, ba má chưa biết nhận diện và chuyển hóa những hạt
giống khổ đau, bức xúc ở trong lòng, rất là tội nghiệp cho ba
má.
Chúng ta biết rằng có những người cha rất thương con nhưng
không hiểu con, không hiểu được những khổ đau, bức xúc của
con. Cứ ép con làm cái này, làm cái kia. Cứ nhân danh tình
thương mà làm như vậy và càng thương thì con mình càng khổ.
Thương mà không hiểu chỉ làm cho người thương của mình khổ
thêm. Người cha có thể tới với người con và nói rằng:
Con ơi,
thật tình, ba có bao giờ muốn cho con khổ đâu? Ba muốn cho con
có hạnh phúc nhưng tại vì ba chưa thấy được những khó khăn,
những khổ đau, những bức xúc, những ước vọng của con, cho nên
ba đã ép con thế này, thế kia. Ba rất là hối hận. Ba không
muốn làm cho con khổ nữa, vậy con nói cho ba nghe tất cả những
khó khăn, những bức xúc, những ước mơ của con để ba có thể
hiểu được con, để ba có thể thương con được.
Người cha có khả năng nói với đứa con những câu như vậy. Trong
đạo Bụt gọi là ái ngữ. Người vợ cũng có thể nói với chồng như
vậy:
Này anh
ơi, em biết rằng anh có những khó khăn, những bức xúc, những
khổ đau mà lâu nay em không thấy được, không hiểu được cho nên
em đã làm cho anh khổ. Thật tình em không muốn nhưng tại vì em
không hiểu được những đau khổ, những bức xúc của anh cho nên
em mới phản ứng như vậy. Anh phải giúp em, nếu anh không giúp
em thì ai giúp em nữa bây giờ? Anh nói cho em những khó khăn,
những khổ đau, những bức xúc của anh để em có thể hiểu, có thể
thương anh được.
Nếu người vợ nói được với người chồng như vậy thì người chồng
sẽ mở cánh cửa trái tim của mình ra và nói cho người vợ nghe
những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc của mình.
Chúng ta bận rộn quá, chúng ta lo làm ăn, chúng ta không có
thì giờ ngồi với nhau để lắng nghe nhau. Không lắng nghe nhau
thì không hiểu được nhau, cứ tiếp tục làm khổ nhau và làm khổ
những đứa con của mình. Có thể chúng ta đem về nhiều tiền, đủ
tiền hay là dư tiền nữa nhưng chúng ta vẫn khổ như thường tại
vì chúng ta để hết thì giờ để lo chuyện làm ăn, lo chuyện kiếm
tiền, chúng ta không có thì giờ cho tình thương. Mà tình
thương là gì? Tình thương là: lắng nghe để hiểu, nhìn lại để
thương. Trong đạo Bụt có pháp môn gọi là Lắng nghe (đế thính)
và pháp môn Ái ngữ, tức là nói những lời nhẹ nhàng.
Mình có thể nói cho người kia biết những khổ đau, những uất ức
của mình nhưng mình phải nói bằng giọng ái ngữ. Mình có bổn
phận phải nói cho người thương của mình biết những khó khăn,
khổ đau của mình. Nhưng nói làm sao để cho người kia có thể
nghe được, có thể hiểu được. Nếu mình nói bằng giọng buộc tội,
lên án, chua chát, cay cú thì người kia không đủ sức nghe,
nghe chừng năm phút là dội liền. Cho nên ái ngữ rất cần.
Người chồng cần phải học phương pháp ái ngữ để nói cho người
vợ nghe tất cả khó khăn, khổ đau của mình. Nói một giờ chưa
đủ thì nói hai giờ, nói một ngày chưa đủ thì nói hai ngày
nhưng lời nói đó không có tính cách lên án, buộc tội, chua
chát, cay đắng thì người kia mới có khả năng nghe được. Chớ
còn người kia cũng có hạt giống của khổ đau, của giận hờn mà
nếu mình nói bằng giọng chua chát, phê bình, chỉ trích, lên án
thì trong khi mình nói, mình tưới tẩm những hạt giống bực bội,
tức tối của người kia thì người kia nghe được năm phút là dội,
không thể nghe mình được nữa. Cho nên mình phải học nói lời ái
ngữ, nói hết sự thật nhưng nói bằng giọng ái ngữ mà chỉ cần
thực tập vài ba ngày là có thể làm được như vậy.
Phương
pháp gỡ bom
Có một bà người Công giáo vì không truyền thông được với ông
chồng nên bà có ý định muốn tự tử. Ông không hiểu bà, ông làm
khổ bà. Con người của ông dồn chứa đầy sự giận dữ, bực bội,
giống như trái bom sắp nổ. Mấy đứa con không dám tới gần cha,
bà vợ cũng không không dám tới gần chồng. Có bữa ông giận dỗi,
ông xô cái bàn ăn, cơm nước rơi xuống hết. Giận đến như vậy.
Sự bực tức, sự bạo động của ông đã dồn chứa lâu ngày thành ra
ai cũng sợ, không ai dám tới gần. Ông có cảm tưởng rằng vợ con
ông đều tẩy chay ông hết, nên ông càng giận thêm nữa. Tại họ
sợ ông chứ đâu phải họ tẩy chay.
Sống trong tình trạng đó nhiều tháng, nhiều năm bà tuyệt vọng
quá thành ra bà có ý định muốn tự tử. Bà quen thân với một bà
Phật tử nên kể cho bà này nghe về ý định của mình. Bà Phật tử
biết rõ hoàn cảnh của bạn mình nên mới đề nghị:
Chị ơi,
cuốn băng giảng này của Thầy em, thầy em dạy về phương pháp gỡ
bom, chị mở ra nghe thử xem có giúp ích được gì không?
Bà Công giáo là người sùng đạo nên cũng hơi giáo điều, nói
mình là người đạo Chúa mà nghe băng giảng về đạo Phật, chắc là
không nên, thành ra bà không chấp nhận.
Nhưng tới bữa đó, bà muốn tự tử thiệt, bà điện thoại cho bà
bạn Phật tử. Bà Công giáo nói:
chiều
nay em chết.
Bà Phật tử được tin, cố gắng tìm cách để giúp bạn mình lần
cuối:
Chết
thì chết nhưng trước hết phải tới thăm em cái đã, thăm em xong
rồi hãy chết.
Bà Công giáo nói:
Ok!
Bà lấy taxi tới. Bà Phật tử rót trà mời bạn rồi nói:
Chị nói
em là người bạn duy nhất trong đời của chị, vậy mà em chỉ yêu
cầu chị có một chuyện thôi là chị nghe bài giảng này của Thầy
em “phương pháp gỡ bom”, sau đó chị muốn chết thì chết mà chị
không làm. Vậy thì chị đâu có coi em là bạn thân duy nhất trên
đời của chị nữa.
Bà này nghe nói động lòng: thôi được, mình nghe xong cuốn băng
rồi mình về mình chết cũng được. Cuốn băng giảng về Nghệ Thuật
Gỡ Bom, về phương pháp giúp buông bỏ những giận hờn, bực bội,
căng thẳng bị dồn chứa lâu ngày.
Khi bà Công giáo chấp nhận thì bà Phật tử rất là mừng. Bà kéo
màn, đóng hết mấy cánh cửa lại rồi rút lui để bà Công giáo ở
lại một mình nghe băng giảng. Bà Công giáo là người trí thức,
đã đậu tiến sĩ rồi. Ông cũng đậu tiến sĩ rồi nhưng mà hai bằng
tiến sĩ không giúp cho họ có hạnh phúc. Mấy đứa con đều học
đại học, sắp ra trường, ở nhà không túng thiếu vậy mà không có
hạnh phúc gì hết. Khổ đến nỗi người vợ không còn muốn sống
trên cõi đời này nữa.
Trong khi nghe cuốn băng thì bà khám phá nhiều điều mới lạ.
Lâu nay bà tưởng chỉ có bà là khổ thôi và ông là người làm khổ
bà. Ai dè, nghe cuốn băng, bà thấy rất rõ: mình khổ, ông cũng
khổ. Mà ông khổ như vậy, không phải là do chính ông mà mình
cũng có đóng góp một phần vào cái khổ của ông. Bà thấy được
phần trách nhiệm trong sự đau khổ của người chồng.
Nói như vậy nghĩa là trong khi bà nghe băng giảng thì bà giác
ngộ. Giác ngộ không phải là chuyện gì ghê gớm lắm đâu, giác
ngộ tức là bắt đầu hiểu. Có những giác ngộ lớn và những giác
ngộ nho nhỏ mà những giác ngộ nho nhỏ đưa tới giác ngộ lớn.
Cuốn băng đó giúp mình thấy rõ được sự thật: trước hết không
phải chỉ mình là nạn nhân mà ông cũng là nạn nhân, không phải
chỉ mình khổ mà ông cũng khổ. Trong cái khổ của ông, mình có
đóng góp chớ không phải không. Tại vì khi mới cưới nhau về,
hai người nói với nhau những lời ngọt như mật mà trước khi
cưới lại còn ngọt hơn mật nữa: Em ơi, nếu không có em thì đời
anh đâu có nghĩa gì đâu? Nếu không có em, chắc anh chết quá!
Nhưng sau này mình suy nghĩ ngược lại: Trời ơi, sống với ông
này một trăm năm chắc mình chết quá, như bị ở tù chung thân.
Nghe cuốn băng phật pháp thì có cơ hội quán chiếu trở lại để
thấy rằng: năm, sáu năm nay mình chưa bao giờ nói với ông được
lời ngọt ngào như ngày xưa. Ngày xưa viết những lá thơ rất
ngọt ngào, nói những câu rất ngọt ngào nhưng bây giờ tại sao
mình không nói được như vậy nữa? Tại vì mình chứa chấp nhiều
bực bội, nhiều khổ đau, mình đánh mất khả năng nói những lời
ngọt ngào. Khi mình không nói được những lời ngọt ngào và ái
ngữ thì mình đánh mất sự truyền thông giữa hai bên. Khi hai
bên không truyền thông được nữa thì chứa chấp những tri giác
sai lấm về nhau. Ban đầu là người bạn, bây giờ là người thù,
nhìn nhau với đôi mắt thù nghịch. Lâu nay mình cứ nghĩ rằng sở
dĩ mình khổ là tại vì người đó, người đó là người làm cho mình
khổ. Sau khi nghe xong cuốn băng, mình thấy rõ: cái khổ của
mình là do mình một phần lớn và cái khổ của người kia cũng do
mình một phần.
Phương pháp hay nhất để có thể gỡ bom là lắng nghe những khổ
đau, những khó khăn, những bức xúc của người kia. Khi lắng
nghe được một giờ đồng hồ thì người kia đỡ khổ rất nhiều. Ở
trong đạo Phật có đức Quan Âm rất giỏi trong chuyện lắng nghe.
Quán âm tức là lắng nghe tiếng nói của cuộc đời. Đức Bồ Tát
Lắng Nghe tức là Bồ Tát Quan Thế Âm, vị Bồ tát lắng nghe với
lòng từ bi. Mình biết là người kia có những khổ đau, mình ngồi
lắng nghe cho người kia bớt khổ gọi là Bi thính, Bi thính là
nghe với lòng từ bi.
Thành ra khi người vợ nói người chồng: anh ơi, em biết rằng
trong anh có những bức xúc, khổ đau, khó khăn mà em chưa hiểu
được, em rất muốn lắng nghe anh, anh nói cho em nghe đi, những
khổ đau, bức xúc của anh để em có thể hiểu, để em có thể
thương anh được, anh giúp cho em đi. Đó gọi là ái ngữ. Khi
người chồng nghe những lời nói đó, tự nhiên trái tim mở ra vì
lâu nay ông chưa bao giờ nghe bà nói với ông được một câu như
vậy.
Tự nhiên nghe xong cuốn băng, bà Công giáo muốn về thực tập
“gỡ bom” liền nhưng bà Thật tử can:
chưa
được đâu chị ơi, chị đang còn yếu lắm, chị chưa có thực tập,
chị lắng nghe ông chừng mười phút rồi chị nổi sân si lên là hư
bột hư đường hết. Chị phải thực tập ít nhất là một tuần lễ mới
có thể gỡ bom được, chớ không bom nổ tan xác chị luôn. Thầy em
sắp qua Mỹ, sẽ mở hai khóa tu, một khóa cho người Mỹ và một
khóa cho người Việt, chị ghi tên vào khóa tu nói tiếng Việt
đi, sau khóa tu sáu ngày đó em nghĩ chị mới có thể về thực tập
gỡ bom được.
Bà Công giáo đó chấp nhận.
Trong khóa tu đó bà Công giáo đó là một trong những người thực
tập giỏi nhất, giỏi hơn rất nhiều Phật tử. Tuy mình là Phật tử
lâu đời rồi nhưng mình thực tập sơ sơ, không đem hết lòng ra
thực tập, vì vậy chưa chắc mình là người Phật tử mà mình thực
tập hay bằng người Công giáo. Đối với bà Công giáo này đây là
vấn đề sống chết cho nên đem hết tất cả tâm hồn ra thực tập,
nào thở, nào buông thư, nào nhận diện những tâm hành giận dữ,
bức xúc, tuyệt vọng của mình. Sau sáu ngày thực tập, bà cảm
thấy người bà nhẹ ra vì những hạt giống của hiểu, của thương
được tưới tẩm. Bà thấy rất là tội nghiệp cho ông chồng, bà
muốn trở về để cứu lấy ông của chồng mình. Khi có ý định cứu
vớt, giúp đỡ thì mình đã thành vị Bồ tát rồi. Trở thành vị Bồ
tát không phải là chuyện quá khó như mình tưởng tượng đâu? Khi
lòng mình có tình thương, muốn giúp cho người kia bớt khổ là
mình đã trở thành vị Bồ tát nhỏ rồi. Không phải là chuyện xa
xôi đâu!
Ái ngữ và lắng nghe
Đêm đó, bà về, bà đi những bước chân rất là nhẹ, thở những hơi
thở rất là nhẹ. Bà đã học được phương pháp lắng nghe, đã học
được phương pháp ái ngữ rồi, bà quyết tâm về thực tập để gỡ
bom cho chồng, bà áp dụng đúng những điều bà thực tập trong
khóa tu:
Ông ơi,
tôi biết là năm, sáu năm nay ông khổ lắm. Tôi đã không giúp
được gì ông mà tôi còn làm cho tình trạng tệ hại hơn, tôi đã
trách móc, tôi đã đay nghiến ông. Tôi hối hận lắm, tôi đâu có
muốn làm cho ông khổ đâu nhưng tại vì tôi chưa hiểu được những
nỗi khổ, niềm đau của ông cho nên tôi mới dại dột như vậy. Ông
hãy tha thứ cho tôi. Ông phải giúp tôi mới được, ông phải nói
cho tôi nghe những khổ đau, những khó khăn, những bức xúc của
ông để cho tôi hiểu (nếu không hiểu thì làm sao thương được).
Tội nghiệp tôi lắm, ông giúp cho tôi đi.
Bà về, bà nói được như vậy và quý vị có biết là chuyện gì xẩy
ra không? Ông ôm mặt, ông khóc, khóc như đứa con nít. Tại vì
lâu nay, sáu bảy năm trời nay bà chưa bao giờ nói với ông với
giọng nhẹ nhàng như vậy! Nói toàn giọng bà chằng không hà, đay
nghiến, chua chát, trách móc, lên án, buộc tội.
Khi mình dùng ái ngữ thì mình mở được cánh cửa trái tim của
người kia. Khi bà thấy ông khóc thì bà biết là có hy vọng,
trái tim đã mở rồi, không có đóng im ỉm, khóa lại mười lần như
trước nữa. Bà thấy được thế, bà đi tiếp nữa:
Tội
nghiệp tôi mà ông, tôi khổ lắm, tôi đâu có muốn làm cho ông
khổ đâu. Tại tôi chưa hiểu được ông, ông thương tôi đi, ông
nói cho tôi nghe đi.
Và bắt đầu ông nói những khó khăn, khổ đau của ông cho bà, bà
lắng nghe. Trong khi ông nói, bà nhận thấy ông có nói nhiều
điều rất sai lầm, ông có những tri giác rất sai lầm. Nhưng bà
không nói gì hết, tại vì bà biết nếu bà cắt lời ông, bà sửa
sai ông ngay lúc đó, ông mất hứng, ông sẽ không nói nữa. Điều
này bà học được trong khóa tu.
Trong khi mình lắng nghe, mình phải thở và mình phải nhắc mình
rằng lắng nghe như vậy chỉ với mục đích duy nhất là cho người
kia có dịp tuôn ra hết những sầu khổ trong trái tim để cho
người kia bớt khổ. Mà nếu mình tìm cách sửa sai, cắt đứt người
ta trong khi người ta nói, thì người ta không có cơ hội nói
nữa. Cho nên dầu người kia có nói những lời buộc tội, có những
tri giác rất là sai lầm, có những lời nói có vẻ chua chát hoặc
là lên án, mình vẫn tiếp tục lắng nghe. Mình nói rằng ông này
có những tri giác sai lầm nhưng mà bây giờ mình không được
phép cắt lời ông hoặc sửa sai ông. Đời còn dài, có thể tuần
sau, tuần sau nữa mình sẽ có dịp cho ông biết, sẽ cho ông một
số thông tin để ông có thể chỉnh lý lại nhận thức của ông
nhưng bây giờ thì không, bây giờ chỉ lắng nghe thôi.
Bằng tiến sĩ phải học đến bảy, tám năm nhưng có tháo gỡ được
trái bom không? Mà khóa tu chỉ có sáu ngày thôi mà bà tháo
được trái bom. Đêm đó ông có dịp nói cho bà nghe tất cả những
khó khăn, khổ đau của ông. Tuy trong lời nói của ông có những
tri giác sai lầm về bản thân, cũng như về bà, nhưng bà không
cắt lời. Bà nói: tội nghiệp anh quá, vậy mà em không biết. Em
hứa từ đây về sau em không làm như vậy nữa, không nói như vậy
nữa. Chỉ cần nói chừng đó thôi, rất là khéo léo.
Sự tu tập hành trì cần sự khéo léo, tu là một nghệ thuật chứ
không phải lao tác hay lao động gì mệt nhọc đâu. Lắng nghe, ái
ngữ là một nghệ thuật. Một nghệ thuật rất cao.
Đêm đó là đêm hòa giải, có tính cách trị liệu cho cả hai ông
bà. Tại vì ông nói ra được, bà giúp cho ông nói ra được, giúp
ông cất đi được gánh nặng trong lòng. Sự thành công của bà rất
lớn, dầu bà mới tu có sáu ngày, dầu bà không phải là Phật tử,
chưa quy y, chưa thọ trì năm giới. Có nhiều người Phật tử quy
y mười năm rồi, thọ năm giới mười năm rồi nhưng đâu có thành
công, vẫn sống trong địa ngục với người chồng của mình và tiếp
tục làm khổ những đứa con.
Tôi có những đệ tử như vậy, tôi rất hãnh diện, mới tu có sáu
ngày thôi mà đã giải quyết được vấn đề của mình, của gia đình
mình. Rất là hay!
Một chứng tích của sự thành công là bà dụ được ông ghi tên
cùng với bà tham dự khóa tu thứ hai giảng bằng tiếng
Anh cho người Mỹ. Tại vì ông thấy bà vợ mình mới đi thực tập
có sáu ngày mà về thay đổi quá nhiều, ông tìm lại được người
đàn bà dịu dàng, ngọt ngào năm xưa. Và vì vậy ông mới tin vào
chánh pháp, tuy ông là người Công giáo, ông chấp nhận ghi tên
vào khóa tu dành cho những người Mỹ. Cũng như bà, ông tu hết
lòng. Chỉ sáu ngày thôi, tham dự hết tất cả hoạt động của khóa
tu:
ngồi
thiền, đi thiền, ăn cơm trong im lặng, pháp đàm, buông thư,
làm mới, nhận diện, ôm ấp hạt giống khổ đau, chuyển hóa, học
ái ngữ, học lắng nghe.
Ở Mai Thôn đạo tràng chúng tôi đã tổ chức hàng ngàn khóa tu
như vậy ở tại Âu châu và Mỹ châu. Cũng biết bao cặp vợ chồng,
cha con, mẹ con hoà giải với nhau được là nhờ những khóa tu
như vậy. Mình đừng có tưởng mình là người Phật tử có quy y
rồi, có thọ giới rồi là mình thực tập giỏi hơn người Công giáo
hay người Tin lành đâu, chưa chắc. Người Tây phương họ không
tu thì thôi, nhưng một khi họ quyết định tu, họ tu rất đàng
hoàng, họ không có tu khơi khơi như mình. Trong buổi thiền trà
để kết thúc khóa tu thứ hai bằng tiếng Anh, ông ta chia sẻ:
Thưa
các vị thiền sinh bạn, tôi xin giới thiệu với quí vị một vị Bồ
tát của đời tôi, người đã cứu tôi thoát khỏi địa ngục. Vị Bồ
tát đó là người này, là vợ
tôi.
Ông nói được câu như vậy.
Sau khóa tu đó rồi thì có một ngày tu quán niệm cho bốn ngàn
người ở tại một trung tâm. Hai ông bà rất vui, rũ ba đứa con
sinh viên cùng tham dự ngày quán niệm. Xong ngày quán niệm rồi
ông bà mới lại chào và kể lại cho chúng tôi nghe những gì đã
xẩy ra trong mấy tuần vừa qua, sự chuyển hóa của gia đình, của
hai vợ chồng và ba đứa con.
Trong buổi nói chuyện với đồng bào, tôi nói rằng:
người ta là đạo Công giáo, người ta chưa quy y, chưa thọ giới,
người ta đi tu có sáu ngày thôi mà họ đã đạt được kết quả như
vậy, hòa giải được giữa hai vợ chồng, hòa giải được giữa người
chồng và các con thì mình là người Phật tử chắc chắn mình cũng
làm được như vậy, ít nhất cũng bằng vậy. Chúng ta không để cho
tình trạng khổ đau kéo dài, chúng ta đừng để địa ngục giam hãm
cuộc đời ta. Chúng ta có pháp môn, chúng ta có chìa khóa để mở
cửa địa ngục, phá địa ngục. Chìa khóa đó là ái ngữ, là lắng
nghe. Lắng nghe để hiểu được những khổ đau, những khó khăn.
Nhìn lại để thấy được những khó khăn, những khổ đau của người
mình thương. Mình nhìn bằng con mắt từ bi, mình nghe bằng lỗ
tai từ bi, mình giúp nhau điều chỉnh lại những nhận thức sai
lầm mà mình có về nhau, mình đã hiểu lầm nhau. Do mình hiểu
lầm nhau nên mình coi nhau như thù nghịch. Vì vậy xin các vị
thiền sinh, nhất là các bạn trẻ trong khóa tu này làm sao học
và nắm cho được phương pháp ái ngữ và lắng nghe. Không khó lắm
đâu, làm được!
Tôi nhớ có một khóa tu ở miền Bắc nước Đức dành cho sáu trăm
người Đức. Tới cuối ngày tu thứ năm, sau khi đã học chuyện ái
ngữ, lắng nghe, buông thư, ôm ấp và nhận diện khổ đau thì tôi
mới ra một bài tập là:
Thưa
quí vị thiền sinh, từ giờ này đến mười hai giờ khuya ngày hôm
nay, quí vị đem áp dụng liền những gì mà quí vị học để hòa
giải với những người thân mà quí vị đang khó khăn. Quí vị được
phép sử dụng điện thoại di động để thực tập ái ngữ và lắng
nghe. Xin quí vị áp dụng phương pháp lắng nghe và ái ngữ để
hòa giải cho được với những người thân mà quí vị có khó khăn
và hạn chót là mười hai giờ khuya đêm nay.
Trong khóa tu thường thường không có được đọc sách, không có
được coi ti vi, không được nghe radio, không được nghe nhạc,
không được sử dụng điện thoại là để cho có thì giờ hạ thủ công
phu vào trong khóa tu, còn nếu mình sử dụng radio, điện thoại,
mp3, máy vi tính, mạng lưới thì làm sao mà tu được thì cho nên
phải dẹp hết những thứ đó mới tu được.
Sáng hôm sau, có bốn người Đức khoảng từ ba mươi đến bốn mươi
tuổi lên báo cáo là tối hôm qua họ đã dùng điện thoại di động,
họ thực tập lắng nghe và ái ngữ, họ đã hòa giải được với ba
của họ. Họ nói:
lạ
quá con không ngờ rằng con có thể nói với ba con bằng những
lời nói nhẹ nhàng và dịu dàng như vậy. Trước khóa tu con không
nghĩ rằng con nói được những lời ái ngữ như vậy, chỉ năm ngày
tu thôi mà tâm con dịu đi, trận mưa đã làm thấm ướt mảnh đất
tâm của con và tự nhiên con có khả năng nói được những lời nói
dịu dàng. Con đã gỡ ra được và ba con với con đã hòa giải với
nhau. Con xin báo tin để cho Thầy mừng.
Và tôi biết chắc chắn có người khác cũng làm được như vậy
nhưng họ mắc cỡ, họ không dám lên báo cáo thôi. Tôi cũng còn
nhớ khóa tu ở Macao, Hồng Kông có một bà sau khi thực tập báo
cáo đã dùng điện thoại hòa giải được với con, hòa giải được
với chồng nhờ phương pháp lắng nghe và ái ngữ.
Mình phải thở, phải buông thư và nhận diện những khổ đau trong
lòng của mình, phải nhìn cho kỹ, lắng nghe cho rõ để có thể
thương được người kia, khi đã thương rồi thì nói lời ái ngữ
rất là dễ dàng. Có một sự thật, sự thật hiễn nhiên là không
hiểu là không thể thương được. Phải hiểu những khó khăn, những
khổ đau, những bức xúc về những tri giác sai lầm của người
kia. Khi người kia có tri giác sai lầm mà mình trừng phạt cũng
không ích lợi gì, mình phải hiểu để tìm cách gỡ rối cho họ,
giúp họ điều chỉnh lại những tri giác sai lầm của họ. Và làm
sao giúp họ điều chỉnh lại những tri giác sai lầm của họ được
nếu mình không lắng nghe? Cho nên có thì giờ để lắng nghe
người kia rất là quan trọng.
Cha ngồi lắng nghe con hoặc con ngồi lắng nghe cha:
Ba
ơi, ba có những bức xúc, những khó khăn, những khổ đau lâu
ngày mà ba không nói ra được, do đó ba khổ rất nhiều và ba đã
làm khổ má. Con đâu muốn ba khổ, trong quá khứ có lần con đã
cứng đầu, con đã phản ứng, con đã thách đố ba là cũng tại vì
con dại dột, con chưa thấy những khổ đau, khó khăn của ba, con
hối hận lắm. Ba nói cho con nghe đi để con có thể hiểu và
thương ba hơn.
Nếu mình nói được như vậy thì ba mình sẽ nói cho mình nghe
những khó khăn, những khổ đau. Trong khi mình lắng nghe mình
mới thấy được ba mình có những điểm sai, những chỗ sai rồi vài
tuần sau mình dùng cách khéo léo, cung cấp cho ba những dữ
kiện, những thông tin giúp cho ba điều chỉnh lại nhận thức của
ba để ba hết giận, ba hết buồn. Hiểu lầm là chuyện cơm bửa,
phải giúp nhau điều chỉnh nhận thức, tri giác sai lầm.
Đức Thế Tôn dạy tất cả những khổ đau của ta đều phát xuất từ
vọng tưởng, vọng tưởng tức là tri giác sai lầm. Trong tâm
kinh có dùng chữ viễn ly, điên đảo, vọng tưởng. Viễn ly là xa
lìa. Điên đảo là chống ngược lại, trắng cho là đen, đen cho là
trắng, cao nói là thấp, thấp nói là cao. Vọng tưởng tức là tri
giác sai lầm, tưởng là tri giác, vọng là sai lầm. Trong ta có
vọng tưởng, có tri giác sai lầm, trong người ta thương cũng có
vọng tưởng, cũng có tri giác sai lầm và vì những vọng tưởng,
vì những tri giác sai lầm mà ta làm khổ nhau cho nên mình yêu
ai, mình thương ai phải giúp cho người kia điều chỉnh những
tri giác sai lầm của họ, lấy ra khỏi họ những cái vọng tưởng.
Mà mình phải tự lấy vọng tưởng của mình ra và đôi khi mình còn
cầu cứu người kia giúp cho mình để mình có thể lấy tri giác
sai lầm của mình ra nữa.
Thương là hiến tặng niềm vui và hạnh phúc
Ở bên tiểu bang California có một anh chàng rất là đẹp trai,
tốt nghiệp đại học, thông minh, ra làm giám đốc một hãng lớn,
lương rất cao, nhà cửa rất là đẹp và có nhiều bạn gái rất là
xinh đẹp. Nhưng bà mẹ, bà quan sát thì bà thấy thấy anh chàng
này đặc biệt chú ý tới một cô, theo bà cô này đâu phải xinh
nhất đâu? Có nhiều đứa rất là ngộ, rất là xinh mà nó không để
ý, nó chỉ để ý cô này, cái cô hơi đen và hơi thấp một chút.
Bữa đó bà nói chuyện, tâm sự với con:
con
ơi, má thấy nhiều đứa ngộ quá, đẹp quá, xinh quá mà tại sao
con không để ý đến mà để ý đến con nhỏ này.
Anh chàng không trả lời được. Nhưng sau đó (ngủ một đêm),
trong buổi ăn sáng, anh ta tìm ra câu trả lời:
Má
ơi, tại vì nó hiểu con đó má.
Anh ta là nhà khoa học nhưng anh ta cũng ưa làm thơ và mỗi khi
đọc thơ cho bạn nghe thì chính cô nàng này lắng nghe và nói ra
những câu chứng tỏ đã hiểu được rất sâu sắc tình cảm, tư duy
của anh ta. Anh ta tìm được người tri kỷ, tìm được người hiểu
mình. Cô bạn gái đó, tuy da không trắng (hơi ngâm ngâm đen),
không xinh bằng mấy cô khác nhưng cô này hiểu được mình, là
người sẽ mang lại cho mình nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Câu này là tôi nói cho những người trẻ. Phải cẩn thận, đừng để
bóng dáng bên ngoài đánh lừa mình, đừng bị bằng cấp xã hội hay
bóng sắc bên ngoài đánh lừa mình, phải nhìn cho kỹ, coi người
kia có khả năng hiểu được mình hay không? Mình chọn được bạn
đường trăm năm là vấn đề rất quan trọng. Khi mình nói chuyện
với một người mà người đó luôn luôn cắt lời mình, không chịu
lắng nghe mình thì mình biết rằng nếu mình lấy anh chàng đó
hay cô nàng đó thì mình sẽ khổ suốt đời, đó là án chung thân
khổ sai. Điều đó có khó gì đâu, chỉ cần chú ý một chút là
biết. Người không có khả năng lắng nghe mình, người không có
khả năng hiểu được mình chỉ có thể làm mình khổ suốt đời mà
thôi. Dầu người đó có tiền bạc, có danh vọng, có địa vị lớn
trong xã hội, người đó cũng sẽ làm khổ mình và các con của
mình sau này thôi. Cho nên phải để ý, phải chọn người có khả
năng hiểu được mình và biết lắng nghe mình. Đó là điều kiện
căn bản để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Khi mình thương ai, mình đâu có muốn làm cho người đó khổ,
thương có nghĩa là đem hạnh phúc lại cho người đó, thương mà
làm cho người ta khổ thì đâu phải là thương. Thương tức là
hiến tặng niềm vui và hạnh phúc và làm sao có thể hiến tặng
cho người kia hạnh phúc khi mình không hiểu người kia? Cha
muốn thương con là phải hiểu con mà con muốn thương cha là
phải hiểu cha. Mình thương ai mình phải tới người đó và mình
phải hỏi câu này:
Anh
ơi, anh có nghĩ rằng em đã hiểu được anh chưa? Em đã thấy được
những khổ đau, những bức xúc, những ước mơ của anh chưa? Nếu
chưa thì anh dạy cho em đi. Anh biết rất rõ là nếu em không
thấy được những khó khăn, những khổ đau, những bức xúc, những
ước mơ của anh thì làm sao em có thể thương anh, làm cho anh
hạnh phúc được? Nói cho em nghe đi là em có hiểu anh phần nào
chưa?
Trong liên hệ tình yêu mình phải có khả năng hỏi những câu như
vậy và cha mẹ mình cũng có khả năng hỏi những câu như vậy.
Người vợ hỏi chồng:
Anh
ơi, anh có nghĩ rằng em đã hiểu được anh chưa? Em có thể là
người bạn đường, người bạn đồng hành của anh không, có xứng
đáng không? Nếu em chưa hiểu anh thì anh giúp em đi.
Lời nói rất là quan trọng. Nếu má chưa nói được câu nói đó với
ba câu đó thì khuyên má nói câu đó với ba đi. Có thể chưa trễ
lắm đâu, câu nói đó rất là hay. Khi mình thương thật sự thì
mình phải có khả năng nói câu nói đó, đặt câu hỏi đó. Tại vì
không hiểu được thì không thể nào thương và làm hạnh phúc cho
người kia được, rõ ràng là như vậy.
***
Ngày hôm nay có pháp đàm, mình sẽ pháp đàm về nghệ thuật lắng
nghe và ái ngữ. Lắng nghe và ái ngữ là những chìa khóa mở cửa
hiểu và thương, giúp cho mình và giúp cho người kia điều chỉnh
lại những tri giác sai lầm về nhau. Một sự thật rất đơn giản:
không hiểu thì không thương được.
Trong khóa tu, cái mình phải học trước hết là lấy khỏi thân
tâm của mình những căng thẳng, những dồn nén, những bức xúc,
phải buông thư thân và tâm. Và cái thứ hai mình phải học là
nhận diện những khổ đau đang có mặt trong mình, những giận
hờn, những buồn tủi, những tuyệt vọng, những cái ganh tỵ, sợ
hãi trong con người của mình. Trong chúng ta người nào cũng có
hạt giống của sợ hãi, của khổ đau, của tuyệt vọng, của ganh
tỵ. Mình phải có khả năng nhận diện và ôm ấp những nỗi khổ,
niềm đau đó để làm cho nó nhẹ bớt, giống như là đứa con của
mình, khi nó khóc, nó đau, mình phải nhẹ nhàng ôm nó vào lòng
để cho nỗi khổ niềm đau của đứa bé êm dịu lại. Đây cũng là một
nghệ thuật. Khi cái buồn, cái giận bắt đầu trào lên, mình phải
biết cách xử lý, nếu mình không biết cách xử lý, mình sẽ nói
và làm với áp lực của cái buồn, cái giận của mình thì tan vỡ
hết. Cho nên phải sử dụng hơi thở và bước chân để nhận diện và
ôm ấp cái buồn, cái giận của mình, nhìn sâu vào trong lòng nó,
làm dịu cho nó xuống.
Lắng
dịu những nỗi khổ niềm đau
Trong Kinh An Ban Thủ Ý (Quán Niệm Hơi Thở) có một bài tập về
phương pháp lắng dịu những cảm xúc của mình như là giận, buồn
hay là tủi.
Thở vào tôi nhận diện được cảm xúc trong tôi.
Thở ra tôi làm lắng dịu những cảm xúc trong tôi.
Đó là bài tập thứ bảy mà Đức Thế Tôn đề nghị trong kinh Quán
Niệm Hơi Thở. Khi nào mình có cái giận, cái buồn, cái lo, cái
sợ thì đó là cảm xúc. Mình thở vào, mình phải nhận diện cái
cảm xúc đó và nhờ năng lượng chánh niệm nên mình có thể nhận
diện được cảm xúc đó.
Vậy chánh niệm là gì? Chánh niệm là năng lượng rất là lành,
rất là tốt mà chúng ta chế tác trong khi chúng ta thực tập.
Khi chúng ta đi chúng ta ý thức được từng bước chân gọi là đi
trong chánh niệm. Khi chúng ta thở, chúng ta ý thức được từng
hơi thở, đó là thở trong chánh niệm. Khi uống trà và ý thức
được mình đang uống trà gọi là uống trà trong chánh niệm. Khi
ăn cơm biết mà biết mình đang ăn cơm, biết những gì đang xẩy
ra, gọi là ăn cơm trong chánh niệm. Khi mình thực tập như vậy
thì năng lượng chánh niệm bảo hộ mình và khi mình giận mà mình
biết là mình giận đó là chánh niệm về giận. Cái giận là một
năng lượng có tính cách phá hoại còn chánh niệm là năng lượng
có khả năng nhận diện và ôm ấp làm cho nó lắng dịu xuống.
Tu là gì? Tu là chế tác năng lượng chánh niệm bằng cách thở,
bằng cách ngồi, bằng cách đi. Với năng lượng chánh niệm mình
có thể nhận diện, ôm ấp được nỗi khổ, niềm đau của mình và làm
cho nó dịu xuống. Cũng như một bà mẹ khi thấy hài nhi nó khóc
thì dịu dàng ôm nó vào lòng, năng lượng của bà mẹ nó từ từ đi
vào trong con người của em bé để em bé bớt khổ. Ở đây cũng
vậy, chánh niệm như bà mẹ và niềm đau của mình như là hài nhi,
chánh niệm ôm lấy hài nhi và trong mười phút hay mười lăm phút
thì tự nhiên nỗi khổ, niềm đau của hài nhi sẽ bớt đi. Đó là
bài tập thứ bảy trong kinh Quán Niệm Hơi Thở.
Thở vào tôi nhận diện nỗi khổ, niềm đau trong tôi
Thở ra tôi ôm lấy nỗi khổ, niềm đau trong tôi và làm cho nó
dịu xuống.
Giống hệt như bài tập thứ ba:
Thở vào tôi có ý thức về hình hài tôi và những căng thẳng
Thở ra tôi buông bỏ những căng thẳng ở trong tôi
Một bên là về thân, một bên là về tâm. Giáo lý của Đức Thế Tôn
rất là khoa học. Hiện giờ các nhà trị liệu ở Tây phương bắt
đầu chú ý tới giáo lý này và họ đã đem ra áp dụng. Mỗi khi
mình giận, mình buồn, mình đừng có gì hết, đừng có hành động
gì hết tại vì nói và làm trong những tâm hành đó sẽ gây đổ vỡ.
Những lúc đó là những lúc mình phải trở về để thực tập hơi thở
và bước chân để nhận diện những nỗi khổ, niềm đau, ôm ấp nó và
làm cho nó lắng dịu xuống. Đây là bài học thứ hai và phải làm
cho được trong khóa tu. Bà Công giáo đó làm được cho nên bà
mới thành công.
Cái thứ ba mình phải học được là lắng nghe và ái ngữ để có thể
thiết lập được truyền thông và hòa giải được với người thương.
Dễ gì có khóa tu mà trong đó mình học được nhiều phương pháp
rất là cụ thể như vậy. Cho nên khóa tu là một cơ hội lớn. Mình
phải để thì giờ học hỏi và nắm cho được những phương pháp thực
tập căn bản đó. Chúng ta chia ra thành nhiều gia đình để pháp
đàm (đừng có nói chuyện trên trời dưới biển, đừng có nói
chuyện giáo lý quá thâm uyên), hãy để thì giờ tập trung vào
những vấn đề thực tế, thiết yếu:
Làm
thế nào để nhận diện, ôm ấp những nỗi khổ, niềm đau, làm cho
lắng dịu lại? Làm thế nào để thành công trong sự thực tập ái
ngữ và lắng nghe?
Tâm hành giác là ngôn từ hơi xưa trong kinh. Tâm hành giác tức
là nhận diện tâm hành của mình. Tâm hành đây tức là nỗi khổ,
niềm đau. Thở vào nhận diện những cơn giận, cơn buồn của mình.
Khi thở ra thì gọi là an tịnh tâm hành. Dịch theo ngôn ngữ mới
là làm lắng dịu những nỗi khổ, niềm đau đó.
Thở
vào tôi ý thức nỗi khổ, niềm đau đang có mặt trong tôi.
Thở
ra ôm ấp và làm lắng dịu lại những nỗi khổ, niềm đau đang có
mặt trong tôi.
Trong khi đi thiền hành hay ngồi thiền thì mình thực tập như
vậy. Đưa tới sự lắng dịu rất là quan trọng và chúng ta phải
nắm cho được. Ngày mai sẽ tiếp tục bài pháp thoại.
------------------------
Chú thích:
[1] Giáo trình
Thực tập chánh niệm để duy trì hạnh phúc vững bền trong đời
sống lứa đôi:
- Nhận diện những cảm thọ hạnh phúc hay đau khổ nơi tự thân
hay nơi người kia.
- Biết cách chấp nhận và xử lý những cảm thọ bằng cách quán
chiếu bản chất, nền tảng và nguồn gốc của chúng.
- Chế tác hạnh phúc từ những chất liệu nuôi dưỡng có mặt trong
tự thân cũng như chung quanh trong từng giây phút.
- Nhìn sâu vào gốc rễ của mình và của người kia để hiểu được
nguồn gốc của cách hành xử của mình và của người kia.
- Nhận ra được những hạt giống thiện và bất thiện trong tâm
thức mình và trong tâm thức người kia. Và quyết tâm thực tập
pháp môn tưới hoa cho những cách suy tư, nói năng và tiêu thụ
tốt của người kia.
- Lắng nghe với lòng từ bi để nhận diện và thấu hiểu những đau
khổ cũng như hạnh phúc nơi chính mình và nơi người kia.
- Thực tập pháp môn Làm Mới để tái lập và gia tăng phẩm chất
truyền thông.
- Nhận diện và thường xuyên xét lại những tâm nguyện và lý
tưởng riêng cũng như chung của mỗi người.
- Thực tập pháp môn Tứ vô lượng tâm.
Để đào sâu tuệ giác và kỹ năng đạt được trong khóa học này,
sau khi có chứng chỉ học viên có thể xin học tiếp các môn học
sau:
- Tứ Vô Lượng Tâm - Thương yêu theo phương pháp Bụt dạy.
- Phương pháp đối trị với tâm hành “giận” và với những cảm xúc
đau đớn và mãnh liệt khác.
- Phương thức giải quyết “xung đột” và thiết lập “truyền
thông”.
- Kinh An ban thủ ý - Hơi thở của Bụt.
- Kinh Người áo trắng - Quay về nương tựa Tam bảo; Thực tập
Ngũ giới; Bốn phép Tùy niệm.
- Tìm hiểu về Dòng tu Tiếp hiện: Lịch sử; Hiến chương; 14
giới; Đạo Bụt dấn thân.
Bài
kế :
Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương (3)
|